Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Tiểu luận: ”Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng thẻ ATM tại Việt Nam” potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.38 KB, 29 trang )

Tiểu luận
Thực trạng và giải pháp
nâng cao hiệu quả sử dụng
thẻ ATM tại Việt Nam
GVHD: Đinh Công Thành SVTH:Lê Anh Thuấn

MỤC LỤC
Phần mở đầu 1
1.1 Lí do chọn đề tài 1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu 1
1.3 Phương pháp nghiên cứu 2
1.4 Giới hạn phạm vi nghiên cứu 2
Phần nội dung 3
Chương 1 Sơ lược về thẻ ATM 3
1.1.1 Khái niệm 3
1.1.2 Nguồn gốc ra đời 3
1.1.3 Vai trò của thẻ ATM 4
1.1.3.1 Đối với người sử dụng 4
1.1.3.2 Đối với ngân hang 4
1.1.3.3 Đối với nền kinh tế 4
1.1.4 Tiện ích và hạn chế khi sử dụng thẻ ATM 4
1.1.4.1 Tiện ích 4
2.1.4.2 Hạn chế 5
Chương 2 Đánh giá thực trạng phát hành thẻ của các ngân hàng tại
Việt Nam thời gian qua 7
2.2.1 Quy mô số lượng phát hành và tốc độ tăng trưởng 7
2.2.2 Chiến lược và biện pháp mở rộng thị trường 12
2.2.3 Liên minh thanh toán thẻ 13
2.2.4 Ưu điểm của thẻ ATM 14
2.2.4.1 Đối với người sử dụng 14
2.2.4.2 Đối với các doanh nghiệp 16


2.2.4.3 Đối với các ngân hàng 17
2.2.5 Nhược điểm của thẻ ATM 19
2.2.5.1 Thẻ ATM chưa thật sự an toàn 19
2.2.5.2 Dịch vụ thẻ ATM còn yếu 20
Trang 2
GVHD: Đinh Công Thành SVTH:Lê Anh Thuấn

2.2.5.3 Hệ thống ATM thường xuyên bị quá tải 21
Chương 3 Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng thẻ ATM tại Việt
Nam 22
3.3.1 Phát triển dịch vụ 22
3.3.2 Mở rộng mạng lưới 22
3.3.3 Cải tiến công nghệ 22
3.3.4 Đảm bảo quyền giao dịch cho khách hàng 23
3.3.5 Đảm bảo an toàn cho người sử dụng 23
Phần: Kết luận và kiến nghị 24
1.1 Kết luận 24
1.2 Kiến nghị 24
1.2.1 Đối với các ngân hàng thương mại 24
1.2.2 Đối với ngân hàng trung ương 25
1.2.3 Đối với chính phủ 25
1.2.4 Đối với các ngành các cấp 25
Tài Liệu Tham
Khảo……………………………………………
26
Trang 3
GVHD: Đinh Công Thành SVTH:Lê Anh Thuấn

PHẦN MỞ ĐẦU
1.1 LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Hiện nay, trên thế giới các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt đã trở
thành rất phổ biến và chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong khối lượng điều động tài
nguyên ký thác tại các ngân hàng. Mỗi hình thức thanh toán đều có công dụng
riêng thích hợp cho từng đối tượng và loại hình giao dịch đa dạng phong phú.
Việc đưa ra một hình thức thanh toán phù hợp vừa là nhiệm vụ, vừa là mục đích
kinh doanh và trọng điểm cạnh tranh của các ngân hàng. Cho đến nay Việt Nam
đang áp dụng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Đó là hình thức thẻ
ATM. Đến trước năm 2004 việc sử dụng thẻ ATM trong khu vực dân cư ở Việt
Nam vẫn còn phát triển khiêm tốn chưa được sử dụng rộng rãi. Gần đây theo đà
phát triển của thế giới, việc sử dụng thẻ ATM đã trở nên phổ biến, gần gũi với
người dân hơn và được sử dụng nhiều nhất ở Việt Nam do những công dụng
riêng mà thẻ đem lại.Tốc độ tăng trưởng của thị trường thẻ ATM ngày càng cao,
quy mô, số lượng phát hành và sử dụng ngày càng lớn. Tuy nhiên bên cạnh
những tiện ích to lớn do việc sử dụng thẻ vẫn còn tồn tại những vấn đề hạn chế
cần được quan tâm và bên cạnh hiện trạng bùng nổ thẻ vẫn còn tồn tại những vấn
đề giới hạn đòi hỏi phải có những giải pháp thích hợp. Lý do chọn chuyên đề
”Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng thẻ ATM tại Việt Nam” là
muốn người đọc hiểu biết nhiều hơn về hiện trạng phát hành thẻ của các ngân
hàng và nhu cầu sử dụng của người dân. Đồng thời qua các giải pháp có thể sẽ
giúp cho việc phát hành và sử dụng khắc phục hạn chế, phát huy thế mạnh và từ
đó mở rộng hơn.
1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Phân tích, đánh giá việc sử dụng thẻ ATM hiện nay ở Việt Nam.
Đưa ra một số biện pháp nhằm thúc đẩy việc sử dụng thẻ.
Trang 4
GVHD: Đinh Công Thành SVTH:Lê Anh Thuấn

1.3 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thu thập thông tin qua mạng và các báo, tạp chí, internet
Sau đó xử lý những thông tin để có cái nhìn toàn cảnh về vấn đề nghiên

cứu.
1.4 GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Chỉ nghiên cứu và phân tích tình hình sử dụng thẻ ATM chứ không đi sâu
nghiên cứu về những kỹ thuật xung quanh việc hình thành thẻ.
Trang 5
GVHD: Đinh Công Thành SVTH:Lê Anh Thuấn

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 SƠ LƯỢC VỀ THẺ ATM
1.1.1 Khái Niệm
Thẻ ATM là thẻ dùng để rút tiền và chuyển tiền trên hệ thống quầy tự động.
Hệ thống thanh toán tự động này còn được gọi là hộp ATM, bao gồm hệ thống
máy tính nối mạng với toàn bộ hệ thống tiền gửi của ngân hàng, bên cạnh việc
mở tài khoản tiền gửi cho khách hàng, ngân hàng còn bán cho khách hàng một
tấm thẻ nhựa, còn được gọi là thẻ từ hay thẻ thông minh. Bên trong thẻ có một bộ
phận từ ghi lại mật mã của khách hàng và ghi lại những thông tin về tài khoản
của khách hàng. Sau khi khách hàng mở tài khoản và gửi tiền vào ngân hàng thì
chỉ hai phút sau đó, toàn bộ số tiền cùng mật mã của khách hàng được máy tính
điện tử thông báo đến mạng của toàn thành phố và có thể trên phạm vi cả nước,
nếu ngân hàng nhận tiền gửi của khách hàng có chi nhánh và quan hệ khắp nơi
trên toàn quốc.
1.1.2 Nguồn Gốc Ra Đời
Ngành công nghệ thẻ ngân hàng tuy mới phát triển thật sự trong 25 năm gần
đây nhưng thẻ có một lịch sử lâu đời bắt nguồn từ việc các đại lý bán lẻ cung cấp
tín dụng cho khách hàng thông qua việc mua hàng trước trả tiền sau. Nhưng
nhiều đại lý nhỏ không đủ khả năng cung cấp tín dụng cho các khách hàng của
họ các ngân hàng đã tham gia vào việc này.
Thẻ ngân hàng xuất hiện năm 1946 tại Mỹ với tên gọi Charg-It do ngân
hàng John Biggins phát hành. Đó là một hệ thống tín dụng cho phép khách hàng
thực hiện các giao dịch nội địa tại các đại lý bằng các “phiếu” có giá trị do ngân

