Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Giáo trình hình thành tư duy thế giới phẳng như thế nào trong quan niệm tư duy của cộng đồng p6 doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.6 KB, 10 trang )

MƯỜI LỰC LÀM PHẲNG THẾ GIỚI


51

và kiểm soát đã đẩy chúng tôi xuống dốc đến điểm chúng tôi đã chỉ
có 1 tỉ $ ngoại tệ. Ngày nay chúng tôi có 118 tỉ $… Chúng tôi đã đi
từ sự tự tin trầm lặng đến hoài bão mãnh liệt trong một thập kỉ”.
Sự sụp đổ Tường Berlin đã không chỉ giúp làm phẳng các lựa
chọn khả dĩ cho chủ nghĩa tư bản thị trường tự do và cởi trói cho
những năng lực to lớn bị dồn nén đối với hàng triệu người ở các
nơi như Ấn Độ, Brazil, Trung Quốc, và Đế chế Soviet trước đây.
Nó cũng cho phép chúng ta nghĩ về thế giới khác đi – nhìn nó như
một toàn thể không có vết khâu nối. Bởi vì Tường Berlin đã không
chỉ chặn đường chúng ta; nó đã chặn tầm nhìn của chúng ta- khả
năng của chúng ta để nghĩ về thế giới như một thị trường đơn nhất,
một hệ sinh thái đơn nhất, một cộng đồng đơn nhất. Trước 1989, đã
có thể có một chính sách phương Đông hay chính sách phương
Tây, song khó để nghĩ về có một chính sách ‘toàn cầu’. Amartya
Sen, nhà kinh tế Ấn Độ đoạt giải Nobel bây giờ dạy ở Harvard, một
lần đã lưu ý tôi rằng “Tường Berlin đã không chỉ là một biểu tượng
về giữ người dân ở bên trong Đông Đức – nó đã là cách ngăn cản
một loại tầm nhìn toàn cầu về tương lai của chúng ta. Chúng ta
không thể tư duy về thế giới một cách toàn cầu khi Tường Berlin
còn đó. Chúng ta không thể nghĩ về thế giới như một tổng thể”. Có
một câu chuyện thú vị tiếng Sanskrit, Sen nói thêm, về một con ếch
sinh ra trong một cái giếng, ở đó và sống suốt đời trong giếng ấy.
“Nó có một thế giới quan bao gồm cái giếng”, ông nói. “Đối với
nhiều người trên hành tinh đó là cái thế giới đã giống như trước khi
bức tường sụp đổ. Khi tường sụp đổ, nó giống như con ếch trong
giếng đột nhiên có khả năng liên lạc với những con ếch ở các giếng


khác … Nếu tôi ca tụng sự sụp đổ bức tường, chính là vì tôi tin
chắc rằng chúng ta có thể học từ nhau nhiều đến thế nào. Hầu hết
tri thức là học được từ người khác qua biên giới”.
Vâng, thế giới trở thành chỗ tốt hơn để sống sau 9/11, vì mỗi sự
bùng phát tự do kích thích một sự bùng phát khác, và bản thân quá
trình đó có một tác động làm phẳng qua các xã hội, củng cố những
người ở dưới và làm yếu những kẻ ở trên. “Quyền tự do của phụ
nữ”, Sen lưu ý, nêu chỉ một thí dụ, “thúc đẩy phụ nữ biết đọc biết
viết, có xu hướng giảm sinh đẻ và tỉ lệ chết trẻ em và tăng các cơ
hội việc làm cho phụ nữ, rồi ảnh hưởng đến đối thoại chính trị và
cho phụ nữ cơ hội có vai trò lớn hơn trong tự quản địa phương”.
THẾ GIỚI LÀ PHẲNG


