Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

Pháp luật về chào bán cổ phần ra công chúng ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (273.05 KB, 56 trang )

LỜI NÓI ĐẦU

Trong năm 2006 vừa qua, thị trường chứng khoán đã có bước chuyển mình đáng
kinh ngạc, thu hút sự quan tâm của mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước.
Hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng đã góp phần không nhỏ vào sự phát
triển thành công của thị trường chứng khoán Việt Nam. Chào bán cổ phần ra công
chúng là hình thức huy động vốn hiệu quả, là nguồn cung loại hàng hóa cơ bản nhất
cho thị trường chứng khoán và là cầu nối giữa doanh nghiệp cổ phần và nhà đầu tư.
Luật chứng khoán 2006 ra đời đã tạo ra cơ chế điều chỉnh tương đối đồng bộ về
hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng. Tuy nhiên, một số hiện tượng tiêu
cực của hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng trong thời gian vừa qua thể hiện
pháp luật về chào bán cổ phần ra công chúng còn nhiều khe hở.
Từ thực tiễn nói trên, khóa luận tiến hành nghiên cứu về pháp luật chào bán cổ
phần ra công chúng ở Việt Nam hiện nay, phân tích và đánh giá thực trạng để từ đó
đưa ra một số kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về chào bán cổ phần
ra công chúng.
Kết cấu của khoá luận bao gồm ba phần: Lời nói đầu, Kết luận và Phần nội dung
gồm ba chương:
Chương 1: Vấn đề chung về pháp luật chào bán cổ phần ra công chúng
Chương 2: Thực trạng pháp luật về chào bán cổ phần ra công chúng ở Việt Nam
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật chào bán cổ phần ra công
chúng.
1
CHƯƠNG I
VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁP LUẬT CHÀO BÁN
CỔ PHẦN RA CÔNG CHÚNG
1.1 KHÁI NIỆM VỀ CỔ PHẦN VÀ CHÀO BÁN CỔ PHẦN RA CÔNG
CHÚNG
1.1.1 Khái niệm và phân loại cổ phần
Khái niệm về cổ phần và cổ phiếu:
So sánh với các loại hình doanh nghiệp đang tồn tại trong nền kinh tế thị trường,


công ty cổ phần có nhiều ưu điểm nổi trội. Một trong những lợi thế đặc biệt của
công ty cổ phần là khả năng chào bán cổ phần để thu hút vốn đầu tư.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, công ty cổ phần là doanh nghiệp có vốn
điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần (Điểm a Khoản 1
Điều 77 Luật doanh nghiệp 2005). Như vậy, mỗi cổ phần là một phần của vốn điều
lệ công ty và người sở hữu cổ phần là người sở hữu một phần công ty, được gọi là
cổ đông, nắm giữ cổ phiếu của công ty đó.
Luật doanh nghiệp 2005 định nghĩa “Cổ phiếu là chứng chỉ do công ty cổ phần
phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần
của công ty đó” (Khoản 1 Điều 85). Theo Luật chứng khoán 2006: “Cổ phiếu là
loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một
phần vốn của tổ chức phát hành” (Khoản 2 Điều 6 Luật chứng khoán 2006). Như
vậy, cổ phiếu là chứng thư xác nhận sự góp vốn và và quyền lợi hợp pháp của một
chủ thể đối với một công ty cổ phần đã phát hành ra cổ phiếu. Khi nói một người sở
hữu cổ phiếu của một công ty tương đương với người đó sở hữu cổ phần của chính
công ty đó.
Đặc điểm của cổ phiếu:
2
Thứ nhất: Cổ phiếu có tính thanh khoản cao, nghĩa là khả năng chuyển đổi
thành tiền mặt dễ dàng. Nhà đầu tư bỏ tiền ra mua cổ phiếu của một công ty, sau đó
dễ dàng bán đi để thu lại tiền đã đầu tư. Tuy nhiên tính thanh khoản của cổ phiếu
phụ thuộc vào hai yếu tố:
Một là, kết quả kinh doanh của công ty cổ phần đã phát hành cổ phiếu (còn gọi
là tổ chức phát hành). Nếu tổ chức phát hành có kết quả kinh doanh tốt, thu được
lợi nhuận cao, trả cổ tức cao sẽ thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà đầu tư,
khiến cổ phiếu của công ty có thể dễ dàng được mua bán trao đổi. Ngược lại, nếu tổ
chức phát hành kinh doanh kém hiệu quả dẫn đến tình trạng thua lỗ, nợ nần thì các
nhà đầu tư không dám mạo hiểm bỏ vốn mua cổ phần của công ty, dẫn đến cổ
phiếu của công ty đó có tính thanh khoản thấp.
Hai là, quan hệ cung cầu trên thị trường cổ phiếu và thị trường chứng

khoán.Thị trường cổ phiếu cũng như các thị trường mua bán các loại hàng hóa khác
đều chịu sự điều chỉnh của các quy luật thị trường đặc biệt là quy luật cung cầu.
Giá của cổ phiếu trên thị trường không chỉ phụ thuộc vào kết quả hoạt động sản
xuất kinh doanh của bản thân tổ chức phát hành mà còn phụ thuộc vào nhu cầu của
nhà đầu tư. Điều này đặc biệt dễ nhận thấy khi thị trường chứng khoán gặp biến
động mạnh, các nhà đầu tư theo tâm lý chung sợ mất tiền nên ồ ạt bán ra cổ phiếu.
Cổ phiếu tràn ngập thị trường tạo nên nguồn cung quá lớn trong khi số lượng nhà
đầu tư muốn mua vào quá ít, tính thanh khoản của cổ phiếu lúc này hạ xuống còn
rất thấp. Ngược lại khi thị trường cổ phiếu khan hiếm hàng hóa, nhu cầu của các
nhà đầu tư rất lớn thì ngay cả những cổ phiếu có chất lượng thấp cũng dễ dàng bán
được giá cao.
Thứ hai: Cổ phiếu có tính lưu thông. Tính lưu thông là khả năng chuyển giao
quyền sở hữu cổ phiếu cho người khác như một tài sản thực sự. Nếu như tính thanh
khoản giúp chủ sở hữu cổ phiếu chuyển đổi cổ phiếu thành tiền mặt thì tính lưu
3
thông đem lại cho người sở hữu nhiều khả năng sử dụng hơn như cho, tặng, để thừa
kế hay cầm cố tại ngân hàng để bảo đảm thực hiên nghĩa vụ tài sản khác.
Thứ ba: Cổ phiếu có tính tư bản giả, có nghĩa là cổ phiếu là một loại giấy tờ có
giá trị như tiền. Tuy nhiên, bản thân cổ phiếu không có giá trị nếu nó không được
đảm bảo bằng tiền. Mệnh giá của cổ phiếu cũng không phản ánh đúng giá trị thực
của cổ phiếu, và người ta định giá cổ phiếu dựa trên nhiều phương pháp khác nhau.
Thứ tư: Cổ phiếu có tính rủi ro: Là những đe dọa về an toàn vốn và thu nhập đối
với nhà đầu tư. Thể hiện rõ nét của đặc điểm này là cổ phiếu có thể xuống giá bất
thường và đột ngột do những biến cố của thị trường, đem lại sự thua lỗ nhanh
chóng cho các nhà đầu tư. Nguyên nhân là: Giá trị của cổ phiếu không nằm trong ý
định chủ quan của tổ chức phát hành hay nhà đầu tư, cổ phiếu có giá trị phụ thuộc
vào các yếu tố khách quan như tình hình tài chính của tổ chức phát hành, tình hình
kinh tế xã hội nói chung và những yếu tố chính trị nhạy cảm. Vì vậy, một biến động
chính trị lớn có thể làm chao đảo thị trường chứng khoán, cũng như sự sụp đổ của
thị trường chứng khoán của một quốc gia có thể kéo theo sự khủng hoảng của thị