hàng phát hành. Đây có thể coi như là tiền đề cho việc phát hành thẻ tín dụng đầu
tiên của ngân hàng Franklin National New York vào năm 1951. Trải qua quá
trình tồn tại và phát triển, đến năm 1970 chiếc thẻ từ đầu tiên ra đời. Đó là một
chiếc thẻ bằng nhựa có gắn theo một lõi từ tính để lưu trữ các thông tin. Theo sự
phát triển của đời sống xã hội, thẻ được trang bị thêm những công nghệ tinh vi
khác như các hình không gian ba chiều được in bằng một công nghệ laser chỉ có
Trang 6
GVHD: Đinh Công Thành SVTH:Lê Anh Thuấn

thể nhận biết được bằng tia cực tím. Cùng với xu thế phát triển chung của toàn
cầu, công nghệ thẻ được du nhập vào Việt Nam từ năm 1996 chủ yếu là phục vụ
cho nhu cầu sử dụng thẻ của khách nước ngoài đến Việt Nam. Xu hướng sử dụng
thẻ thanh toán mới bắt đầu trở nên quen thuộc và sôi động ở Việt Nam từ hai
năm trở lại đây.
1.1.3 Vai Trò Của Thẻ ATM
1.1.3.1 Đối Với Người Sử Dụng
Là một dịch vụ tiện lợi nhanh chóng phục vụ tốt nhu cầu giao dịch tiền tệ
trong cuộc sống hiện đại vì mọi hoạt động giao dịch của người dân được hoàn
toàn tự động qua thẻ ATM. Khách hàng nào có nhu cầu giao dịch tiền tệ không
cần phải tốn nhiều thời gian và công sức để trực tiếp đến ngân hàng và đối mặt
với các thủ tục phức tạp như hiện nay mà chỉ cần sở hữu 1 chiếc thẻ ATM là mọi
giao dịch đều được thực hiện 1 cách nhanh chóng trong suốt 24/24 giờ trong
ngày và mọi ngày trong tuần. Và việc những chiếc máy ATM của các ngân hàng
được đặt trong các siêu thị sẽ rất tiện lợi cho người dân, có thể không cần phải
đem quá nhiều tiền mặt trong người.
1.1.3.2 Đối Với Ngân Hàng
Đây là một kênh huy động vốn nhàn rỗi đáng kể trong dân chúng khi mà
tiền của người dân đều được huy động trong tài khoản ngân hàng. Số tiền khổng
lồ này sẽ giúp ngân hàng tăng nguồn vốn hoạt động đồng thời có được nguồn thu
vững chắc từ việc cung cấp các dịch vụ thanh toán thông qua hệ thống thẻ ATM.

Điều này hết sức có lợi cho các ngân hàng trong cuộc đua huy động vốn hiện
nay.
1.1.3.3 Đối Với Nền Kinh Tế
Tạo điều kiện thuận lợi để phát triển một nền kinh tế tiên tiến khi người dân
thanh toán không dùng tiền mặt thì vòng quay tiền tệ tăng lên làm gia tăng tốc độ
phát triển của nền kinh tế. Việc tự động hóa trong giao dịch sẽ nâng cao chất
lượng của hệ thống tài chính quốc gia tạo điều kiện thuận lợi cho một nền kinh tế
hiện đại phát triển và đáp ứng nhu cầu hội nhập trong tương lai của kinh tế Việt
Nam
1.1.4 Tiện Ích Và Hạn Chế Khi Sử Dụng Thẻ ATM
Trang 7
GVHD: Đinh Công Thành SVTH:Lê Anh Thuấn

1.1.4.1 Tiện Ích
ATM là một thành quả của sự cố gắng cải thiện công nghệ ngân hàng, đặc
biệt là hệ thống thanh toán hiện đại. Thẻ ATM rất được khách hàng của các ngân
hàng tán thành do sự tiện lợi và linh hoạt của thẻ đem lại.
Hiện nay với công nghệ tiên tiến, máy ATM không chỉ dùng để rút tiền mà
nó trở thành một ngân hàng thu nhỏ với đủ các chức năng và tiện ích: nạp tiền,
rút tiền trực tiếp, chuyển khoản đến tất cả các ngân hàng, thanh toán các hóa đơn,
dịch vụ, thuế, lệ phí…mua thẻ trả trước điện thoại di động, Internet…Ở Việt
Nam Ngân Hàng Đông Á EAB là Ngân hàng tiên phong trong lĩnh vực này.
Hệ thống ATM được lắp đặt ở hầu hết các Thành Phố, một số khách sạn,
nhà hàng, siêu thị, cửa hàng bách hóa lớn, kể cả các Trường Đại học và điều này
sẽ giúp cho người sử dụng có thể rút tiền ở nhiều nơi khi cần sử dụng.
Với tấm thẻ ATM trên tay, khách hàng vào bất cứ thời gian nào đều có thể
rút tiền, chuyển tiền…, việc chạy vội đến ngân hàng trước giờ đóng cửa dường
như đã lùi về quá khứ, bởi vì ATM hoạt động suốt 24 giờ trong ngày.
Việc sử dụng thẻ rất đơn giản và nhanh chóng. Khách hàng chỉ cần để thẻ
vào khe của máy ATM, sau đó chỉ cần nhập số PIN thì mọi thao tác sẽ được

hướng dẫn cụ thể trên màn hình máy tính. Chỉ trong vòng vài phút mệnh lệnh của
người sử dụng sẽ được thực hiện. Và họ có thể dễ dàng rút được số tiền mà mình
muốn.
Nhờ hình thức trả lương qua thẻ nhiều công nhân, người lao động nhập cư
đã có thói quen gửi tài khoản vừa có lãi vừa bảo đảm an toàn.
Một tiện ích khác là người sử dụng thẻ có thể cho người thân sử dụng tài
khoản qua thẻ phụ và có thể giới hạn mức chi tiêu của thẻ phụ để dễ kiểm soát.
1.1.4.2 Hạn Chế
Không chỉ than phiền về chất lượng giao dịch, gần đây số vụ khiếu nại mất
tiền từ thẻ rút tiền tự động (ATM) tăng dần với số tiền mất ngày càng lớn, mất đủ
kiểu, phiền đủ cách! Cho thấy các ngân hàng chưa thật sự tạo được an toàn cho
người sử dụng.
Tình trạng hết tiền ở nhiều máy ATM hay xảy ra, nhất là ngày thứ bảy và
Trang 8
GVHD: Đinh Công Thành SVTH:Lê Anh Thuấn

chủ nhật, ngày chi trả lương cuối tháng và cũng là ngày khách hàng cần đi mua
sắm. Điều này sẽ làm cho người sử dụng rất phiền toái và khó khăn.
Việc quá tải mạng làm cho máy ATM chập chờn có lúc chạy chậm, điều
này gây nhiều bất tiện cho người sử dụng.
Người dân vẫn còn thói quen thích sử dụng tiền mặt, do đó thẻ ATM chưa
được sử dụng rộng khắp.
Hệ thống ATM đôi khi còn bị gián đoạn do các nguyên nhân chủ quan từ
ngân hàng, tức giải quyết công việc nội bộ cụ thể là cập nhật dữ liệu.
Chưa thể liên minh kết nối thành một hệ thống ATM trong cả nước. Nếu
như ở nước ngoài thì các máy ATM của các ngân hàng khác nhau đều có thể
được kết nối với nhau. Còn ở Việt Nam thì khách hàng mở tài khoản tại ngân
hàng nào thì phải rút tiền ở máy ATM của ngân hàng đó.Gần đây có 1 số ngân
hàng đã liên kết lại với nhau nhưng số đó vẫn còn rất ít.
Vẫn còn tình trạng “thẻ nằm ngoài vùng phủ sóng” do còn quá ít máy và