52


Cuối cùng, sự đổ tường đã không chỉ mở đường cho nhiều người
hơn để khai thác quỹ tri thức của nhau. Nó cũng mở đường cho
chấp nhận các tiêu chuẩn chung- các tiêu chuẩn về nền kinh tế nên
được điều hành ra sao, kế toán nên được làm thế nào, hoạt động
ngân hàng nên được quản lí ra sao, các máy PC được sản xuất thế
nào, và các bài báo kinh tế nên được viết ra sao. Tôi sẽ thảo luận
điều này muộn hơn, song ở đây là đủ để nói rằng các tiêu chuẩn
chung tạo ra một sân chơi phẳng hơn, bằng hơn. Diễn đạt theo cách
khác, sự đổ tường làm tăng sự di chuyển tự do của các tập quán tốt
nhất. Khi một tiêu chuẩn kinh tế hay kĩ thuật nổi lên và tự chứng tỏ
mình trên vũ đài thế giới, nó được chấp nhận nhanh hơn nhiều sau
khi bức tường không còn ngăn cản. Chỉ riêng ở châu Âu, tường đổ
đã mở đường cho sự hình thành Liên Minh Châu Âu và sự mở rộng

nó từ mười lăm thành hai mươi lăm nước. Điều đó, kết hợp với sự
xuất hiện của euro như một đồng tiền chung, đã tạo ra một khu vực
kinh tế đơn nhất từ một vùng một thời bị bức Màn Sắt chia cắt.
Trong khi các ảnh hưởng tích cực của sự đổ tường đã rõ ngay,
nguyên nhân gây ra nó vẫn chưa rõ lắm. Đã không có một nguyên
nhân đơn nhất. Ở mức độ nào đấy chính các con mối đã ăn ruỗng
nền móng của Liên Xô, hệ thống đã bị các mâu thuẫn nội tại riêng
và tính phi hiệu quả của nó làm suy yếu rồi; mức độ nào đó sự tích
tụ quân sự của chính quyền Reagan ở Châu Âu đã buộc Kremlin tự
phá sản do chi cho các đầu đạn; và ở mức độ nào đó các cố gắng
bất lực của Mikhail Gorbachev để cải cách cái không thể cải cách
nổi đã kết liễu chủ nghĩa cộng sản. Song nếu tôi phải chỉ ra một yếu
tố như cái đầu tiên giữa những cái ngang nhau, đó là cách mạng
thông tin bắt đầu vào đầu đến giữa các năm 1980. Các hệ thống
toàn trị phụ thuộc vào sự độc quyền thông tin và vũ lực, và có quá
nhiều thông tin bắt đầu tuột qua bức Màn Sắt, nhờ sự phổ biến của
các máy fax, điện thoại, và các công cụ truyền thông hiện đại khác.
Một khối lượng tới hạn của các máy PC IBM, và hệ điều hành
Windows đã đưa chúng vào cuộc sống, đến cùng nhau khoảng cùng
thời kì mà bức tường đổ, và sự phổ biến của chúng đã đóng đinh
vào quan tài của chủ nghĩa cộng sản, bởi vì chúng cực kì cải thiện
truyền thông theo chiều ngang – có hại cho chính hình thức từ trên
xuống mà chủ nghĩa cộng sản dựa vào. Chúng cũng tăng cường
mạnh mẽ việc cá nhân thu thập thông tin và sự trao quyền cho cá
nhân. (Mỗi thành tố của cách mạng thông tin này do những tiến hoá
MƯỜI LỰC LÀM PHẲNG THẾ GIỚI