trường chứng khoán nhiều nước khác, kéo theo giá của tất cả cả các cổ phiếu sụt
giảm bất thường. Hơn nữa hoạt động mua bán cổ phiếu phụ thuộc rất nhiều vào
thông tin trên thị trường, chỉ một thông tin bất lợi cho tổ chức phát hành dù chưa
được kiểm chứng cũng dễ dàng gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới khả năng thanh
khoản, lưu thông của cổ phiếu.
• Phân loại cổ phần
Cổ phần được chia thành hai nhóm là cổ phần ưu đãi và cổ phần phổ thông. Mỗi
loại cổ phần khác nhau mang lại cho người sở hữu những quyền và lợi ích nhất
định. Khả năng chuyển tự so chuyển nhượng cổ phần cũng tùy thuộc từng loại cổ
phần.
Cổ phần phổ thông
4
Cổ phần phổ thông là loại cổ phần phổ biến nhất và bắt buộc phải có đối với công
ty cổ phần. Tỷ lệ của giá trị vốn cổ phần phổ thông trên tổng giá trị vốn cổ phần
của công ty do điều lệ công ty quyết định. Người sở hữu cổ phần phổ thông là cổ
đông phổ thông. Các cổ đông sáng lập phải cùng nhau nắm giữ ít nhất 20% số cổ
phần phổ thông được quyền chào bán của công ty trong tối thiểu ba năm kể từ ngày
công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Quyền và nghĩa vụ cơ bản của cổ đông phổ thông gồm: Tham gia Đại hội đồng
cổ đông và biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng. Cổ đông
được chia cổ tức khi công ty làm ăn có lãi. Khi công ty giả thể phá sản, cổ đông
chịu trách nhiệm trong phạm vi vốn cổ phần đã góp vào công ty.
Cổ phần phổ thông được quy định tại Khoản 1 Điều 78 Luật doanh nghiệp 2005:
Công ty cổ phần phải có cổ phần phổ thông, người sở hữu cổ phần phổ thông là cổ
đông phổ thông. Chi tiết quyền và nghĩa vụ của cổ đông phổ thông được Luật
doanh nghiệp 2005 qui định tại Điều 79 và Điều 80. Luật doanh nghiệp 2005 cũng
qui định quyền tự do chuyển nhượng của cổ phần phổ thông trừ trường hợp cổ phần
phổ thông của cổ đông sáng lập ( Khoản 5 Điều 84 ).
Cổ phần ưu đãi
Cổ phần ưu đãi là loại cổ phần mang lại cho người sở hữu một số quyền ưu tiên

so với cổ phiếu thường. Cổ phần ưu đãi được quy định tại Khoản 2 Điều 78 Luật
doanh nghiệp 2005: “Công ty cổ phần có thể có cổ phần ưu đãi. Người sở hữu cổ
phần ưu đãi gọi là cổ đông ưu đãi”.
Không phải mọi nhà đầu tư đều có quyền nắm giữ cổ phần ưu đãi. Tùy từng loại
cổ phần ưu đãi mà luật và điều lệ công ty cổ phần có quy định khác nhau về điều
kiện nắm giữ và chuyển nhượng cổ phần ưu đãi.
Cổ phần ưu đãi gồm các loại sau đây:
Cổ phần ưu đãi biểu quyết: Cổ phần ưu đãi biểu quyết là cổ phần có số phiếu
biếu quyết cao hơn số phiếu biểu quyết của cổ phần phổ thông. Số phiếu biểu quyết
5
của cổ phần ưu đãi biểu quyết do điều lệ của công ty cổ phần quy định. Chỉ có cổ
đông sáng lập và tổ chức do Chính phủ ủy quyền (đối với công ty nhà nước cổ phần
hóa) mới được quyền nắm giữ cổ phiếu biếu quyết. Cổ phần ưu đãi biểu quyết của
cổ đông sáng lập cũng chỉ có hiệu lực trong ba năm kể từ ngày cấp Giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh, sau đó cổ phần biểu quyết của cổ đông sáng lập sẽ
chuyển thành cổ phần phổ thông. Luật doanh nghiệp 2005 không có quy định về
thời hạn hiệu lực của cổ phần ưu đãi biểu quyết do tổ chức được Chính phủ ủy
quyền nắm giữ, vì vậy có thể coi cổ phần ưu đãi biếu quyết do tổ chức được Chính
phủ ủy quyền nắm giữ có hiệu lực vô thời hạn. Mục đích của cổ phần ưu đãi biểu
quyết là để bảo vệ quyền lợi cho cổ đông sáng lập trong thời gian hợp lý vừa đủ để
duy trì sự ổn định của công ty mà không hạn chế quyền của các cổ đông khác; và
duy trì quyền kiểm soát của Nhà nước đối với những công ty cổ phần hoạt động
trong lĩnh vực ngành nghề quan trọng cần sự định hướng của Nhà nước.
Cổ phần ưu đãi cổ tức: Cổ phần ưu đãi cổ tức là cổ phần được trả cổ tức cao
hơn mức trả cổ tức của cổ phần phổ thông hoặc mức ổn định hàng năm. Cổ tức
được chia hàng năm gồm cổ tức cố định và cổ tức thưởng. Cổ tức cố định không
phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của công ty và phương thức xác định cổ tức
thưởng được ghi trên cổ phiếu của cổ phần ưu đãi cổ tức. Mục đích của cổ phần ưu
đãi cổ tức là thu hút vốn điều lệ bằng tỷ lệ lợi nhuận cao trên mỗi cổ phần, tuy
nhiên cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi cổ tức không có quyền biểu quyết, dự họp