chủ yếu là để rút tiền.
Tại Việt Nam khả năng phân biệt đồng tiền (theo mệnh giá) của máy ATM
đang bị đánh giá thấp. ATM trên thế giới đều được thiết kế với việc xác định
mệnh giá tiền đưa ra khi chi trả cho khách hàng qua các trang thiết bị cảm ứng về
độ dày, chiều rộng của tờ tiền. Tuy nhiên các mệnh giá tiền của Việt Nam hiện
nay được thiết kế và sản xuất tương đương nhau về kích cở, độ dày nên các chức
năng trên chưa phát huy đươc hiệu quả.
Trang 9
GVHD: Đinh Công Thành SVTH:Lê Anh Thuấn

CHƯƠNG 2 ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁT HÀNH
THẺ CỦA CÁC NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM THỜI GIAN
QUA
2.2.1 Quy Mô Số Lượng Phát Hành Và Tốc Độ Tăng
Trưởng
Đến giữa năm 2004, chỉ có khoảng 11 NH tham gia thị trường phát hành và
thanh toán thẻ. Trong đó Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam (Vietcombank)
dẫn đầu do có hệ thống ATM lớn nhất khắp cả nước, tiếp sau là các Ngân hàng:
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Agribank), Ngân hàng Á Châu
(ACB), Ngân hàng Công thương Việt Nam (Incombank), và Ngân hàng Đông Á
(EAB). Các ngân hàng chỉ mới trang bị được khoảng 450 máy ATM để phục vụ
các giao dịch của chủ thẻ. Từng ngân hàng cụ thể thì số máy này còn tệ hơn vì hệ
thống ATM của mỗi ngân hàng hoạt động riêng lẻ. Ngoại trừ Vietcombank với
280 máy rải ra khắp cả nước, các ngân hàng còn lại mới chỉ trang bị từ dăm đến
vài chục máy. Đến cuối năm 2004, theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam, tỷ lệ tiền mặt trong lưu thông vẫn còn chiếm đến 20,35% tổng phương tiện
thanh toán trong nền kinh tế. Con số này đã giảm 1/3 so với cách đây một chục
năm, nhưng vẫn còn rất cao so với trình độ thế giới. Nói chung chiếc thẻ ATM
vẫn chưa là vật quen thuộc. Cho thấy đến cuối năm 2004 tình hình phát và sử
dụng phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt-thẻ ATM tại Việt Nam vẫn

chưa cao.
Đến năm 2005 quy mô và số lượng thẻ ATM được phát hành tăng lên đáng
kể. Chỉ trong 4 tháng đầu năm số lượng thẻ ATM phát hành tại Ngân hàng
Incombank đã là 50.000 thẻ với số lượng máy ATM là 135 máy. Ngân hàng
Agribank cũng đạt 50.000 thẻ đưa tổng số thẻ phát hành lên 150.000 trên tổng số
máy là 254 máy. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển (BIDV) đạt con số khiêm tốn
hơn với tổng số thẻ là 76.000 thẻ và gần 200 máy. Riêng Vietcombank số lượng
thẻ của Ngân hàng lên đến vài triệu thẻ và có đến 400 máy ATM, nếu tính đến
các máy ATM liên kết với một số ngân hàng khác (thẻ ATM của các ngân hàng
liên kết có thể sử dụng trên máy ATM của nhau) thì tổng số là 450 máy. Tuy
nhiên vẫn còn một số lượng lớn các điểm mua sắm có thể chấp nhận thanh toán
Trang 10
GVHD: Đinh Công Thành SVTH:Lê Anh Thuấn

bằng thẻ. Số máy ATM không lớn nhưng còn lại bị chia nhỏ ra cho nhiều ngân
hàng và nhiều địa phương. Ngay như ngân hàng Vietcombank có thị phần nhiều
nhất nhưng chưa đến 500 máy. Còn hệ thông kết nối VNBC (Vietnam Bank
Card) chỉ có 178 máy trên toàn quốc. Số lượng khách hàng tiềm năng lúc bấy giờ
còn rất lớn với hơn 100.000 doanh nghiệp và hàng chục triệu hộ gia đình. Trong
khi đó đến thời điểm lúc này chỉ duy nhất Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển
Nông thôn là có mạng lưới chi nhánh đến một số xã. Mặt dù vây nhưng khi so
sánh hai móc thời gian: giữa năm 2004 và giữa năm 2005 ta thấy được tốc độ
tăng trưởng của thị trường thẻ ATM tại Việt Nam là rất lớn. Số lượng máy tăng
hơn 2 lần, số lượng thẻ tăng hơn 5 lần, mức tăng trưởng trên 200% một năm đã
là rất cao. Ngoài ra những tháng cuối năm 2005 người có thẻ ATM đa năng có
thể giao dịch tại một số máy ở Trung Quốc, Hong Kong, Thái Lan, Singapore,
Philippines. Cho thấy thị trường thẻ ngày càng mở rộng hơn cả trong lẫn ngoài
nước.
Với đà tăng trưởng đó đến đầu năm 2006 loại thẻ được sử dụng nhiều nhất
tại Viêt Nam là thẻ ATM do nhiều ngân hàng phát hành. Cuối tháng 01 năm

2006 mức tăng trưởng của thị trường thẻ ATM đã trên 300%. Nếu như giữa năm
2005 trên toàn quốc chỉ có khoảng 1000 máy và gần 2 triệu thẻ thì đến thời điểm
tháng 05/2006 cả hệ thống đã có gần 2000 máy và hơn 2,1 triệu thẻ ATM được
đưa vào sử dụng. Đến dây, liên minh thẻ Vietcombank (VCB) đã đạt gần 1 triệu
thẻ và dự kiến trong năm 2006 tăng lên 1,5 triệu thẻ. Còn hệ thống VNBC
(Vietnam Bank Card) của ngân hàng Đông Á thì với 400.000 thẻ, dự kiến đạt 1,2
triệu thẻ vào cuối năm 2006. Đến thời điểm này đã có khoảng 20 thương hiệu thẻ
khác nhau được tung ra thị trường và cuộc cạnh tranh giữa các ngân hàng là vô
cùng sôi động.
Trong thời gian gần đây các ngân hàng đã ra sức mở thêm nhiều máy mới
và số lượng thẻ phát hành của các ngân hàng ngày càng tăng. Đặc biệt là ngân
hàng Nông Nghiệp đã liên kết các với các khu công nghiệp bằng việc trả lương
cho công nhân thông qua thẻ ATM từ đó số lượng thẻ và máy của ngân hàng này
không ngừng tăng lên đến nay ước tính ngân hàng Nông Nghiệp đã có khoảng
566 máy trên phạm vi toàn quốc với khoảng hơn 1 triệu thẻ được phát hành. Còn
Trang 11
GVHD: Đinh Công Thành SVTH:Lê Anh Thuấn