53


tách rời gây ra: mạng điện thoại tiến hoá từ mong muốn của người
dân nói chuyện với nhau từ xa. Máy fax tiến hoá như cách để
truyền thông văn bản trên mạng điện thoại. Máy tính cá nhân được
các (trình) ứng dụng sát thủ [killer apps]
*
- bảng tính và xử lí văn
bản. Và Windows tiến hoá từ nhu cầu biến tất cả các thứ này thành
có thể dùng được và lập trình được bởi đại chúng).
Máy IBM PC đầu tiên vớ được thị trường năm 1981. Cùng lúc
đó, nhiều nhà khoa học máy tính khắp thế giới bắt đầu sử dụng các
thứ gọi là Internet và e-mail. Phiên bản Windows đầu tiên được bán
năm 1985, và phiên bản đột phá thực tế làm cho PC thật sự thân
thiện với người dùng –Windows 3.0 - được xuất bán ngày 22-5-
1990, chỉ sáu tháng sau khi bức tường sụp đổ. Trong cùng thời kì
này, một số người khác các nhà khoa học bắt đầu phát hiện ra rằng
nếu họ mua một PC và một dial-up modem, họ có thể kết nối PC
của họ với điện thoại và chuyển e-mail qua các nhà cung cấp dịch
vụ Internet tư nhân – như Compuserve và America Online.
“Sự phổ biến của máy tính cá nhân, máy fax, Windows, và dial-
up modem nối với mạng điện thoại toàn cầu tất cả đến cùng nhau
vào cuối các năm 1980 và đầu các năm 1990 để tạo ra nền cơ bản
khởi động cách mạng thông tin toàn cầu,” Craig J. Mundie, tổng
giám đốc kĩ thuật của Microsoft, lập luận. Mấu chốt là sự hợp nhất
của tất cả chúng lại thành một hệ thống tương hoạt [có thể hoạt
động với nhau] duy nhất. Điều đó xảy ra, Mundie nói, một khi
chúng ta có một nền tính toán được chuẩn hoá ở dạng thô – máy
IBM PC – cùng với một giao diện người dùng đồ hoạ chuẩn hoá
cho xử lí văn bản và bảng tính - Windows – cùng với một công cụ
truyền thông chuẩn hoá – dial-up modem và mạng lưới điện thoại
toàn cầu. Một khi ta có nền tương hoạt cơ bản đó, thì các trình ứng

dụng sát thủ đẩy sự phổ biến của nó rộng khắp mọi nơi.
“Người dân thấy rằng họ thực sự thích làm tất cả những thứ này
trên một máy tính, và họ thật sự cải thiện năng suất,” Mundie nói.
“Tất cả chúng có sự hấp dẫn cá nhân rộng rãi và khiến cá nhân
người dân đứng dậy và mua một PC có thể chạy Windows và đặt
trên bàn của họ, và điều đó buộc sự truyền bá nền tính toán mới
này vào thế giới tính toán công ti còn nhiều hơn nữa. Người ta nói,
‘Chà, có một vật quý ở đây, và chúng ta phải tận dụng nó’.”

*
Tiếng lóng của dân tin học chỉ các trình ứng dụng được rất nhiều người dùng
như Word, Excel, hay browser của Netscape, hay Google chẳng hạn.
THẾ GIỚI LÀ PHẲNG


54


Windows được củng cố càng trở thành hệ điều hành hàng đầu,
Mundie nói thêm, “càng có nhiều người lập trình đi viết các ứng
dụng cho thế giới kinh doanh giàu có để đưa vào máy tính của họ,
cho nên họ có thể làm nhiều việc kinh doanh mới và khác, điều đó
bắt đầu làm tăng năng suất còn hơn nữa. Hàng chục triệu người
trên khắp thế giới trở thành các lập trình viên để khiến PC làm mọi
thứ họ muốn bằng ngôn ngữ riêng của họ. Windows cuối cùng đã
được dịch ra ba mươi tám ngôn ngữ. Người dân có khả năng làm
quen với PC bằng ngôn ngữ của chính mình”.
Đấy là hoàn toàn mới và lí thú, nhưng chúng ta không được quên
nền PC-Windows ban đầu này đã nông cạn đến thế nào. “Nền này
bị ràng buộc bởi quá nhiều giới hạn kiến trúc,” Mundie nói. “Đã