Đại hội đồng cổ đông, để cử người vào Ban kiểm soát. Điều kiện này để dung hòa
quyền và nghĩa vụ của cổ đông nắm giữ cổ phần ưu đãi cổ tức bằng cách không cho
họ tham gia vào hoạt động quản trị công ty.
Cổ phần ưu đãi hoàn lại: Là cổ phần được công ty hoàn lại vốn góp bất cứ khi
nào theo yêu cầu của chủ sở hữu cổ phần hoặc theo các điều kiện ghi tại cổ phần ưu
đãi hoàn lại. Cổ đông nắm giữ cổ phần ưu đãi hoàn lại có lợi thế về bảo toàn vốn
6
nhưng cũng như cổ đông nắm giữ cổ phần ưu đãi cổ tức họ không có quyền can
thiệp vào các quyết định của công ty.
Cổ phần ưu đãi khác do công ty quy định: Ngoài các loại cổ phần ưu đãi nói
trên, công ty cổ phần có thể tự mình đưa ra thêm những loại cổ phần ưu đãi khác để
thu hút nhà đầu tư.
1.1.2 Chào bán cổ phần ra công chúng
• Định nghĩa chào bán cổ phần ra công chúng
Trước đây, Nghị định 144/2003/NĐ-CP định nghĩa phát hành chứng khoán ra
công chúng là việc chào bán một lượng chứng khoán có thể chuyển nhượng được
thông qua tổ chức trung gian cho ít nhất 50 nhà đầu tư ngoài tổ chức phát hành(
Khoản 7 Điều 3 Nghị định 144/2003/NĐ-CP)
Hiện nay, Luật chứng khoán 2006 đã có sự thay đổi về định nghĩa của chào bán
chứng khoán ra công chúng: Chào bán chứng khoán ra công chúng là việc chào bán
chứng khoán theo một trong các phương thức sau đây:
+ Thông qua phương tiện thông tin đại chúng kể cả internet;
+ Chào bán chứng khoán cho từ một trăm nhà đầu tư trở lên không kể nhà đầu tư
chuyên nghiệp;
+ Chào bán cho số lượng nhà đầu tư không xác định.
• Đặc điểm của hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng:
Hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng chỉ diễn ra trên thị trường sơ cấp.
Hoạt động chào bán cổ phần là hoạt động duy nhất có thể thiết lập được mối quan
hệ giữa tổ chức phát hành và nhà đầu tư, giúp nhà đầu tư có cơ hội góp vốn vào
công ty cổ phần: Các loại hình công ty khác ngoài công ty cổ phần như công ty

trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, nhà đầu tư muốn trở thành chủ sở hữu
công ty bắt buộc phải tham gia vào hoạt động thành lập công ty đó. Hình thức công
ty cổ phần có nhiều ưu điểm do nhà đầu tư chỉ cần có một lượng vốn nhất định là
7
có thể tham gia sở hữu cổ phiếu của công ty, qua đó sở hữu một phần công ty. Công
ty cổ phần muốn tăng vốn điều lệ bằng cách bán cổ phần của mình cho các nhà đầu
tư bắt buộc phải thông qua hoạt động chào bán cổ phiếu. Trong tất cả các hoạt động
của thị trường cổ phiếu chỉ có hoạt động chào bán cổ phiếu là thiết lập mối quan
hệ giữa tổ chức phát hành và nhà đầu tư. Khi chào bán cổ phiếu của mình tổ chức
phát hành công bố những thông tin về tình hình tài chính, lĩnh vực hoạt động sản
xuất kinh doanh, kết quả hoạt động kinh doanh, bộ máy quản trị công ty. Nhà đầu
tư phân tích những thông tin do tổ chức phát hành cung cấp và quyết định đầu tư
vào cổ phiếu và trở thành cổ đông của công ty.
Trong hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng, tổ chức phát hành và nhà đầu
tư không trực tiếp liên hệ với nhau mà bắt buộc phải qua trung gian là công ty
chứng khoán thực hiện tổ chức đấu giá cổ phần hoặc công ty chứng khoán thực
hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành cho doanh nghiệp. Tổ chức phát hành không
được phép tự mình bán cổ phiếu cho nhà đầu tư mà buộc phải tuân theo một quy
trình nghiêm ngặt để đảm bảo quyền lợi cho nhà đầu tư.
• Hình thức chào bán cổ phần ra công chúng
Theo quy định tại điều 11 Luật chứng khoán 2006, hình thức chào bán cổ phần
ra công chúng gồm chào bán cổ phần lần đầu ra công chúng và chào bán thêm cổ
phần ra công chúng.
+ Chào bán cổ phần lần đầu ra công chúng:
Chào bán cổ phần lần đầu ra công chúng gồm chào bán cổ phiếu để huy động vốn
điều lệ, thành lập mới công ty cổ phần và chào bán để chuyển đổi cơ cấu sở hữu
thành công ty đại chúng mà không làm thay đổi vốn điều lệ của công ty.
Công ty cổ phần mới thành lập có thể thực hiện luôn hình thức chào bán cổ phần ra
công chúng để thu hút vốn điều lệ và trở thành công ty đại chúng nhưng cũng có
thể thực hiện chào bán cổ phần riêng lẻ hoặc chỉ dừng lại ở phạm vi vốn trong cổ

đông sáng lập.
8
+ Chào bán thêm cổ phần ra công chúng:
Công ty đại chúng có kết quả hoạt động kinh doanh tốt muốn tăng vốn điều lệ,
mở rộng qui mô có thể chào bán thêm cổ phần ra công chúng. Trình tự chào bán cổ
phần thêm ra công chúng cũng giống như chào bán cổ phần lần đầu. Tổ chức phát
hành phải chứng minh được năng lực tài chính và năng lực quản trị của mình trong
hồ sơ chào bán cổ phiếu gửi lên Ủy ban chứng khoán Nhà nước, sau đó tiến hành
hoạt động chào bán như chào bán cổ phần lần đầu. Đặc điểm khác biệt của chào
bán thêm cổ phần ra công chúng là tổ chức phát hành phải dành quyền ưu tiên cho
cổ đông của công ty để bảo đảm tỷ quyền lợi của họ không thay đổi khi công ty
thay đổi quy mô vốn điều lệ. Quyền ưu tiên được thể hiện bằng quyền mua cổ phần
do tổ chức phát hành cung cấp cho các cổ đông, theo đó cổ đông được mua thêm
một số lượng cổ phiếu mới theo giá nhất định trong một thời hạn nhất định để đảm
bảo tỷ lệ sở hữu đối với phần vốn điều lệ của công ty. Cổ đông có thể sử dụng dụng
quyền ưu tiên của mình hoặc chuyển nhượng cho người khác. Giá đăng ký mua cổ
phiếu và thời hạn đăng ký mua cổ phiếu trong quyền mua cổ phần do tổ chức phát
hành quy định. Giá đăng ký mua cổ phiếu luôn thấp hơn giá thị trường của cổ phiếu
và thời hạn đăng ký ngắn chỉ từ một đến sáu tuần.
Cổ đông sở hữu cổ phiếu ưu đãi cũng có quyền ưu tiên mua như cổ đông phổ
thông. Tổ chức phát hành có thể phát hành cho cổ đông ưu đãi chứng quyền hoặc
bảo chứng phiếu. Bảo chứng phiếu cũng quy định số lượng cổ phiếu phổ thông
được quyền mua nhưng có thời hạn dài hơn chứng quyền, hoặc thời hạn vĩnh viễn.
Công ty đại chúng chào bán thêm cổ phần ra công chúng để thay đổi cơ cấu sở
hữu mà không làm tăng thêm vốn điều lệ: Đây là trường hợp công ty đại chúng đã
thực hiện chào bán cổ phần ra công chúng nhưng chưa bán hết số lượng cổ phiếu
được phép phát hành. Tổ chức phát hành thực hiện đợt chào bán thêm cổ phiếu
chưa phát hành ra công chúng. Do công ty cổ phần chưa phát hành hết cổ phần của
9
mình ra công chúng nên khi thực hiện chào bán thêm cổ phiếu công ty không phát