đối với Vietcombank họ đã phát triển thẻ trong sinh viên bằng cách cho lắp đặt
thêm nhiều máy ATM ở các trường đại học và có nhiều chương trình phát hành
thẻ miễn phí cho sinh viên nhờ đó mà số lượng thẻ của Vietcombank đã phát
triển rất nhanh.
Tóm lại đối với những sản phẩm, dịch vụ đang có điều dễ dàng thấy nhất là
sự bùng nổ dịch vụ thẻ ghi nợ nội địa (ATM). Trong vòng 3 năm trở lại đây, với
mức tăng trưởng trên cho thấy nhu cầu cũng như sự hưởng ứng nhiệt tình của
người tiêu dùng về dịch vụ ngân hàng hiện đại là rất cao. Số tài khoản và số máy
ATM được lắp đặt tăng lên nhanh chóng và đã tạo một “cơn sốt” thực sự.
Sau đây là các bảng thống kê về số lượng địa điểm đặt máy ATM của một
số Ngân hàng.
Bảng: Số lượng địa điểm đặt máy ATM của Ngân hàng Nông Nghiệp

(Agribank)
Khu vực Số lượng
An Giang 4
Bà Rịa Vũng Tàu 15
Bạc Liêu 3
Bắc Kạn 1
Bắc Giang 4
Bắc Ninh 4
Bến Tre 6
Bình Dương 24
Bình Định 3
Bình Phước 4
Bình Thuận 3
Cà Mau 4
Cao Bằng 2
Cần Thơ 14
Trang 12
GVHD: Đinh Công Thành SVTH:Lê Anh Thuấn

Đà Nẳng 21
Đắc Lắk 6
Đắc Nông 3
Điện Biên 2
Đồng Nai 12
Đồng Tháp 2
Gia Lai 2
Hà Giang 2
Hà Nam 2
Hà Nội 134
Hà Tây 9

Hà Tĩnh 2
Hải Dương 2
Hải Phòng 14
Hậu Giang 2
Hòa Bình 1
Hưng Yên 2
Khánh Hòa 11
Kiên Giang 3
Kon Tum 2
Lai Châu 2
Lâm Đồng 10
Lạng Sơn 4
Lào Cai 4
Long An 3
Nam Định 3
Trang 13
GVHD: Đinh Công Thành SVTH:Lê Anh Thuấn

Nghệ An 2
Ninh Bình 3
Ninh Thuận 3
Phú Thọ 2
Phú Yên 2
Quãng Bình 2
Quãng Nam 8
Quãng Ngãi 4
Quãng Ninh 9
Quãng Trị 4
Sóc Trăng 10
Sơn La 2

Tây Ninh 3
Thái Bình 1
Thái Nguyên 3
Thanh Hóa 4
Thừa Thiên Huế 10
Tiền Giang 3
Thành Phố Hồ Chí Minh 128
Trà Vinh 2
Tuyên Quang 2
Vĩnh Long 3
Vĩnh Phúc 3
Yên Bái 2
(Nguồn: tổng hợp số liệu từ trang web www.agribank.com.vn)
Trang 14
GVHD: Đinh Công Thành SVTH:Lê Anh Thuấn

2.2.2 Chiến Lược Và Biện Pháp Mở Rộng Thị Trường
Để có tốc độ tăng trưởng như trên các ngân hàng đã không ngừng áp dụng
nhiều chiến lược mở rộng, các chiến lược là không thể thiếu đối với ngân hàng vì
hầu hết các ngân hàng đều có mục đích kinh doanh là mở rộng thị trường, tăng
quy mô thị phần chiếm lãnh.
Sau đây là một số chiến lược mà các ngân hàng đã áp dụng:
Từ năm 2004, Ngân hàng Thương Mại cổ phần Đông Á (EAB) đã áp dụng
hình thức trả lương qua thẻ. Nhờ vậy mà khá nhiều công nhân, người nhập cư đã
không còn giữ tiền mặt vừa không sinh lãi lại thiếu an toàn. Hơn nữa khi nhận
lương qua thẻ có giao dịch thường xuyên qua thẻ khách hàng có thể được xét hạn
mức thấu chi (tài khoản hết tiền vẫn có thể rút tiền hoặc thanh toán, hoàn trả
sau).
Đầu năm 2005, cũng đã có hình thức cho vay giải ngân qua thẻ với lãi suất
khá thấp. Theo đó, ngân hàng và người vay làm các thủ tục vay vốn và chuyển

toàn bộ tiền vay qua tài khoản thẻ ATM. Ngoài tiểu thương ở các chợ thì một số
người còn vay để xây nhà cũng đã sử dụng cách giải ngân thông qua thẻ, cần tiền
đến đâu lấy đến đó.
Một chiến lựợc khác là mở ngân hàng trong các Trường Đại học. Nhu cầu
sử dụng thẻ của sinh viên theo học và cán bộ - công nhân viên là rất cao do đó
chiến lược này đã đem lại kết quả cao cho các ngân hàng.
Chiến lựợc giảm giá và thường xuyên có nhiều chương trình quà tặng cũng
đã và đang được các ngân hàng áp dụng và đã thu hút được nhiều người tham gia
sử dụng thẻ.
Và cũng trong năm 2005 thì thẻ ATM cũng đã được sử dụng ở nước ngoài.
Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam đã có kế hoạch chuyển toàn bộ các thẻ
từ ATM sang các thẻ thông minh (thẻ chip). Quyền lợi khách hàng của ngân
hàng sẻ được đảm bảo hơn khi sử dụng thẻ chip vì ngoài việc đảm bảo tiện ích
như thẻ chip còn có thể định danh người sử dụng, lưu trữ thông tin về các
chương trình khuyến mãi, thậm chí sức khỏe… đây là một xu thế tất yếu vì thẻ
chip sẽ đáp ứng được các yêu cầu của các tổ chức thẻ quốc tế.
Trang 15
GVHD: Đinh Công Thành SVTH:Lê Anh Thuấn

Đến đầu tháng 2 năm 2006, Sở giao dịch hai Ngân hàng Công Thương đề ra
chiến lược sẻ cho vay tín chấp dùng vào mục đích sinh hoạt, tiêu dùng đối với
những khách hàng có thẻ ATM và trả lương qua thẻ. Mức vay tín chấp tối đa là
10 triệu. Điều này sẽ thu hút thêm một số lượng người sử dụng thẻ thanh toán.
Gần đây, 28/3/2006 Ngân hàng Đông Á – chi nhánh Đà Nẵng đã tổ chức
triển khai chương trình “mở thẻ ATM lấy ngay” tại hội chợ giao lưu kinh tế Việt
– Lào – Thái. Với chương trình khách hàng có thể dễ dàng đăng ký, sử dụng
ngay một chiếc thẻ đa năng EAB miễn phí và lấy ngay. Cũng tại thời điểm này,
EAB lắp đặt máy ATM hiện đại nhất Việt Nam vừa có trên thị trường. Khách
hàng có thể gửi tiền trực tiếp, rút tiền mặt, chuyển tiền, thanh toán dịch vụ, mua
các loại thẻ cào qua máy và một số chức năng khác. Và đó cũng là một biện pháp