thiếu hạ tầng cơ sở”. Internet như chúng ta biết ngày nay - với các
giao thức truyền dường như có phép màu, có thể kết nối mọi người
và mọi thứ - vẫn chưa nổi lên. Quay lại hồi đó, các mạng đã chỉ có
các giao thức rất hạn chế để trao đổi file và các thông điệp e-mail.
Cho nên những người dùng các máy tính với cùng loại hệ điều
hành và phần mềm có thể trao đổi tài liệu qua e-mail hay chuyển
file, nhưng ngay cả làm việc này cũng khá rắc rối nên chỉ có giới
ưu tú tin học mới chịu khó. Bạn đã không thể đơn giản ngồi xuống
và vèo một e-mail hay một file cho bất cứ ai ở bất cứ đâu- đặc biệt
ở bên ngoài công ti của chính bạn hay ngoài dịch vụ Internet riêng
của bạn- cách mà bạn có thể làm hiện nay. Đúng, những người
dùng AOL có thể liên lạc với những người dùng CompuServe,
nhưng việc đó đã chẳng đơn giản cũng không tin cậy. Kết quả là,
Mundie nói, một lượng dữ liệu và sáng tạo khổng lồ đã tích tụ
trong tất cả các máy tính đó, song đã không có cách dễ dàng, tương
hoạt nào để chia sẻ nó và nhào nặn nó. Người ta đã có thể viết các
ứng dụng mới cho phép các hệ thống được chọn để hoạt động cùng
nhau, nhưng nói chung điều này chỉ giới hạn cho những trao đổi dự
kiến giữa các PC bên trong mạng của một công ti đơn nhất.
Giai đoạn này từ 9/11 đến giữa 1990 vẫn dẫn đến sự tiến bộ to
lớn về trao quyền cá nhân, cho dù mạng còn hạn chế. Đó là thời kì
của “Tôi và máy của tôi bây giờ có thể nói chuyện với nhau tốt hơn
và nhanh hơn, nên cá nhân tôi có thể làm nhiều việc hơn” và thời kì
của “Tôi và máy của tôi bây giờ có thể nói chuyện với vài bạn bè
và vài người trong công ti của tôi tốt hơn và nhanh hơn, nên chúng
tôi có kết quả hơn”. Các bức tường đã sụp đổ và các cửa sổ-
MƯỜI LỰC LÀM PHẲNG THẾ GIỚI


55


Windows- đã mở, làm cho thế giới phẳng nhiều hơn bao giờ hết –
nhưng thời đại của truyền thông toàn cầu suôn sẻ vẫn chưa rạng.
Tuy ta không để ý đến nó, đã có một nốt chối tai trong thời đại
mới lí thú này. Đã không chỉ có người Mĩ người Âu cùng với người
dân của Đế chế Soviet tán dương sự sụp đổ tường – và đòi công
cho việc đó. Ai đó khác đã nâng li – không phải sâm banh mà là cà
phê Thổ đặc. Tên hắn là Osama bin Laden và hắn có một chuyện
kể khác. Quan điểm của hắn là các tay súng jihad ở Afghanistan,
mà hắn là một, là người đã hạ bệ Đế chế Soviet bằng buộc Hồng
Quân rút khỏi Afghanistan (với sự giúp đỡ của Mĩ và Pakistan). Và
một khi sứ mạng đó đã hoàn tất – những người Soviet hoàn tất việc
rút quân vào 15-2-1989, chỉ chín tháng trước khi Tường Berlin sụp
đổ - bin Laden ngó quanh và thấy rằng siêu cường kia, Hoa Kì, có
sự hiện diện to lớn ở quê hắn, Saudi Arabia, quê hương của hai
thành phố Islam thiêng liêng nhất. Và hắn không thích điều đó.
Như thế, trong khi nhảy múa trên bức tường [đổ] và mở
Windows của chúng ta và tuyên bố rằng không còn lựa chọn hệ tư
tưởng khả dĩ nào cho chủ nghĩa tư bản thị trường tự do nữa, bin
Laden quay súng của hắn ngắm vào Mĩ. Cả bin Laden và Ronald
Reagan đã coi Liên Xô như “đế chế ác quỷ”, nhưng bin Laden đi
đến nhìn Mĩ cũng là ác quỷ. Hắn đã có một lựa chọn hệ tư tưởng
khả dĩ cho chủ nghĩa tư bản thị trường tự do – Islam chính trị. Hắn
đã không cảm thấy bị sự chấm dứt của Liên Xô đánh bại; hắn cảm
thấy nó làm hắn bạo dạn. Hắn không cảm thấy hấp dẫn với sân chơi
được mở rộng; hắn cảm thấy bị nó cự tuyệt. Và hắn đã không phải
có một mình. Một số người nghĩ rằng Ronald Reagan đã kéo đổ
tường, bằng làm phá sản Liên Xô qua chạy đua vũ trang; những
người khác nghĩ IBM, Steve Jobs, và Bill Gates đã kéo đổ tường
bằng trao quyền cho các cá nhân tải tương lai xuống. Nhưng ở thế

giới khác, ở xứ Muslim, nhiều người nghĩ bin Laden và các đồng
chí của hắn đã kéo đổ Đế chế Soviet và bức tường với nhiệt huyết
tôn giáo, và hàng triệu người trong số họ được truyền cảm hứng để
tải quá khứ lên.
Tóm lại, trong khi chúng ta ca tụng 9/11, các hạt giống của một
ngày đáng nhớ khác- 11/9 – đã được gieo. Nhưng sẽ nói nhiều hơn
về điều đó muộn hơn trong cuốn sách này. Bây giờ, hãy để cho sự
làm phẳng tiếp tục.