hành kèm theo chứng quyền cho cổ đông của công ty.
• Ý nghĩa của chào bán cổ phần ra công chúng
Cũng như hoạt động chào bán cổ phần nói chung, chào bán cổ phần ra công chúng
là hoạt động thu hút đầu tư, tạo lập vốn điều lệ ban đầu hoặc tăng qui mô vốn điều
lệ để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. So với các phương pháp huy động
vốn đầu tư khác như vay vốn từ tổ chức tín dụng hoặc phát hành trái phiếu công ty,
huy động vốn bằng chào bán cổ phần ra công chúng có nhiều ưu điểm :
Thứ nhất, khoản thu được từ chào bán cổ phiếu không cấu thành một khoản nợ mà
công ty có trách nhiệm hoàn trả, làm giảm áp lực về khả năng cân đối thanh khoản
của công ty.
Thứ hai, khả năng thu được lượng vốn lớn từ xã hội do không hạn chế số lượng
nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư cá nhân. Công ty cổ phần thực hiện chào bán cổ
phần riêng lẻ bị hạn chế số lượng cổ đông và thông thường chỉ bán cổ phần cho
những nhà đầu tư có mối quan hệ mật thiết với tổ chức phát hành. Nếu thực hiện
chào bán cổ phần ra công chúng tổ chức phát hành chỉ cần cung cấp thông tin về
tình hình hoạt động của doanh nghiệp, khả năng tài chính và năng lực bộ máy quản
trị theo quy định của pháp luật, những nhà đầu tư có nhu cầu sẽ tìm hiểu và quyết
định mua cổ phiếu. Thông tin về tổ chức phát hành được công bố rộng rãi là cơ hội
để mọi nhà đầu tư, đặc biệt là những nhà đầu tư cá nhân có cơ hội góp vốn. Số
lượng nhà đầu tư không bị hạn chế tạo cho tổ chức phát hành cơ hội huy động được
nguồn vốn dư thừa dồi dào trong công chúng. Đây là ưu điểm nổi bật của hình thức
chào bán ra công chúng.
Thứ ba, các loại cổ phiếu đuợc chào bán rộng rãi ra công chúng mới thực sự là cổ
phiếu có tính thanh khoản cao. Nhà đầu tư sở hữu cổ phiếu được chào bán ra công
chúng có toàn quyền tự do chuyển nhượng cổ phiếu của mình (trừ trường hợp cổ
phiếu ưu đãi biểu quyết hoặc cổ phiếu phổ thông của của cổ đông sáng lập khi
10
chuyển nhượng phải tuân theo một số yêu cầu của pháp luật). Công ty cổ phần chào
bán riêng lẻ luôn bị giới hạn số lượng cổ đông duới một trăm nhà đầu tư trừ nhà
đầu tư chuyên nghiệp. Chính vì vậy, khi một cổ đông muốn chuyển nhượng một

phần cổ phần của mình họ không thể tự do chuyển nhượng cho bất kỳ ai, mà phải
đảm bảo sau khi chuyển nhượng công ty cổ phần vẫn giữ đuợc số lượng cổ đông
duới một trăm (trừ cổ đông là nhà đầu tư chuyên nghiệp). Ngoài ra, chào bán cổ
phiếu ra công chúng giúp cho cổ phiếu được niêm yết và giao dịch trên thị trường
tập trung khiến cho hoạt động mua bán cổ phiếu dễ dàng và thuận tiện.
Thứ tư, chào bán cổ phiếu ra công chúng giúp tổ chức phát hành quảng bá được
tên tuổi, thương hiệu của mình. Để được cấp giấy chứng nhận chào bán cổ phần ra
công chúng, công ty cổ phần phải thỏa mãn đuợc những điều kiện khắt khe về công
bố thông tin, chế độ kiểm toán của các cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán
và thị trường chứng khoán. Do vậy, một công ty có cổ phiếu đuợc chào bán rộng rãi
mặc nhiên được đánh giá cao hơn các công ty khác cùng lĩnh vực, ngành nghề
không thực hiện chào bán cổ phiếu ra công chúng. Một công ty đại chúng có kết
quả kinh doanh tốt sẽ thu hút được nhiều sự chú ý của các nhà đầu tư, cổ phiếu của
công ty lên giá và qua đó công ty được quảng bá bằng chính cổ phiếu của mình.
• Vai trò của chào bán cổ phần ra công chúng
Chào bán cổ phần ra công chúng không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với tổ
chức phát hành mà cả với nhà đầu tư và tòan bộ nền kinh tế:
Đối với tổ chức phát hành, chào bán cổ phần ra công chúng là công cụ huy động
vốn hiệu quả và linh hoạt. Trước khi Việt Nam có thị trường chứng khoán, các
doanh nghiệp chỉ có thể vay vốn từ ngân hàng với lãi suất nhất định trong một thời
hạn nhất định và thường phải thế chấp tài sản cố định để bảo đảm khoản vay. Huy
động vốn bằng phương thức chào bán cổ phần ra công chúng không chỉ thu hút
được lượng vốn lớn mà còn giảm áp lực cho tổ chức phát hành về nghĩa vụ hoàn trả
và cân đối thanh khoản của công ty.
11
Đối với nhà đầu tư, hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng là cơ hội tốt để họ
góp vốn vào những công ty có triển vọng kinh doanh tốt, tăng khả năng sinh lợi cho
đồng tiền của mình.Nhà đầu tư được chia thành hai loại là: nhà đầu tư cá nhân và
nhà đầu tư chuyên nghiệp.
Nhà đầu tư cá nhân chủ yếu là các cá nhân và hộ gia đình. Từng cá nhân và hộ

gia đình riêng lẻ không có nhiều tiền nhưng chiếm số lượng lớn trong xã hội và là
đối tượng chính hoạt động chào bán ra công chúng nhắm đến. Chỉ khi các công ty
cổ phần chọn hình thức chào bán cổ phần ra công chúng thì đông đảo các nhà đầu
tư cá nhân mới có cơ hội tham gia vào hoạt động mua cổ phiếu của công ty. Đối với
các đợt chào bán cổ phiếu riêng lẻ, nhà đầu tư cá nhân thực sự không có nhiều cơ
hội trở thành cổ đông của công ty vì bị hạn chế số lượng và thông tin. Những công
ty nhà nước cổ phần hóa chào bán riêng lẻ thường chỉ bán cho một bộ phận cán bộ
công nhân viên của công ty, không thể bán hết cho toàn bộ người lao động vì hạn
chế số lượng. Thêm vào đó, các nhà đầu tư cá nhân khi muốn chuyển nhượng cổ
phiếu chào bán riêng lẻ gặp khó khăn hơn so với cổ phiếu được chào bán ra công
chúng vì ràng buộc bởi những quy định về điều kiện chuyển nhượng của công ty.
+ Nhà đầu tư chuyên nghiệp là các ngân hàng thương mại, công ty tài chính, công
ty cho thuê tài chính, tổ chức kinh doanh bảo hiểm, tổ chức kinh doanh chứng
khoán. Nhà đầu tư chuyên nghiêp khác nhà đầu tư cá nhân ở quy mô tổ chức và
nghiệp vụ. Đối với hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng các tổ chức nói trên
không chỉ là nhà đầu tư đơn thuần mà còn đóng vai trò trung gian quan trọng giữa
nhà đầu tư và tổ chức phát hành
• Vai trò của chào bán cổ phần ra công chúng với toàn bộ nền kinh tế
Chào bán cổ phần ra công chúng là một bộ phận của chào bán cổ phần, là hoạt
động khởi điểm mở đầu cho mọi hoạt động của thị trường cổ phiếu. Cổ phiếu được
giao dịch trên thị trường có đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng hay không phụ thuộc
phần lớn vào hoạt động chào bán.
12
Để được chào bán cổ phiếu ra công chúng các công ty cổ phần phải thỏa mãn một
số điều kiện nhất định về vốn điều lệ, về kết quả kinh doanh trong một thời gian cụ
thể, cùng các quy định khắt khe về kế toán và kiểm toán. Sau khi phát hành cổ
phiếu ra ra công chúng các công ty này phải tiếp tục duy trì chế độ báo cáo thông
tin đầy đủ và minh bạch về những hoạt động của công ty cũng như về tình hình tài
chính dưới sự kiểm tra và giám sát của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Vì
vậy, hoạt động chào bán cổ phiếu ra công chúng sẽ tăng chất lượng và độ chính xác

