Tải bản đầy đủ (.pdf) (272 trang)

Sự biến đổi văn hóa làng nghề ở châu thổ sông hồng từ năm 1986 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.69 MB, 272 trang )


Bộ giáo dục và đào tạo Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch


Viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam




Vũ Diệu Trung





Sự Biến đổi văn hóa làng nghề
ở châu thổ sông Hồng
từ năm 1986 đến nay
(Qua khảo sát trờng hợp một số làng: Sơn Đồng
(Hà Tây), Bát tràng (Hà Nội), Đồng Xâm (Thái Bình))






Luận án tiến sĩ Văn hóa học










Hà Nội - 2013








Bộ giáo dục và đào tạo Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch


Viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam



Vũ Diệu Trung




Sự Biến đổi văn hóa làng nghề
ở châu thổ sông Hồng
từ năm 1986 đến nay
(Qua khảo sát trờng hợp một số làng: Sơn Đồng

(Hà Tây), Bát tràng (Hà Nội), Đồng Xâm (Thái Bình))


Chuyên ngành : Văn hóa dân gian
Mã số : 62.31.70.05


Luận án tiến sĩ Văn hóa học



Ngời hớng dẫn khoa học : PGS.TS. Nguyễn duy bắc






Hà Nội - 2013





Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu của riêng tôi; các t liệu đợc sử dụng
trong luận án là trung thực, có xuất xứ rõ
ràng; những phát hiện đa ra trong luận án

là kết quả nghiên cứu của tác giả luận án.

Hà Nội ngày 15 tháng 3 năm 2013
Tác giả

Vũ Diệu Trung
1

mục lục

Trang
Lời cam đoan

Mục lục
1
Danh mục chữ viết tắt
2
Danh mục bảng biểu
3
Mở đầu
5
Chơng 1: tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận
12
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
12
1.1.1. Những công trình nghiên cứu về làng nghề và văn hoá làng nghề ở châu
thổ sông Hồng
13
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về biến đổi văn hoá làng nghề trong thời
kỳ đổi mới

18
1.1.3. Những công trình nghiên cứu về 3 làng nghề Sơn Đồng, Bát Tràng và
Đồng Xâm
20
1.2. Cơ sở lý luận
26
1.2.1. Biến đổi văn hoá
26
1.2.2. Biến đổi văn hoá làng nghề
30
Chơng 2. biến đổi các thành tố trong văn hoá làng nghề ở
làng sơn đồng, bát tràng và đồng xâm từ năm 1986
đến nay
42
2.1. Bối cảnh chung về chính trị, kinh tế, xã hội trong các làng nghề từ năm
1986 đến nay
42
2.2. Biến đổi các thành tố trong văn hoá làng nghề ở làng Sơn Đồng, Bát
Tràng và Đồng Xâm
50
2.2.1. Biến đổi không gian, cảnh quan và di tích
50
2.2.2. Biến đổi hình thức tổ chức sản xuất, kỹ thuật chế tác và sản phẩm
61
2.2.3. Biến đổi phơng thức truyền nghề và giữ gìn bí quyết nghề nghiệp
73
2.2.4. Biến đổi một số quan niệm và quan hệ xã hội
75
2.2.5. Biến đổi tín ngỡng, lễ hội và phong tục tập quán
90

Chơng 3: BảO TồN và PHáT TRIểN VĂN HóA LàNG NGHề ở CHÂU THổ
SÔNG HồNG trong thời kỳ đổi mới
115
3.1. Bảo tồn văn hoá làng nghề trong thời kỳ đổi mới
116
3.1.1. Xu hớng phục hồi các giá trị văn hoá truyền thống
116
3.1.2. Bảo tồn văn hoá làng nghề phải kết hợp yếu tố truyền thống và hiện đại
119
3.1.3. Một số giải pháp bảo tồn giá trị văn hoá truyền thống
121
3.2. Phát triển văn hoá làng nghề trong thời kỳ đổi mới
123
3.2.1. Phát triển văn hoá làng nghề đi đôi với phát triển kinh tế, xã hội
123
3.2.2. Phát triển kinh tế, văn hoá làng nghề đi đôi với bảo vệ môi trờng sinh
thái
142
3.2.3. Phát huy tiềm năng du lịch làng nghề
146
Kết luận
154
Danh mục các công trình đã công bố của tác giả luận án
157
Tài liệu tham khảo
158
Phụ lục
168
2