mở rộng thị trường mà Ngân hàng đã sử dụng.
2.2.3 Liên Minh Thanh Toán Thẻ
Việc liên minh kết nối giữa các ngân hàng có ba cái lợi: thứ nhất là lợi cho
khách hàng do mạng lưới giao dịch được mở rộng, thứ hai khi “nhiều cây chụm
lại” sẽ tăng khả năng cạnh tranh của các ngân hàng trong nước với các ngân
hàng nước ngoài và tiết kiệm được chi phí đầu tư, thứ ba tạo điều kiện để người
dân giảm dùng tiềm mặt và thanh toán qua ngân hàng
Các ngân hàng có thể kết nối với nhau qua hai cách. Phương án thứ nhất là
lập công ty chuyển mạch quốc gia đã được Ngân hàng Nhà nước và các Ngân
hàng Ngoại thương quan tâm, tuy nhiên vẫn có ngân hàng chưa chịu tham gia vì
lý do chưa phù hợp về công nghệ. Còn phương án thứ hai là giữa các ngân hàng
tự thoả thuận, đối với phương án này dù được đánh giá là dễ thực hiện do các
ngân hàng tự quyết định nhưng thực tế chẳng suôn sẻ vì việc làm “nhánh” của
ngân hàng khác, đòi hỏi phải kết nối “hàng ngang”, không lệ thuộc vào nhau.
Dù được thành lập từ tháng 7/2004 nhưng mãi đến ngày 21/4/2007 Công ty
cổ phần chuyển mạch tài chính quốc gia Việt Nam (Banknetvn) đã khai trương
hệ thống chuyển mạch Banknetvn. Mặc dù chưa phải là hệ thống có số lượng
ngân hàng tham gia đông nhất ở thời điểm hiện tại, nhưng Banknetvn là hệ
thống có sự tham gia của 3 ngân hàng thương mại Nhà nước lớn nhất Việt Nam:
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Công Thương Việt Nam
Trang 16
GVHD: Đinh Công Thành SVTH:Lê Anh Thuấn

và Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn công thương,và tương lai có thể có
sự tham gia của tất cả các ngân hàng thương mại của Việt Nam, mang lại lợi ích
lớn cho khách hàng dùng thẻ ở Việt Nam. Mục tiêu chính của Banknetvn là xây
dựng hệ thống chuyển mạch tài chính quốc gia kết nối các hệ thống thanh toán
thẻ nói chung, hệ thống ATM/POS nói riêng của các ngân hàng ở Việt Nam, xử
lý thanh toán bù trừ đối với các giao dịch thanh toán thẻ giữa các ngân hàng.
2.2.4 Ưu Điểm Của Thẻ ATM

2.2.4.1 Đối Với Người Sử Dụng
Có thể nói, trước khi thẻ ATM xuất hiện thì việc người dân có nhu cầu giao
dịch với ngân hàng đều phải đến trực tiếp các ngân hàng thương mại và phải đối
mặt với nhiều loại thủ tục phức tạp. Đôi khi còn gặp nhiều khó chịu do thái độ
phục vụ và ý thức của nhân viên ngân hàng. Hơn nữa việc giao dịch trực tiếp với
ngân hàng còn bị giới hạn về thời gian và không gian vì các ngân hàng chỉ làm
việc theo thời gian quy định. Đây là sự bất tiện trong giao dịch với khách hàng.
Tuy nhiên từ khi thẻ ATM xuất hiện đã góp phần giải quyết được tình trạng đó
và phục vụ tốt hơn nhu cầu giao dịch của ngân hàng.
* Rút tiền mặt: Khả năng đầu tiên và cơ bản nhất của thẻ ATM là giúp cho
người sử dụng có thể rút tiền mặt trong tài khoản của mình một cách dễ dàng và
nhanh chóng. Khi người chủ thẻ có nhu cầu rút tiền, họ chỉ cần mang thẻ ATM
đến bất cứ máy ATM nào gần nhất. Khách hàng chỉ việc ấn thẻ ATM vào máy,
bấm mã số và yêu cầu số tiền mình cần rút, mọi thao tác chỉ diễn ra trong vòng
từ 30 giây đến 1 phút.
* Gửi tiền: Đây là dịch vụ mà ngân hàng Đông Á là ngân hàng đầu tiên
trong nước cho phép khách hàng của mình gửi tiền qua thẻ ATM mà không phải
đến trực tiếp ngân hàng. Đây là một tiện ích nhằm nâng cao giá trị sử dụng của
thẻ ATM đồng thời tạo được ưu thế cho thẻ ATM của ngân hàng trên thị trưòng
thẻ hiện nay
* Thanh toán các dịch vụ: Đây là một tiện ích góp phần phục vụ tốt hơn
cuộc sống của con người vì nó tiết kiệm được thời gian, công sức và chi phí cho
người sử dụng. Người sử dụng có thể trả các khoản chi phí dịch vụ của gia đình
như: điện, nước, điện thoại, phí internet, đóng bảo hiểm, thậm chí cả việc ủng hộ
Trang 17
GVHD: Đinh Công Thành SVTH:Lê Anh Thuấn

các quỹ từ thiện bằng cách chuyển khoản qua chính thẻ ATM của mình. Điều
này sẽ giúp người dân thay đổi thói quen sử dụng tiền mặt. Hiện nay các ngân
hàng đang tìm cách để liên kết với các công ty điện lực, cấp nước, điện thoại…

để tiến hành đưa dịnh vụ này vào phục vụ khách hàng mà đi đầu là ngân hàng
Đông Á. Trên thực tế, các công ty điện thoại, điện, nước hoàn toàn có khả năng
uỷ thác cho ngân hàng thu tiền dịch vụ hàng tháng của khách hàng. Giấy báo tiền
điện, nước…được gửi trực tiếp đến ngân hàng, ngân hàng sẽ thanh toán cho các
công ty, cuối tháng ngân hàng sẽ gửi bản sao kê các loại tiền dịch vụ đã được
khấu trừ cho khách hàng của mình là xong. Điều này cũng giúp các công ty tiết
kiệm được thời gian công sức và chi phí cho việc thu tiền hàng tháng theo cách
thủ công.
+ Khi thanh toán hoá đơn: Khách hàng bấm phím “Thanh toán hoá đơn”
máy sẽ yêu cầu chọn loại dịch vụ cần thanh toán (điện, nước, điện thoại, …).
Bấm phím tương ứng mà hình sẽ xuất hiện chọn nhà cung cấp dịch vụ (ví dụ:
MobiFone, Vinaphone, Manulife…). Máy yêu cầu nhập số tham chiếu (hợp
đồng, mã khách hàng, số thuê bao, …) bấm ENTER/NHẬP.
Máy yêu cầu xác nhận lại số tham chiếu-bấm ENTER/NHẬP. Máy yêu
cầu nhập số tiền muốn thanh toán-bấm ENTER/NHẬP. Màn hình xuất hiện “xác
nhận số tiền bạn vừa thanh toán số tiền X cho dịch vụ Y với số tham chiếu Z” và
hỏi “Bạn có muốn in hoá đơn giao dịch”, bấm phím “Có” hoặc “Không”, nếu có
chờ nhận hoá đơn tại “Khe hoá đơn”…
Danh mục các dịch vụ mà chủ thẻ có thể thanh toán qua ATM được hiển
thị ngay trên máy ATM. Chủ thẻ đa năng của ngân hàng Đông Á có thể thanh
toán tiền bảo hiểm, nước, điện, điện thoại,…Chủ thẻ VCB có thể thanh toán qua
ATM cho các hoá đơn dịch vụ sinh hoạt như: điện thoại cố định, thuê bao di
động trả sau, tiền phí bảo hiểm, tiền điện…Trong đó riêng thanh toán tiền
MobiFone thì chủ thẻ phải đăng ký qua tin nhắn để được cấp pin và số pin này để
nhập vào khi thanh toán.
Lưu ý: Khi chuyển khoản, mua thẻ điện thoại, thanh toán dịch vụ… chủ
thẻ phải nhớ và bấm đúng tài khoản sẽ chuyển, công ty cung cấp dịch vụ viễn
Trang 18
GVHD: Đinh Công Thành SVTH:Lê Anh Thuấn