THẾ GIỚI LÀ PHẲNG


56


LỰC LÀM PHẲNG # 2
9/8/95
Khi Netscape lên sàn [bán cổ phiếu lần đầu cho công chúng]

ào giữa các năm 1990, cách mạng mạng PC-Windows đã đạt
các giới hạn của nó. Nếu thế giới trở nên thực sự được kết nối,
và thực sự bắt đầu trải phẳng ra, cách mạng cần đi vào pha tiếp
theo. Và pha tiếp, Mundie của Microsoft lưu ý, “là đi từ một nền
tính toán dựa trên PC sang một nền tảng tính toán dựa vào
Internet”. Các ứng dụng sát thủ phát động pha mới này đã là e-mail
và trình duyệt Internet. E-mail được thúc đẩy bởi các portal [cổng]
tiêu dùng mở rộng nhanh chóng như AOL, CompuServe, và cuối
cùng MSN. Nhưng đã có killer app mới, trình duyệt Web – có thể
lấy các tài liệu hay các trang Web được chứa ở các Web site trên
Internet và hiển thị chúng trên bất cứ màn hình máy tính nào – cái

đó thực sự thu hút được trí tưởng tượng. Và khái niệm thực tế về
World Wide Web - một hệ thống để tạo ra, tổ chức, và liên kết các
tài liệu sao cho chúng có thể được duyệt một cách dễ dàng – đã
được nhà khoa học máy tính Anh Tim Berners-Lee tạo ra. Ông lập
Web site đầu tiên năm 1991, trong một nỗ lực để nuôi một mạng
máy tính cho phép các nhà khoa học chia sẻ dễ dàng nghiên cứu
của họ. Các nhà khoa học và nhà hàn lâm khác đã tạo ra một số
trình duyệt [browser] để lướt Web ban đầu này, nhưng browser chủ
đạo đầu tiên – và toàn bộ văn hoá duyệt Web cho quảng đại quần
chúng - được tạo ra bởi một công ti khởi nghiệp bé xíu ở Mountain
View, California, đợc gọi là Netscape. Netscape ra công chúng
ngày 9 tháng 8, 1995, và thế giới không còn giống như trước nữa.
Như John Doerr, nhà tư bản mạo hiểm huyền thoại mà hãng của
ông, Kleiner Perkins Caulfield & Byers, đã ủng hộ Netscape, diễn
đạt, “Netscape chào bán lần đầu cho công chúng [IPO] đã là một
tiếng gọi vang lảnh đối với thế giới để tỉnh dậy hướng tới Internet.
Cho đến khi ấy, nó chỉ là lãnh địa của những người cải biến ban
đầu và các tay cự phách”.
Pha do Netscape gây ra đã dẫn quá trình làm phẳng theo nhiều
hướng then chốt: Nó cho chúng ta browser thương mại phổ biến
rộng rãi đầu tiên để lướt Internet. Netscape browser đã không chỉ
làm cho Internet sống động mà còn khiến cho Internet có thể truy
cập được đối với mọi người từ đứa trẻ năm tuổi đến cụ già tám
V
MƯỜI LỰC LÀM PHẲNG THẾ GIỚI