của các bản báo cáo tài chính, làm trong sạch môi trường đầu tư và kinh doanh.
Điều kiện, thủ tục chào bán cổ phiếu được lập theo chuẩn chung do nhà nước quy
định nên vừa đảm bảo tính chính xác cao vừa thuận tiện cho việc so sánh đánh giá
kết quả hoạt động của các công ty cổ phần.
1.2 PHÁP LUẬT VỀ CHÀO BÁN CỔ PHẦN RA CÔNG CHÚNG
1.2.1 Các văn bản pháp luật quy định về chào bán cổ phần ra công chúng
Thị trường chứng khoán Việt Nam tuy mới chính thức đi vào hoạt động từ ngày
20 tháng 7 năm 2000 nhưng đến nay đã có nhiều bước phát triển ấn tượng. Song
song với sự phát triển của thị trường chứng khoán và hoạt động chào bán cổ phần
ra công chúng, pháp luật điều chỉnh lĩnh vực này đã có nhiều thay đổi phù hợp với
từng giai đoạn phát triển của thị trường.
Nghị định 48/1998/NĐ-CP của Chính phủ ra ngày 11 tháng 7 năm 1998 là tiền
thân của Nghị định 144/2003/NĐ-CP và Luật chứng khoán 2006 văn bản đầu tiên
điều chỉnh hoạt động của thị trường chứng khoán trong đó có hoạt động phát hành
chứng khoán ra công chúng. Ra đời cùng với Nghị định 48/1998/NĐ-CP là quyết
định 127/1998/QĐ-TTg về việc thành lập hai trung tâm giao dịch chứng khoán Hà
Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, tạo thị trường giao dịch tập trung cho hoạt động
mua bán chứng khoán nói chung và hoạt động mua bán cổ phiếu nói riêng.
Trong năm năm đầu đi vào hoạt động (2000-2004) thị trường chứng khoán Việt
Nam không có nhiều phát triển, hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng cũng
13
không thể hiện được bộ mặt của nền kinh tế, các doanh nghiệp Việt Nam hầu như
không mặn mà với phương thức huy động vốn được đánh giá là rất linh hoạt và
hiệu quả này. Nghị định 144/2003/NĐ-CP của Chính phủ về chứng khoán và thị
trường chứng khoán ra đời được đánh giá là chưa đáp ứng được yêu cầu của thực
tiễn phát triển của thị trường chứng khoán và hoạt động chào bán cổ phần ra công
chúng.
Trước yêu cầu xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh về chứng khoán và
thị trường chứng khoán, ngày 29 tháng 6 năm 2006, tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa
XI đã thông qua Luật chứng khoán 2006. Luật chứng khoán 2006 đã hệ thống lại

toàn diện các quy phạm điều chỉnh hoạt động của thị trường chứng khoán trong đó
có những nội dung quan trọng của hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng: Điều
kiện chào bán, thủ tục trình tự chào bán, và trách nhiệm của các cơ quan tổ chức có
liên quan.
Năm 2006 là một năm có nhiều sự kiện quan trọng về kinh tế xã hội như Việt
Nam đạt được quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) với Hoa Kỳ và
gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO là động lực thúc đẩy sự phát triển ấn
tượng của thị trường chứng khoán Việt Nam. Hoạt động chào bán cổ phần ra công
chúng của các công ty cổ phần thuộc mọi lĩnh vực kinh doanh phát triển mạnh mẽ
và nảy sinh nhiều vấn đề cần giải quyết. Để trợ giúp cho hoạt động thực thi Luật
chứng khoán 2006 về chào bán cổ phần ra công chúng được hiệu quả, các cơ quan
quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán đã xây dựng và ban
hành thêm những văn bản hướng dẫn như Nghị định 14/2007/NĐ-CP của Chính
phủ về hướng dẫn thi hành Luật chứng khoán 2006 trong đó có chi tiết hóa các quy
định về chào bán cổ phần ra công chúng.
Bên cạnh đó, một văn bản rất quan trọng cũng điều chỉnh hoạt động chào bán cổ
phần ra công chúng của đối tượng doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa là Nghị định
187/2004/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 16 tháng 11 năm 2004 vẫn còn
14
hiệu lực thi hành. Tổng hợp những văn bản pháp lý nói trên tạo thành hệ thống quy
phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng ở Việt Nam.
1.2.2 Nội dung pháp luật chào bán cổ phần ra công chúng
Luật chứng khoán 2006 ra đời đã luật hóa những quy định về chào bán cổ phần ra
công chúng, tạo điều kiện để hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng được thực
hiện hiệu quả và thống nhất. Kết hợp với các quy định tại Nghị định 187/NĐ-CP
của Chính phủ và các văn bản dưới luật khác, pháp luật chào bán cổ phần ra công
chúng điều chỉnh những nội dung sau:
• Chủ thể của hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng
Chủ thể chào bán cổ phần ra công chúng là những công ty cổ phần được phép của
Ủy ban chứng khoán nhà nước sau khi đã đáp ứng đầy đủ các quy định của pháp