Danh mục chữ Viết tắt


BLĐTB&XH:

Bộ Lao động Thơng binh và Xã hội
BNN&PTNT:

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
CB:

Chạm bạc
CBLTTP:

Chế biến lơng thực thực phẩm
CHXHCN:

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
EU:

Cộng đồng chung Châu Âu
DNTN:

Doanh nghiệp t nhân
GS:

Giáo s
Hội KHLSVN và Viện VĐBC:


Hội Khoa học lịch sử Việt Nam và Viện
Viễn Đông Bác Cổ
QĐ-TTg:

Quyết định Thủ tớng Chính phủ
TNHH:

Trách nhiệm hữu hạn
TP.HCM:

Thành phố Hồ Chí Minh
USD:

Đô la Mỹ
UBND:

ủy ban nhân dân
VHTT&DL:

Văn hoá, Thể thao và Du lịch






3

Danh mục các bảng biểu


1. Bảng kê số liệu
Trang

1.

Bảng 1. Giá trị sản xuất thủ công nghiệp ở Đồng Xâm 46
2.

Bảng 2. Kết quả hoạt động sản xuất nghề ở Đồng Xâm năm 2009 46
3.


Bảng 3. Thống kê về nhà ở năm 2005, 2009 tại 3 làng Sơn Đồng, Bát
Tràng, Đồng Xâm
55
4.

Bảng 4. Thống kê về nhà ở năm 2005, 2009 của 61 làng nghề 56
5.

Bảng 5. Mức độ đầu t của ngời dân 3 làng nghề Sơn Đồng, Bát
Tràng, Đồng Xâm để trùng tu, sửa chữa các thiết chế văn
hoá thuyền thống
60
6.

Bảng 6. Mức độ đầu t của ngời dân 61 làng nghề để trùng tu, sửa
chữa các thiết chế văn hoá thuyền thống
60
7.


Bảng 7. Truyền nghề tại 61 làng nghề 74
8.

Bảng 8. Số lợng lao động của nghề thủ công tại Sơn Đồng, Bát
Tràng và Đồng Xâm
76
9.

Bảng 9. Vấn đề di dân và luân chuyển lao động tại 3 làng nghề Sơn
Đồng, Bát Tràng và Đồng X
âm từ năm 1986 đến nay
76
10.

Bảng 10. Trình độ học vấn hiện nay giữa làng nghề truyền thống và
làng nghề mới
82
11.

Bảng 11. Quyết định công việc trong gia đình của ngời thợ thủ công 85
12.

Bảng 12. Sự giúp đỡ về vật chất trong gia đình, dòng họ, làng xóm 86
13.

Bảng 13. Tham gia vào công việc họ tộc 87
14.

Bảng 14. Cơ cấu tổ chức làng nghề truyền thống duy trì đến hiện nay


89
15.

Bảng 15. Số lợng điện thờ, bản hội, con nhang đệ tử của tín ngỡng
thờ Mẫu
97
16.

Bảng 16. Mức độ thực hành nghi thức trong đám cới ở 61 làng nghề 109
17.

Bảng 17. Mức độ thực hành nghi thức trong tang ma ở 61 làng nghề 111
4

2. Biểu đồ
Trang
1. Biểu đồ 1. Mức sống của những hộ làm nghề ở Sơn Đồng (2005)

47
2 Biểu đồ 2. Mức sống của những hộ làm nghề ở Sơn Đồng (2009)

47
3. Biểu đồ 3. Mức sống của những hộ làm nghề ở Bát Tràng (2005)

47
4. Biểu đồ 4. Mức sống của những hộ làm nghề ở Bát Tràng (2009)

47
5. Biểu đồ 5. Mức sống của những hộ làm nghề ở Đồng Xâm

(2005)
48
6. Biểu đồ 6. Mức sống của những hộ làm nghề ở Đồng Xâm
(2009)
48
10.