57

mươi lăm tuổi. Internet càng sống động, càng nhiều người tiêu

dùng muốn làm các việc khác nhau trên Web, nên họ càng đòi hỏi
nhiều máy tính, phần mềm, các mạng viễn thông có thể dễ dàng số
hoá văn bản, âm nhạc, dự liệu, và ảnh và truyền chúng qua Internet
đến máy tính của bất kể ai khác. Nhu cầu này được thoả mãn bởi
một sự kiện xúc tác khác: Windows 95 trình làng, được giao tuần lễ
sau Netscape đưa cổ phiếu của nó ra công chúng. Windows 95 mau
chóng trở thành hệ điều hành được nhiều người dùng nhất khắp thế
giới, và không giống các phiên bản Windows trước, nó có sự hỗ trợ
Internet cài sẵn, cho nên không chỉ các browser mà tất cả các ứng
dụng PC có thể “biết về Internet” và tương tác với nó.
Nhìn lại, cái cho phép Netscape cất cánh đã là sự tồn tại, từ pha
sớm hơn, của hàng triệu PC, nhiều máy đã có sẵn modem rồi. Đó là
những cái vai mà Netscape đứng lên trên. Cái mà Netscape đã làm
là đưa ra một ứng dụng sát thủ mới – browser- cho số PC đã được
lắp đặt này, làm cho máy tính và tính kết nối của nó hữu ích hơn
một cách vốn có cho hàng triệu người. Đến lượt nó điều này làm
nổi bật một sự bùng nổ về cầu đối với mọi thứ digital [số] và châm
ngòi cơn sốt Internet, vì mọi nhà đầu tư nhìn vào Internet và kết
luận là nếu mọi thứ sẽ được số hoá - dữ liệu, kho hàng, thương mại,
sách, âm nhạc, ảnh, và giải trí – và được chuyển và bán trên
Internet, thì cầu với các sản phẩm và dịch vụ dựa vào Internet sẽ vô
tận. Điều này đã dẫn tới bong bóng cổ phiếu dot-com và một sự
đầu tư quá mức vào cáp quang cần để chuyển tải tất cả thông tin số
mới. Sự phát triển này, đến lượt nó, đã nối dây toàn bộ thế giới lại
với nhau, và, không có ai thực sự dự kiến, đã biến Bangalore thành
ngoại ô của Boston.
Hãy nhìn vào mỗi trong những tiến triển này.


hi tôi ngồi với Jim Barksdale, nguyên CEO của Netscape, để

phỏng vấn ông cho cuốn sách này, tôi đã giải thích cho ông
rằng một trong các chương trước là về mười đổi mới, sự kiện, và xu
hướng đã làm phẳng thế giới. Sự kiện đầu tiên, tôi bảo ông, là 9/11,
và tôi giải thích tầm quan trọng của ngày đó. Rồi tôi nói, “Để tôi
xem nếu ông có thể phỏng đoán tầm quan của ngày thứ hai, 9/8.
Tất cả cái tôi nói cho ông là: 9/8. Chỉ cần một giây để Barksdale
K

THẾ GIỚI LÀ PHẲNG


58


suy nghĩ trước khi phóng lại với câu trả lời đúng: “Ngày Netscape
lên sàn, ra công chúng!”
Ít ai tranh cãi rằng Barksdale là một trong những nhà khởi nghiệp
Mĩ vĩ đại. Ông đã giúp Federal Express phát triển hệ thống theo dõi
và tìm vết bưu kiện của nó, sau đó chuyển sang McCaw Cellular,
một công ti điện thoại di động, dựng nó lên, và trông coi sự hợp
nhất của nó với AT&T năm 1994. Đúng trước khi việc bán kết
thúc, một head-hunter [người kiếm người tài] tiếp cận ông mời làm
CEO của một công ti mới gọi là Mosaic Communications, được lập
bởi hai nhà đổi mới huyền thoại – Jim Clark và Marc Andreessen.
Giữa 1994, Clark, đồng sáng lập của Silicon Graphics, đã chung
sức với Andreessen để thành lập Mosaic, công ti mau chóng được
đổi tên là Netscape Communications. Andreessen, một nhà khoa
học máy tính trẻ tài ba, đã vừa dẫn đầu một dự án phần mềm nhỏ ở
NCSA [Trung tâm Quốc gia về các Ứng dụng Siêu tính- National
Center for Supercomputing Applications], đặt tại Đại học Illinois,