luật về điều kiện chào bán và trình tự thủ tục chào bán cổ phần ra công chúng.
Công ty cổ phần:
Công ty cổ phần là một pháp nhân có trách nhiệm hữu hạn, được thành lập và
tồn tại độc lập với những chủ sở hữu công ty. Vốn của công ty được chia nhỏ thành
những phần bằng nhau gọi là cổ phần và được phát hành nhằm mục đích huy động
vốn của các nhà đầu tư từ mọi thành phần kinh tế. Các nhà đầu tư khi mua cổ phần
của công ty trở thành chủ sở hữu một phần vốn góp của công ty gọi là cổ đông của
công ty. Cổ đông được quyền tham gia quản lý kiểm soát điều hành công ty thông
qua việc bầu cử và ứng cử vào các vị trí trong Ban quản lý, Ban kiểm soát, Ban
điều hành. Ngoài ra cổ đông được hưởng các khoản lợi nhuận do công ty tạo ra
được cũng như chịu lỗ tương ứng với mức độ đóng góp (tỉ lệ thuận với cổ phần của
họ).
Công ty cổ phần có nhiều ưu điểm nổi trội so với các loại hình công ty khác:
- Ưu điểm thứ nhất là cấu trúc vốn của công ty mềm dẻo linh hoạt. Công ty cổ
phần có thể tăng vốn bằng cách chào bán cổ phần ra công chúng, là hình thức huy
động vốn đặc trưng không có ở các loại hình công ty khác như công ty trách nhiệm
15
hữu hạn, công ty hợp danh...Cấu trúc vốn mềm dẻo khiến quy mô của công ty cổ
phần rất phong phú, có thể có quy mô vốn nhỏ từ vài tỷ đồng đến vài nghìn tỷ
đồng.
- Ưu điểm thứ hai là khả năng điều chuyển vốn linh hoạt. Các cổ đông có thể dễ
dàng mua bán chuyển nhượng phần sở hữu của mình cho các cổ đông khác hoặc
người ngoài công ty.
Công ty nhà nước cổ phần hóa:
Công ty nhà nước cổ phần hóa chiếm số lượng đáng kể trong số những công ty
cổ phần đang ký chào bán cổ phiếu ra công chúng. Các công ty này có đặc điểm
khác với công ty cổ phần thông thường vì có giai đoạn chuyển đổi từ công ty nhà
nước sang công ty cổ phần. Công ty nhà nước cổ phần hóa là đặc trưng của những
nước có nền kinh tế chuyển đổi như Việt Nam và Trung Quốc.
Công ty nhà nước cổ phần hóa là các doanh nghiệp nhà nước được chuyển đổi

hình thức sở hữu từ một trăm phần trăm vốn nhà nước hoặc có tỉ lệ vốn góp chi
phối (từ năm mươi mốt phần trăm trở lên) thành công ty cổ phần. Mục tiêu chuyển
đổi công ty nhà nước thành công ty cổ phần nhằm huy động nguồn vốn của các cá
nhân, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và ngoài nước nhằm nâng cao
công nghệ cải tiến kỹ thuật đổi mới phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả
và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Đối tượng công ty nhà nước không thuộc diện nhà nuớc nắm một trăm phần
trăm vốn được cổ phần hóa đuợc quy định tại nghị định 187/2004/CP bao gồm các
tổng công ty nhà nước( bao gồm cả các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài
chính nhà nước), công ty nhà nước độc lập, công ty thành viên hạch tóan độc lập
của tổng công ty do nhà nước quyết định đầu tư và thành lập, đơn vị hạch toán phụ
thuộc của công ty nhà nước.
Những doanh nghiệp do nhà nuớc nắm một trăm phần trăm vốn là đối tượng cổ
phần hóa được quy định trong danh mục cụ thể do Thủ tướng Chính phủ ban hành.
16
• Điều kiện chào bán cổ phần ra công chúng
Tùy theo từng loại công ty cổ phần mà pháp luật đòi hỏi điều kiện khác nhau đối
với hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng:
+ Công ty cổ phần thành lập theo luật doanh nghiệp: Là công ty cổ phần ngoài
quốc doanh, điều kiện chào bán cổ phần ra công chúng của loại hình công ty cổ
phần này hoàn toàn tuân theo Luật doanh nghiệp 2005 và Luật chứng khoán 2006.
Điều kiện về tư cách của doanh nghiệp: là công ty cổ phần được thành lập hợp
pháp, có điều lệ công ty không trái với quy định của Luật doanh nghiệp 2005.
Điều kiện về vốn: Vốn điều lệ đã góp phải đạt mười tỷ đồng trở lên tính theo giá trị
sổ sách kế toán (Điểm a Khoản 1 Điều 12 Luật chứng khoán 2006 )
Điều kiện về tình hình hoạt động của công ty: Công ty phải có kết quả kinh doanh
tốt, có lãi trong năm liền trước năm đăng ký hồ sơ chào bán, không có lỗ lũy kế
tính đến năm đăng ký chào bán cổ phần ra công chúng.
Có phương án phát hành và phương án sử dụng vốn được Đại hội đồng cổ đông
thông qua.

+ Công ty nhà nước cổ phần hóa:
Đối với công ty nhà nước cổ phần hóa đăng ký chào bán cổ phiếu ra công chúng thì
phải thỏa mãn được các điều kiện quy định tai Nghị định 187/2004/NĐ-CP của
Chính phủ về việc chuyển các công ty nhà nước thành công ty cổ phần:
Công ty nhà nước không nắm 100% vốn : Điều kiện cổ phần hóa là: Vẫn còn vốn
nhà nước (không tính giá trị quyền sử dụng đất) sau khi giảm trừ giá trị tài sản
không cần dùng và tài sản chờ thanh lý; các khoản tổn thát do lỗ, giảm giá trị tài
sản; công nợ không có khả năng thu hồi và chi phí cổ phần hóa.
Đối với đơn vị hạch toán độc lập của các công ty nhà nước không nắm 100% vốn
đòi hỏi đơn vị hạch toán phụ thuộc phải có điều kiện hạch toán độc lập và khi tách
đơn vị để cổ phần hóa thì không làm ảnh hưởng xấu đến hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp hoặc của các bộ phận khác của doanh nghiệp.
17
Công ty 100% vốn nhà nước phải thuộc danh mục công ty 100% vốn nhà nước
chuyển đổi thành công ty cổ phần do Chính phủ ban hành.
Sau khi đạt điều kiện chuyển đổi thành công ty cổ phần, cơ quan quyết định cổ
phần hóa sẽ quyết định hình thức chào bán cổ phần là chào bán cổ phần ra công
chúng hoặc chào bán cổ phần riêng lẻ.
• Thủ tục chào bán cổ phần ra công chúng
Trừ trường hợp doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa, tất cả các công ty cổ phần
muốn thực hiện chào bán cổ phần ra công chúng trước hết phải đăng ký với Ủy ban
Chứng khoán Nhà nước.
Hồ sơ đăng ký chào bán cổ phần ra công chúng được quy định tại Khoản 1
Điều 14 Luật chứng khoán 2006 và được hướng dẫn chi tiết tại Thông tư số
17/2007/TT-BTC của Bộ tài chính ban hành ngày 13 tháng 3 năm 2007 hướng dẫn
hồ sơ đăng ký chào bán cổ phần ra công chúng.
Theo đó, hồ sơ đăng ký chào bán cổ phiếu ra công chúng gồm:
- Giấy đăng ký chào bán ra công chúng được lập theo mẫu do Bộ tài chính
quy định.
- Bản cáo bạch