thông, số hợp đồng… vì tiền sẽ từ tài khoản của chủ thẻ lập tức chuyển vào tài
khoản đến hoặc của nhà cung cấp dịch vụ.
+ Thanh toán tự động: ngoài ra, ở một số ngân hàng chủ thẻ có thể thanh
toán tiền dịch vụ mà không cần đến ATM. Như ở ngân hàng Đông Á có dịch vụ
thanh toán tự động tiền điện, nước, điện thoại/internet, tiền bảo hiểm qua thẻ
Đông Á. Chủ thẻ chỉ cần đăng ký một lần tại ngân hàng, thủ tục là giấy thông
báo hoặc hoá đơn kỳ trước. Hiện ngân hàng Đông Á đã hợp tác được với các đơn
vị để triển khai chương trình thanh toán các dịch vụ tự động cho khách hàng…
Đến kỳ thanh toán, căn cứ trên hồ sơ nhờ thu của bên cung cấp dịch vụ
gửi qua, ngân hàng tự động trích tiền từ tài khoản thẻ của khách hàng để thanh
toán cho kỳ hoá đơn dịch vụ đó, hoá đơn sẽ được gửi đến khách hàng sau.
* Chuyển khoản: Ngoài việc gửi tiền, rút tiền và thanh toán các chi phí dịch
vụ của gia đình, thẻ ATM còn có chức năng chuyển khoản theo yêu cầu của
khách hàng trở nên nhanh chóng, an toàn và tiện lợi.
* An toàn và có khả năng sinh lời: Thẻ ATM còn có tác dụng như một
người bảo vệ túi tiền cho khách hàng, bởi chỉ duy nhất chủ thẻ mới biết mã số để
rút tiền. Ngay cả trong trường hợp chủ thẻ đánh mất thẻ của mình thì người khác
cũng không thể rút tiền trong tài khoản nếu không biết mã số. Hơn nữa, do không
giữ quá nhiều tiền mặt trong người nên khách hàng cũng không sợ mất mát do
trộm cắp. Bên cạnh đó việc có thể thường xuyên kiểm tra các khoản tiền đã được
sử dụng qua thẻ ATM sẽ giúp người chủ thẻ quản lý tốt túi tiền của mình và có
kế hoạch chi tiêu hợp lý. Một điều hết sức có lợi cho người sử dụng thẻ ATM
được tính theo mức lãi xuất tiền gửi không kỳ hạn là 0.02% tháng.
2.2.4.2 Đối Với Các Doanh Nghiệp
Thẻ ATM không chỉ đem lại nhiều tiện ích cho cá nhân người sử dụng mà
đây còn là một lời giải cho bài toán khó trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động
kinh doanh bằng cách giảm thiểu chi phí trong việc trả lương của doanh nghiệp.
Do đó ngày càng có nhiều doanh nghiệp thực hiện việc trả lương cho nhân viên
qua thẻ ATM vì nhiều tiện lợi cho cả người phát lương và người lĩnh lương.
Trang 19

GVHD: Đinh Công Thành SVTH:Lê Anh Thuấn

* Tiện lợi trong việc sử dụng dịch vụ trả lương qua thẻ: So với hình thức
chi trả lương thủ công như lâu nay thì việc chi trả lương qua tài khoản tiện lợi
hơn nhiều. Vì các doanh nghiệp chỉ cần đăng ký mở tài khoản cho nhân viên của
mình tại ngân hàng và chuyển bảng lương của doanh nghiệp vào mỗi kỳ phát
lương cho ngân hàng, ngân hàng sẽ tự động hoạch toán và chuyển số lương
tương ứng vào tài khoản của từng nhân viên.
* Tiết kiệm được thời gian và chi phí: Việc trả lương qua thẻ ATM sẽ giúp
cho các doanh nghiệp tiết kiệm được thời gian do không phải trực tiếp phát
lương đến từng nhân viên như trước đây và hơn nữa khi thực hiện trả lương qua
thẻ doanh nghiệp cũng giảm được chi phí cho bộ máy phát lương, quản lý tốt
ngân quỹ trong chi trả và tránh tình trạng tiền giả.
* Quản lý tốt tiền lương cho công nhân: Khi các doanh nghiệp sử dụng dịch
vụ trả lương qua thẻ ATM thì ngoài việc các doanh nghiệp có lợi thì công nhân
nhận lương từ thẻ ATM cũng có lợi về nhiều mặt. Trước hết là các công nhân sẽ
được hưởng mọi tiện ích từ chiếc thẻ ATM và họ có thể rút tiền theo nhu cầu chi
tiêu của mình. Hơn nữa tiền lương còn lại trên tài khoản thẻ ATM của họ sẽ được
bảo đảm an toàn và được hưởng lãi suất tiền gửi không kỳ hạn theo quy định của
ngân hàng. Thêm vào đó việc sử dụng thẻ ATM trong việc chi trả lương giúp
bảo mật về tiền lương, thưởng và các khoản tiền phụ cấp khác của công nhân,
điều này sẽ tránh được chuyện ganh tỵ lẫn nhau trong nội bộ. Đây cũng là một
trong nhiều nguyên nhân khiến các doanh nghiệp quay sang sử dụng dịch vụ.
2.2.4.3 Đối Với Các Ngân Hàng
Thẻ ATM ra đời không chỉ mang lại tiện ích cho người sử dụng mà nó còn
góp phần thúc đẩy sự phát triển vững mạnh cho hệ thống tài chính của một quốc
gia nói chung và các ngân hàng nói riêng.
* Đối với ngân hàng trung ương: Tuy ngân hàng trung ương không trực tiếp
tham gia vào dịch vụ thẻ ATM nhưng việc người dân sử dụng thẻ ATM lại có ý
nghĩa quan trọng trong hoạt động của ngân hàng trung ương cũng như hệ thống

tài chính của một quốc gia, đặc biệt là đối với một nước đang phát triển và trên
90% người dân có thói quen sử dụng tiền mặt trong thanh toán. Việc các ngân
hàng thương mại huy động được vốn từ việc mở tài khoản thanh toán cho thẻ
Trang 20
GVHD: Đinh Công Thành SVTH:Lê Anh Thuấn