đã phát triển Web browser có kết quả thực sự đầu tiên, cũng được
gọi là Mosaic. Clark và Andreessen nhanh chóng hiểu được tiềm
năng khổng lồ của phần mềm duyệt Web và quyết định hợp tác để
thương mại hoá nó. Khi Netscape bắt đầu lớn, họ với tới Barksdale
vì sự dẫn dắt và sự thấu hiểu cách hay nhất ra công chúng thế nào.
Ngày nay chúng ta coi công nghệ browser này là dĩ nhiên, nhưng
thực sự nó là một trong những sáng chế quan trọng nhất trong lịch
sử cận đại. Khi Andreessen trước đây ở phòng thí nghiệm NCSA
Đại học Illinois, anh thấy mình có các PC, các máy trạm, và sự kết
nối mạng cơ bản để di chuyển file quanh Internet, nhưng nó vẫn
chưa thật hứng thú - bởi vì chẳng có gì để duyệt, không có giao
diện người dùng để kéo và hiển thị nội dung các Web site của
những người người khác. Cho nên Andreessen và đội của anh đã
phát triển Mosaic browser, làm cho bất cứ kẻ ngốc, nhà khoa học,
sinh viên, hay bà già nào có thể xem được các Web site. Marc
Andreessen đã không sáng chế ra Internet, nhưng anh đã làm nhiều
như bất cứ cá nhân nào để làm cho nó sống động và truyền bá nó.
“Mosaic browser bắt đầu năm 1993 với mười hai người dùng, và
tôi biết tất cả mười hai người,” Andreessen nói. Chỉ có khoảng năm
mươi Web site khi đó và chúng hầu hết chỉ là các trang Web đơn
lẻ. “Mosaic”, anh giải thích, “được tài trợ bởi Quỹ Khoa học Quốc
gia - National Science Foundation [NSF]. Tiền thực sự không được
MƯỜI LỰC LÀM PHẲNG THẾ GIỚI


59

phân bổ cho xây dựng Mosaic. Nhóm chúng tôi phải làm một phần
mềm cho phép các nhà khoa học dùng các siêu máy tính đặt ở các
vị trí ở xa, và để nối với chúng bằng mạng NSF. Cho nên chúng tôi

xây dựng [browser đầu tiên như] các công cụ phần mềm cho phép
các nhà nghiên cứu ‘duyệt’ nghiên cứu của nhau. Tôi nhìn nó như
một vòng phản hồi dương: Càng nhiều người có browser, càng
nhiều người muốn được kết nối, và sẽ càng có nhiều khuyến khích
hơn để tạo nội dung và các ứng dụng và công cụ. Một khi loại việc
đó khởi động, nó cứ thế cất cánh và hầu như chẳng gì có thể chặn
nó. Khi phát triển nó, bạn không chắc bất cứ ai sẽ dùng nó, nhưng
ngay khi nó khởi động chúng tôi đã hiểu rằng nếu có bất cứ ai dùng
nó thì mọi người sẽ dùng nó, và khi đó chỉ còn vấn đề là nó sẽ lan
ra nhanh thế nào và cái gì có thể là những cản trở trên đường”.
Quả thực, ai đã thử browser, kể cả Barksdale, có cùng phản ứng
ban đầu: Chà! “Mỗi hè, tạp chí Fortune có một bài về hai mươi lăm
công ti ngon nhất [coolest] khắp nơi,” Barksdale nhớ lại. “Năm đó
[1994] Mosaic là một trong số đó. Tôi đã không chỉ đọc về Clark
và Andreessen mà đã quay sang bảo vợ tôi, ‘Em yêu, đây là một ý
tưởng lớn’. Và rồi chỉ vài tuần muộn hơn tôi nhận cú điện thoại từ
headhunter. Cho nên tôi xuống và nói chuyện với Doerr và Jim
Clark, tôi bắt đầu dùng phiên bản beta của Mosaic browser. Càng
dùng nó tôi càng bị hấp dẫn hơn”. Từ cuối các năm 1980, người ta
đã dựng lên các cơ sở dữ liệu với truy cập Internet. Barksdale nói
rằng sau khi nói chuyện với Doerr và Clark, ông về nhà, gom ba
đứa con ông quanh máy tính của ông, và hỏi mỗi đứa gợi ý một chủ
đề có thể duyệt Internet để tìm – và làm chúng thán phục bằng đạt
cái gì đó cho mỗi đứa. “Việc đó thuyết phục tôi,” Barksdale nói.
“Cho nên tôi gọi lại cho headhunter và nói, ‘tôi là người của ông.’”
Browser thương mại đầu tiên của Netscape – có thể chạy trên một
IBM PC, một Apple Macintosh, hay một máy tính Unix - được
phát hành tháng 12-1994, và trong vòng một năm nó hoàn toàn chế
ngự thị trường. Bạn có thể tải Netscape xuống miễn phí nếu bạn
trong ngành giáo dục hay phi lợi nhuận. Nếu bạn là một cá nhân,