- Điều lệ công ty
- Quyết định của Đại hội đồng cổ đông thông qua phương án phát hành và
phương án sử dụng vốn thu được từ đợt chào bán.
- Cam kết bảo lãnh phát hành (nếu có): Cam kết bảo lãnh phat hành thực hiện
theo quy định của Bộ tài chính, nếu thực hiện bảo lãnh là tổ hợp các công ty chứng
khoán thì cam kết phát hành là của tổ chức bảo lãnh phát hành chính có kèm theo
hợp đồng giữa các tổ chức bảo lãnh phát hành.
- Quyết định của Hội đồng quản trị công ty thông qua hồ sơ (Đối với doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là quyết định của Hội đồng quản trị doanh nghiệp
liên doanh hoặc quyết định của chủ doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài). Trường
18
hợp tổ chức phát hành là tổ chức tín dụng thì hồ sơ phải có văn bản chấp thuận của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
- Văn bản xác nhận của tổ chức các nhân với một phần hoặc toàn bộ hồ sơ
đăng ký chào bán cổ phiếu ra công chúng (trong trường hợp cần sự xác nhận của cá
nhân, tổ chức đó đối với thông tin trong hồ sơ).
Đối với trường hợp đặc biệt khi tổ chức phát hành là doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài chuyển đổi thành công ty cổ phần hoặc doanh nghiệp thành lập mới
thuộc lĩnh vực cơ sở hạ tầng hoặc công nghệ cao, hồ sơ đăng ký chào bán cổ phiếu
ra công chúng tuân theo quy định chi tiết tại Thông tư số 17/2007/TT-BTC của Bộ
tài chính ban hành ngày 13 tháng 3 năm 2007 về hướng dẫn hồ sơ đăng ký chào
bán chứng khoán ra công chúng.
Sau khi hoàn tất nội dung tổ chức phát hành gửi hồ sơ chào bán cổ phần ra công
chúng lên Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và trong vòng ba mươi ngày, nếu không
có gì thiếu sót Ủy ban sẽ cấp giấy chứng nhận chào bán cổ phần ra công chúng cho
tổ chức phát hành. Trường hợp hồ sơ không đạt yêu cầu Ủy ban Chứng khoán Nhà
nước gửi trả lại cho tổ chức phát hành kèo theo văn bản nêu rõ ký do hồ sơ không
được chấp thuận.
Tổ chức phát hành sau khi được cấp giấy chứng nhận tiến hành hoạt động phân
phối cổ phiếu theo nguyên tắc công bằng công khai. Tiền mua cổ phiếu được

chuyển vào tài khoản phong tỏa tại ngân hàng cho đến khị hoàn tất việc chào bán.
Việc phân phối cổ phiếu phải được hoàn tất trong vòng chín mươi ngày kể từ khi
Giấy chứng nhận chào bán cổ phiếu có hiệu lực.
Kết thúc đợt chào bán, tổ chức phát hành thực hiện chuyển giao cổ phiếu hoặc
giấy chứng nhận quyền sở hữu cổ phiếu cho nhà đầu tư trong thời hạn ba mươi
ngày.
1.2.3 Vai trò của pháp luật với hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng
19
Pháp luật luôn đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong công cuộc xây dựng và
phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt đối với
những lĩnh vực nhạy cảm nhiều rủi ro như thị trường chứng khoán và hoạt động
chào bán cổ phần ra công chúng thì pháp luật là công cụ không thể thiếu được để
để bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư và bảo đảm môi trường đầu tư được lành mạnh
và an toàn.
Nhà đầu tư, nhất là nhà đầu tư cá nhân không có khả năng tự bảo vệ mình đối
với những rủi ro của việc mua cổ phiếu: Nhà đầu tư hoàn toàn bị động trước những
thông tin do tổ chức phát hành đưa ra, họ không có điều kiện và công cụ để tự mình
kiểm tra tính xác thực của những thông tin đó. Tổ chức phát hành có thể che giấu
thông tin hoặc gian lận thông tin, gây thiệt hại cho nhà đầu tư. Vì vậy, cần phải có
những quy phạm pháp luật quy định trách nhiệm của tổ chức phát hành khi công bố
thông tin.
Cổ phiếu được lưu hành trên thị trường phải đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng cụ
thể. Nếu để cổ phiếu có chất lượng thấp được chào bán rộng rãi ra công chúng thì
khi có hậu quả xấu xảy ra, ví dụ như công ty cổ phần phá sản sẽ gây thiệt hại không
chỉ cho các cổ đông của công ty mà có thể dẫn đến sự biến động của toàn bộ thị
trường chứng khoán. Để đảm bảo chất lượng của cổ phiếu được chào bán, pháp luật
quy định những điều kiện chào bán ra công chúng. Những điều kiện này góp phần
sàng lọc loại bỏ những công ty cổ phần không đủ tiêu chuẩn phát hành cổ phiếu ra
công chúng.
Hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng là một hoạt động tài chính phức tạp,

đòi hỏi nhiều kỹ năng nghiệp vụ chuyên môn và dễ phát sinh những rủi ro trong
quá trình thực hiện. Do đó, để quá trình thực hiện hoạt động chào bán cổ phần ra
công chúng được an toàn, chặt chẽ và thống nhất cần có quy phạm pháp luật điều
chỉnh trình tự thủ tục chào bán cổ phần ra công chúng.
20
Cuối cùng, để ngăn chặn, cảnh cáo và răn đe các cá nhân tổ chức có ý định hoặc
đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động chào bán cổ phần ra công
chúng, pháp luật quy định những chế tài xử lý nghiêm minh.

21
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CHÀO BÁN CỔ PHẦN
RA CÔNG CHÚNG Ở VIỆT NAM
2.1 CHỦ THỂ CHÀO BÁN CỔ PHẦN RA CÔNG CHÚNG
Theo pháp luật hiện hành, ở Việt Nam chỉ có hai chủ thể được chào bán cổ phần ra
công chúng là công ty cổ phần và công ty nhà nước cổ phần hóa.
2.1.1 Công ty cổ phần
Huy động vốn bằng phương thức phát hành cổ phiếu là một quyền năng cơ bản,
đặc thù của công ty cổ phần, được quy định tại Khoản 3 Điều 77 Luật doanh nghiệp
2005.
Căn cứ vào tư cách chủ thể chào bán cổ phần ra công chúng, công ty cổ phần có
những loại sau:
- Công ty cổ phần được thành lập mới theo Luật doanh nghiệp 2005 thực hiện chào
bán cổ phần ra công chúng để tạo lập vốn điều lệ:
Theo Luật doanh nghiệp 2005, kể từ ngày cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh, các cổ đông sáng lập phải cùng nhau nắm giữ ít nhất 20% số cổ phần phổ
thông được quyền chào bán. Đây là sự trở lại tiến bộ của quy định tại Luật doanh
nghiệp 1990 mà Luật doanh nghiệp 1999 đã bỏ qua. Số cổ phần được quyền bán
còn lại phải được chào bán và bán hết trong thời hạn ba năm kể từ ngày Giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh có hiệu lực. Như vậy công ty cổ phần chỉ có tư cách chào