ATM đã làm tăng mức dự trữ bắt buộc của các ngân hàng thương mại tại ngân
hàng Trung ương.
Hơn nữa, việc người dân mở tài khoản ở ngân hàng để sử dụng thẻ ATM sẽ
làm hạn chế việc sử dụng tiền mặt trong lưu thông. Vì việc thanh toán bằng tiền
mặt sẽ làm chậm vòng quay của đồng tiền, làm chậm tốc độ phát triển của nền
kinh tế. Trong khi thanh toán bằng thẻ ATM thì chỉ bằng vài động tác nhập dữ
liệu thì tiền đã được chuyển từ nơi này sang nơi khác. Hơn nữa việc thanh toán
bằng chuyển khoản thông qua thẻ ATM sẽ làm tăng khả năng tạo vốn cho ngân
hàng. Ngoài ra việc thanh toán không dùng tiền mặt sẽ giúp ngân hàng trung
ương giảm được gánh nặng trong việc in tiền, vận chuyển, cất trữ bảo quản tiền
mặt cũng như tránh được nạn tiền giả. Việc hạn chế sử dụng tiền mặt trong lưu
thông chuyển qua sử dụng thẻ ATM sẽ giúp nhà nước kiểm soát chặt chẽ hơn
trong vấn đề thu thuế của các doanh nghiệp cũng như cá nhân, đồng thời dễ dàng
phát hiện những vấn đề tiêu cực của xã hội như nạn rửa tiền hoặc tham nhũng.
Hơn nữa việc sử dụng phương thức thanh toán không dùng tiền mặt sẽ giúp ngân
hàng trung ương quản lý tốt lượng tiền lưu thông và qua đó sẽ kịp thời có những
chính sách tiền tệ và đưa ra những biện pháp phù hợp nhằm thúc đẩy sự phát
triển của nền kinh tế và xây dựng một hệ thống tài chính vững mạnh.
* Đối với các ngân hàng thương mại: Có thể nói việc xuất hiện của thẻ
ATM trong thanh toán đã góp phần làm cho các dịch vụ tài chính tiền tệ trở nên
đa dạng, phong phú và hiệu quả hơn. Ngân hàng có thể phục tốt hơn các nhu cầu
giao dịch ngày càng cao của khách hàng trong nền kinh tế phát triển như hiện
nay. Việc các ngân hàng đua nhau phát triển thẻ ATM ở Việt Nam sẽ giúp các
ngân thu hút những khách hàng đang có nhu cầu sử dụng thẻ ATM. Bên cạnh đó

việc đưa dịch vụ thẻ ATM vào phục vụ nhu cầu giao dịch của người dân đòi hỏi
các ngân hàng phải tự trang bị và nâng cao khả năng tự động hoá trong giao dịch
và chất lượng phục vụ khách hàng trong và ngoài nước, nhất là khi Việt Nam
đang trong quá trình hội nhập với thế giới và ngành du lịch Việt Nam đang phát
triển mạnh mẽ như hiên nay. Đây là một bước tiến tất yếu phù hợp với yêu cầu
của một một nền kinh tế công nghiệp hoá hiện đại hoá. Bên cạnh đó việc các
ngân hàng đưa dịch vụ thẻ ATM vào khai thác sẽ mở ra một kênh huy động vốn
Trang 21
GVHD: Đinh Công Thành SVTH:Lê Anh Thuấn

lớn cho ngân hàng. Có thể số lượng tiền gửi trong tài khoản của mỗi thẻ ATM
không lớn, nhưng nếu tính trên tổng số thẻ ATM mà ngân hàng phát hành thì đây
là một số tiền đáng kể với các ngân hàng. Theo thống kê của báo Tuổi Trẻ Net
19/10/2004 thì với 360.600 tài khoản cá nhân được mở tại các ngân hàng thì số
tiền bình quân trên các tài khoản này là 5.400 tỷ đồng. Trong đó ngân hàng Nông
Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam chỉ với khoảng 11.000 tài khoản của
các cán bộ, nhân viên và sinh viên của trường Đại học Kinh Tế thành phố HCM
thì số dư bình quân trên các tài khoản này là từ 30 đến 40 tỷ đồng. Còn đối với
ngân hàng Đông Á khi phát hành được khoảng 63.000 thẻ ATM thì số tiền bình
quân trên tài khoản của khách hàng là khoảng 60 tỷ đồng. Từ các số liệu trên có
thể thấy rằng thẻ ATM là một kênh huy động vốn hết sức hiệu quả.
2.2.5 Nhược Điểm Của Thẻ ATM
2.2.5.1 Thẻ ATM Chưa Thật Sự An Toàn
Có thể nói, ngày nay văn minh thanh toán không dùng tiền mặt đang được
phổ biến rộng rãi ở khá nhiều nước trên toàn thế giới. Một trong những công cụ
góp phần làm giảm việc thanh toán tiền mặt chính là những chiếc thẻ nhỏ gọn và
xinh xắn, được coi như là những “chiếc ví điện tử”. Tuy nhiên, trong thời đại
khoa học cực thịnh công nghệ cực thịnh như hiện nay và internet được phổ cập
rộng rãi và toàn cầu thì việc bảo mật cho những chiếc thẻ đang là một vấn đề làm
đau đầu các chuyên gia trong ngành ngân hàng bởi nạn làm thẻ giả và đánh cắp

thông tin cá nhân của thẻ qua các máy ATM đang ngày càng được phổ biến nhân
rộng với những cách thức tinh vi hơn điều đó đã được tổ chức thẻ quốc tế cảnh
báo từ rất lâu.
Tuy mới phát triển chưa lâu song có nhiều vụ khiếu kiện về việc mất tiền
trong tài khoản thẻ ATM mà “khổ chủ” - người sử dụng không biết kêu ai đành
phải ngậm đắng chịu thiệt thòi. Một trong những nguyên nhân chính là tính an
toàn của dịch vụ thẻ chưa được đảm bảo. Theo dự báo của các chuyên gia, đây
chính là cuộc chiến mới của các ngân hàng khi chấp nhận vào cuộc chơi với dịch
vụ thẻ.
Việc làm giả thẻ khá phổ biến trên thế giới và chắc chắn các dịch vụ thẻ của
Việt Nam cũng không là ngoại lệ. Nhưng điều quan trọng hơn mà người dân
Trang 22
GVHD: Đinh Công Thành SVTH:Lê Anh Thuấn

quan tâm là các biện pháp hữu hiệu để bảo vệ quyền lợi của khách hàng lại chưa
có. Chính vì thế, khi các ngân hàng Việt Nam có máy ATM bị rút tiền bằng thẻ
tín dụng quốc tế giả thì họ không phải chịu trách nhiệm gì về thiệt hại tài chính
do thẻ tín dụng quốc tế giả gây nên bởi đó là giao dịch “hợp pháp”. Thực chất,
thẻ tín dụng chỉ là một tấm thẻ cung cấp các thông tin cho hệ thống phần mềm
máy tính sử lý, nếu các thông tin đó là đúng thì máy tính sẽ tiến hành giao dịch.
Ngoài ra, hiện nay ngân hàng và người sử dụng vẫn phải giao dịch với nhau
trên cơ sở pháp lý là quy chế phát hành thẻ đã ban hành từ trước đó.Ngân hàng
nhà nước chưa có bất kỳ quy định nào ràng buộc các ngân hàng cung cấp dịch vụ
thẻ phải trang bị camera an ninh tại nơi đặt máy ATM.
2.2.5.2 Dịch Vụ Thẻ ATM Còn Yếu
Gần đây các ngân hàng đã lắp đặt thêm nhiều máy ATM trên toàn quốc.
Tuy nhiên dường như hệ thống giao dịch điện tử qua máy ATM vẫn chưa thực sự
sẵn sàng vào cuộc. Đó là chưa kể đến những thách thức không dễ khắc phục càng
làm hạn chế các tính năng của thẻ. Các ngân hàng phát hành thẻ chưa liên kết với
nhau thành một hệ thống nên thẻ của ngân hàng này phát hành không sử dụng