bạn có thể đánh giá phần mềm miễn phí theo sự hài lòng của mình
và mua nó trên đĩa nếu bạn muốn. Nếu bạn là một công ti, bạn có
thể đánh giá phần mềm cho chín mươi ngày. Andreessen nói, “Lí
do căn bản là: Nếu bạn có sức để thanh toán mua nó, xin hãy làm
thế. Nếu không, hãy dùng nó dẫu sao đi nữa”. Vì sao? Vì tất cả việc
THẾ GIỚI LÀ PHẲNG


60


dùng miễn phí kích thích một sự tăng trưởng ồ ạt về mạng, điều
quý giá đối với tất cả các khách hàng trả tiền. Đã có kết quả.
“Chúng tôi đưa Netscape browser lên,” Barksdale nói, “và người
ta tải nó xuống miễn phí cho thử ba tháng. Tôi chưa bao giờ thấy
khối lượng như thế. Đối với các doanh nghiệp lớn và chính phủ, nó
đã cho phép họ kết nối và giải phóng tất cả thông tin của họ, và hệ
thống point-and-click [trỏ-và-nhắp chuột] mà Marc Andreessen
sáng chế ra đã cho phép người thường dùng nó, không chỉ các nhà
khoa học. Và điều đó làm cho nó là một cuộc cách mạng thật sự.
Và chúng tôi nói, ‘Cái này sẽ chỉ tăng và tăng và tăng’”.


hẳng gì đã chặn nó, và đó là vì sao Netscape đã đóng một vai
trò làm phẳng hết sức quan trọng khác: Nó đã giúp khiến
Internet thực sự có thể tương hoạt. Bạn sẽ nhớ lại rằng trong pha
Tường Berlin-PC-Windows, các cá nhân có e-mail và các công ti
có e-mail nội bộ đã chưa thể kết nối rất xa. Bộ định tuyến [router]
Internet đầu tiên của Cisco, thực ra, được một đôi vợ chồng xây
dựng ở Stanford những người muốn trao đổi e-mail; một người làm

việc xa một máy tính lớn [mainframe] và người kia trên một PC, và
họ đã không thể kết nối. “Các mạng công ti thời đó là [sở hữu]
riêng và rời nhau,” Andreessen nói. “Mỗi [mạng] có các định dạng,
các giao thức riêng, và các cách khác nhau để làm nội dung. Vì thế
tất cả các ốc đảo thông tin này đã tách rời nhau. Và khi Internet nổi
lên như một cuộc kinh doanh mạo hiểm có tính thương mại, công
cộng, đã có một mối nguy hiểm thực sự rằng nó sẽ nổi lên theo
cùng cách rời nhau”.
Joe ở phòng kế toán muốn lên PC của mình ở văn phòng và thử
lấy các số liệu doanh thu mới nhất cho 1995, nhưng anh không thể
làm việc đó vì phòng bán hàng có hệ thống khác với hệ thống mà
phòng kế toán dùng. Đã cứ như một người nói tiếng Đức và người
khác nói tiếng Pháp. Và rồi Joe nói, “Cho tôi thông tin giao hàng
mới nhất từ hãng Goodyear về loại vỏ [lốp] xe nào họ đã gửi cho
chúng ta,” và anh ta thấy rằng Goodyear dùng một hệ thống hoàn
toàn khác, và đại lí ở Topeka lại dùng một hệ thống khác nữa. Rồi
Joe về nhà và thấy đứa con học lớp bảy của mình tìm trên WWW
cho bài luận học kì, dùng các giao thức mở, và ngó vào các tài sản
C

×