chào bán cổ phần ra công chúng sau khi các cổ đông sáng lập nắm giữ ít nhất 20%
cổ phần phổ thông được quyền chào bán.
- Công ty đại chúng chào bán thêm cổ phần ra công chúng:
Công ty đại chúng là công ty cổ phần đã thực hiện chào bán cổ phần ra công chúng
hoặc có cổ phiếu niêm yết tại trung tâm giao dịch chứng khoán hoặc có từ một trăm
cổ đông trở lên (không kể cổ đông là nhà đầu tư chuyên nghiệp) với vốn điều lệ đã
góp từ mười tỷ đồng trở lên. Công ty đại chúng có đặc điểm là đã thực hiện chào
22
bán cổ phần ra công chúng hoặc chưa chào bán cổ phần nhưng quy mô và số lượng
cổ đông lớn.
- Công ty cổ phần tiền thân là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài:
Pháp luật hiện hành chỉ quy định hai trường hợp chào bán cổ phần ra công chúng
của công ty cổ phần do doanh nghiệp nước ngoài chuyển đổi thành bao gồm:
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện chuyển đổi thành công ty cổ
phần kết hợp chào bán cổ phần ra công chúng và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài chuyển đã chuyển đổi thành công ty cổ phần. Có thể thấy rằng tuy pháp luật
về đầu tư cho phép nhà đầu tư nước ngoài khi thực hiện đầu tư trực tiếp vào Việt
Nam được phép thành lập mọi loại hình doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp 2005
(Khoản 1 Điều 22 Luật đầu tư 2005) trong đó có hình thức công ty cổ phần nhưng
pháp luật về chứng khoán đã hạn chế không cho nhà đầu tư nước ngoài có quyền
thực hiện hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng để thành lập mới công ty cổ
phần tại Việt Nam. Có thể nói đây là quy định rất hay, cần thiết để bảo vệ môi
trường đầu tư trong nước. Nhà đầu tư nước ngoài sau khi thành lập công ty cổ phần
tại Việt Nam phải thể hiện được khả năng kinh doanh của mình mới có thể chào
bán cổ phần ra công chúng.
2.1.2 Công ty nhà nước cổ phần hóa
Về bản chất, công ty nhà nước cổ phần hóa cũng là công ty cổ phần, có vốn điều
lệ chia thành nhiều phần bằng nhau. Tuy nhiên, công ty nhà nước cổ phần hóa được
xếp vào nhóm riêng và tư cách chào bán cổ phần ra công chúng khác với công ty cổ
phần thành lập theo Luật doanh nghiệp vì những lí do cơ bản sau:

Thứ nhất, công ty nhà nước cổ phần hóa được thành lập theo Luật doanh nghiệp
nhà nước và đến trước khi thực hiện cổ phần hóa vẫn hoạt động theo Luật doanh
nghiệp nhà nước trừ những nội dung do Luật doanh nghiệp 2005 điều chỉnh (Điều
166 Luật doanh nghiệp 2005).
23
Thứ hai, công ty nhà nước cổ phần hóa thực hiện hoạt động cổ phần hóa và chào
bán cổ phần ra công chúng theo chủ trương của Nhà nước. Luật doanh nghiệp 2005
quy định các doanh nghiệp nhà nước được thành lập theo quy định của Luật doanh
nghiệp Nhà nước 2003 phải chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc
công ty cổ phần. Mục đích của sự chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước thành công ty
cổ phần khác với mục đích chuyển đổi của công ty trách nhiệm hữu hạn thành lập
theo quy định của Luật doanh nghiệp chuyển đổi thành công ty cổ phần. Đó là để
thực hiện mục tiêu thu hẹp tối đa diện nhà nước độc quyền, xóa bỏ doanh nghiệp
nhà nước làm ăn kém hiệu quả tăng gánh nặng cho ngân sách, tạo điều kiện cho
người lao động trong công ty tự mình chịu trách nhiệm về hoạt động của doanh
nghiệp.
Thứ ba, công ty nhà nước thực hiện cổ phần hóa chịu sự điều chỉnh của Luật chứng
khoán 2006 và Nghị định số 187/2004/NĐ-CP là nghị định của Chính phủ quy định
riêng về công ty nhà nước cổ phần hóa. Do đó, hoạt động cổ phần hóa của công ty
nhà nước cổ phần hóa cũng chịu sự điều chỉnh của hai văn bản Luật nói trên.
Như vậy, công ty nhà nước cổ phần hóa tuy là công ty cổ phần song có tư cách chủ
thể khác hẳn với các công ty cổ phần được thành lập theo Luật doanh nghiệp.
2.2 ĐIỀU KIỆN VỀ CHÀO BÁN CỔ PHẦN RA CÔNG CHÚNG
2.2.1 Điều kiện về chào bán cổ phần lần đầu ra công chúng
Đối với từng loại doanh nghiệp, điều kiện chào bán cổ phần lần đầu ra công chúng
là khác nhau:
• Công ty cổ phần:
Công ty cổ phần muốn chào bán cổ phần ra công chúng phải thỏa mãn những
điều kiện sau:
Thứ nhất, vốn điều lệ đã góp đạt mười tỷ đồng trở lên tính theo giá trị sổ sách kế

toán (Điểm a Khoản 1 Điều 12 Luật chứng khoán 2006). Trước đây, khi Nghi định
48/NĐ-CP ban hành cũng đã quy định doanh nghiệp cổ phần muốn chào bán cổ
24
phiếu lần đầu ra công chúng phải đạt mức vốn điều lệ tối thiểu mười tỷ đồng
(Khoản 1 Điều 6 Nghị định 48/1998/NĐ-CP) Tuy nhiên, căn cứ vào điều kiện nền
kinh tế Việt Nam lúc đó con số mười tỷ đồng không khả thi. Chính vì vậy trong
thời gian dài từ năm 1998 đến năm 2003 rất ít doanh nghiệp Việt Nam thực hiện
huy động vốn bằng phương thức chào bán cổ phần ra công chúng. Đến năm 2003,
Nghị định 144/2003/NĐ-CP ra đời thay thế Nghị định 48/1998/NĐ-CP giảm mức
vốn điều lệ đã góp xuống còn năm tỷ đồng (Khoản 1 Điều 6 Nghị định
144/2003/NĐ-CP). Đây lại là một quy định nữa không phù hợp của luật thực định
vì điều kiện kinh tế toàn xã hội của Việt Nam từ năm 1998 đến năm 2003 đã có sự
thay đổi rõ rệt, mức vốn mười tỷ đồng vào năm 1998 là quá lớn, cản trở sự phát
triển của hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng nhưng tại năm 2003 nó đã phù
hợp với quy mô của đa số các doanh nghiệp trên thị trường. Chính vì vậy, Luật
chứng khoán 2006 đã quay trở về mức mười tỷ đồng đối với vốn điều lệ đã đã góp.
Thứ hai, công ty phải có năng lực kinh doanh, cụ thể là: “Hoạt động của năm
liền trước năm đăng ký chào bán phải có lãi đồng thời không có lỗ lũy kế tính đến
năm đăng ký chào bán” ( Điểm b khoản 1 Điều 12 Luật chứng khoán 2006). Điều
kiện này đã loại trừ những công ty làm ăn thua lỗ, đảm bảo chất lượng của cổ phiếu
được chào bán ra công chúng.
Thứ ba, có phương án phát hành và phương án sử dụng vốn thu được từ đợt
chào bán được Đại hội đồng cổ đông thông qua. Đại hội đồng cổ đông là cơ quan
có quyền quyết định cao nhất của công ty cổ phần, có quyền quyết định những hoạt
động quan trọng của công ty. Chào bán cổ phần nói chung và chào bán cổ phần ra
công chúng là hoạt động ảnh hưởng rất lớn đến sự tồn tại và phát triển của công ty
và lợi ích của toàn bộ cổ đông trong công ty. Vì vậy, phương án phát hành và
phương án sử dụng vốn thu được phải do Đại hội đồng thông qua mới có giá trị
pháp lý.
• Công ty nhà nước cổ phần hóa:

25

×