được tại máy ATM của ngân hàng khác. Do vậy dẫn đến tình trạng tại cùng một
địa điểm nhưng phải có vài máy ATM của từng ngân hàng khác nhau. Mặc dù
vào ngày 21/4/2007 công ty cổ phần chuyển mạch tài chính quốc gia Việt Nam
đã đi vào hoạt động nhưng nó cũng chỉ mới có 3 ngân hàng tham gia ,bên cạnh
đó còn có 2 liên minh khác của Vietcombank và Vietnam Bank Card tự thiết lập
một hệ thống riêng nhưng về cơ bản vẫn dựa trên hạ tầng đã có. Điều này cho
thấy thị trường thẻ Việt Nam vẫn còn trong tình trạng phân tán và chưa thể phát
huy sức mạnh thực sự trong thời gian tới
Trong khi chức năng chính của thẻ là thanh toán thì đa số người tiêu dùng
hiện nay chỉ dùng thẻ để rút tiền mặt tại các máy ATM, từ đó dẫn đến hiểu sai
chức năng của thẻ. Các địa điểm có lượng giao dịch đòi hỏi thanh toán nhiều như
siêu thị, trung tâm thương mại, nhà hàng hiện nay vẫn chưa có các máy đọc thẻ.
Ngay tại một số siêu thị lớn có máy đọc thẻ thì cũng không được trang bị tại tất
cả các quầy thu ngân, do đó khách hàng vẫn gặp khó khăn khi muốn trả tiền bằng
thẻ. Một bất cập khác của thẻ ATM là chưa thật sự có nhiều tiện ích, hấp dẫn
Trang 23
GVHD: Đinh Công Thành SVTH:Lê Anh Thuấn

khách hàng. Mảng phát triển mạnh nhất của dịch vụ thẻ này là trả lương qua tài
khoản. Tuy nhiên, mới chỉ có các công ty lớn, tập đoàn, liên doanh và các tổ
chức nước ngoài “sài” dịch vụ này. Các tiện ích khác như chuyển khoản, thanh
toán bảo hiểm, tiền điện thoại, tiền điện… hiện chỉ có một số ngân hàng áp dụng
điển hình là ngân hàng Đông Á EAB.
2.2.5.3 Hệ Thống ATM Thường Xuyên Bị Quá Tải
Trong những năm gần đây, mặc dù thị trường thẻ ATM phát triển nhanh
chóng nhưng số lượng thẻ ATM phát hành còn rất thấp so với tiềm năng thị
trường. Tuy nhiên, hệ thống ATM đã bắt đầu có dấu hiệu quá tải.
Hiện nay các ngân hàng đang nỗ lực chạy đua trong việc phát hành thẻ, số
lượng thẻ ATM không ngừng tăng lên và hệ thống máy ATM cũng được các
ngân hàng chú trọng đầu tư để phục vụ nhu cầu sử dụng thẻ ATM của khách

hàng. Tuy nhiên số lượng máy ATM hiện có và mạng lưới chấp nhận thẻ vẫn còn
khá ít đã gây ra tình trạng quá tải trong hệ thống ATM nhất là vào những lúc cao
điểm như ngày lễ, tết khi mà nhu cầu rút tiền của người dân tăng cao. Điều này
gây khó khăn cho người sử dụng và gây tâm lý sử dụng thẻ ATM không tiện lợi
so với sử dụng tiền mặt. Ngoài ra việc đặt máy ở một số nơi công cộng như: siêu
thị, nhà hàng, sân bay, nhà ga, khu công nghiệp, trường đại học… cũng gây ra
hạn chế về thời gian hoạt động do các máy không thể đặt ở những nơi mở vì lý
do an ninh không đảm bảo nên các máy ATM chỉ có thể hoạt động trong giờ
hành chính (nếu đặt trong các ngân hàng) hoặc đến 9-10 giờ tối (nếu đặt ở siêu
thị, nhà hàng, trung tâm thương mại…). Vì vậy trên lý thuyết máy ATM hoạt
động 24/24 giờ hiện nay chưa được thực hiện. Hơn nữa, việc các máy ATM của
Việt Nam hay bị hỏng cũng là một vấn đề gây trở ngại làm nản lòng người sử
dụng. Bên cạnh đó việc thẻ ATM do ngân hàng nào phát hành thì chỉ có máy của
ngân hàng đó mới sử dụng được cũng là một nguyên nhân góp phần làm quá tải
hệ thống máy ATM trong thời gian qua.
Các ngân hàng trong thời gian qua liên tục đầu tư để gia tăng số lượng máy
ATM nhằm phục vụ nhu cầu sử dụng của khách hàng. Thế nhưng hệ thống máy
ATM của các ngân hàng phân bố chưa đồng đều và hầu như chỉ phân bố ở thành
phố lớn như thành phố HCM và Hà Nội. Tại các thành phố này, các máy ATM
Trang 24
GVHD: Đinh Công Thành SVTH:Lê Anh Thuấn

cũng chỉ tập trung ở những nơi giao dịch của ngân hàng là chủ yếu. Thêm vào đó
hệ thống các điểm chấp nhận thẻ tương đối ít điều này đã làm gây tâm lý ngại sử
dụng thẻ ở khách hàng.
CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ
DỤNG THẺ ATM TẠI VIỆT NAM
3.3.1 Phát Triển Dịch Vụ
Hệ thống tài khoản và thẻ hiện nay được liên tục cải thiện và phát triển về
dịch vụ. Phát triển các dịch vụ Ngân hàng là giải pháp cần thiết. Trước đây đã có

những quy định bắt buộc phải thanh toán qua Ngân hàng. Nhưng kết quả là mệnh
lệnh hành chính đã chứng tỏ không hiệu quả và đến nay các giải pháp thị trường
đã vào cuộc. Khi mà dịch vụ Ngân hàng đã trở nên tiện lợi thì chẳng cần mệnh
lệnh, người ta cũng thanh toán qua Ngân hàng. Tuy nhiên việc phát triển dịch vụ
trong giai đoạn này cần tính đến vấn đề hội nhập.
3.3.2 Mở Rộng Mạng Lưới
Để tăng sự tiện lợi cho người sử dụng, một giải pháp đơn giản là các Ngân
hàng cần tăng cường liên kết hệ thống thanh toán thẻ với nhau, mở rộng hơn các
điểm chấp nhận thẻ nhằm tạo ra lợi thế kinh tế theo quy mô. Câu nói ngày xưa:
“một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại lên hòn núi cao” vẫn còn đúng
trong trường hợp này.
Xây dựng trung tâm chuyển mạch thẻ thống nhất, kết nối các hệ thống máy
tính ATM của các liên minh thẻ hiện hành thành một hệ thống thống nhất, đảm
bảo thẻ do một ngân hàng phát hành có thể sử dụng ở nhiều máy ATM và POS
của các ngân hàng khác.
33.3 Cải Tiến Công Nghệ
Việc quá tải mạng, đường truyền trục trặc xảy ra thường xuyên sẻ ảnh
hưởng không nhỏ đến người sử dụng. Giải pháp hạn chế các sự cố là đầu tư nâng
cấp hệ thống xử lý mới để tăng tốc độ xử lý cho phù hợp. Ngân hàng cần có
đường truyền dự phòng tốt nhất là sử dụng riêng. Chất lượng giao dịch ATM phụ
thuộc nhiều vào đường truyền, việc nâng cao chất lượng đường truyền cần được
cải thiện. Ngoài ra Ngân hàng cần tăng cường hơn nữa tính năng cho thẻ. Thẻ
Trang 25

×