Biểu đồ 7. Dự định việc học đối với con trai 81
11.

Biểu đồ 8. Dự định việc học đối với con gái 81
12.

Biểu đồ 9. Cảm nghĩ của ngời dân khi làng mở hội 106
13.

Biểu đồ 10. Tác dụng của hội làng đối với các thành viên trong
cộng đồng
107
14.

Biểu đồ 11. Mức độ thực hành các nghi lễ trong đám cới 109
15.

Biểu đồ 12. Mức độ thực hành các nghi lễ trong đám ma 111



5


Mở Đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xớng và lãnh
đạo là một sự nghiệp cách mạng to lớn, toàn diện và sâu sắc nhằm thực hiện
mục tiêu Dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh tiến
bớc vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Công cuộc đổi mới đã và đang làm biến
đổi mạnh mẽ và toàn diện các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của
đất nớc, làm chuyển biến nớc ta từ một nền nông nghiệp kém phát triển
sang trở thành một nớc công nghiệp theo hớng hiện đại.
Chính nền kinh tế thị trờng đã mang đến những biến đổi tích cực về văn
hóa - xã hội, khai thác và phát huy đợc các tiềm năng sản xuất trong xã hội, làm
bật dậy sức sáng tạo to lớn của hàng chục triệu ngời lao động, là nền tảng bảo
đảm thực hiện quyền làm chủ về mặt chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa của nhân
dân, trên cơ sở đó mở rộng và phát huy dân chủ trong tất cả các lĩnh vực khác của
đời sống xã hội. Song, thực tế cũng cho thấy bản thân nền kinh tế thị trờng
không phải là liều thuốc vạn năng. Cùng với sự kích thích sản xuất phát triển,
kinh tế thị trờng cũng chính là môi trờng thuận lợi để nảy sinh và phát triển
nhiều tệ nạn xã hội, làm gia tăng sự phân hóa giàu nghèo, thơng mại hóa các
lĩnh vực văn hóa - xã hội, làm suy thoái t tởng, đạo đức lối sống, phai nhạt các
giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Tuy nhiên cho đến nay Công tác
nghiên cứu lý luận v thực tiễn cha làm rõ nhiều vấn đề có liên quan đến văn
hóa trong quá trình đổi mới [19, tr.52]. Thực tiễn phát triển văn hóa ở nớc ta
trong thời kỳ đổi mới đã và đang đòi hỏi cấp thiết phải có sự nghiên cứu, tổng
kết về những biến đổi về văn hóa trong quá trình phát triển nền kinh tế thị
trờng định hớng xã hội chủ nghĩa, góp phần gìn giữ và phát huy những giá
trị văn hóa truyền thống dân tộc cũng nh xây dựng và hoàn thiện nhân cách
con ngời Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc dân tộc trong thời kỳ công
6


nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế [20, tr.106], giải quyết tốt
hơn mối quan hệ giữa phát triển nền kinh tế thị trờng với phát triển văn hóa.
Việt Nam cho đến thời điểm hiện nay, về cơ bản vẫn là xã hội nông
nghiệp với làng là tế bào sống của xã hội Việt Nam, là sản phẩm tự nhiên tiết
ra từ quá trình định c và cộng c của ngời Việt. Hiểu đợc làng Việt là có
trong tay cơ sở tối thiểu và cần thiết để tiến lên tìm hiểu xã hội Việt nói riêng
và xã hội Việt Nam nói chung [109, tr.11-12]. Chính vì thế, khi nghiên cứu
văn hóa trong thời kỳ đổi mới cần thiết phải nghiên cứu sự biến đổi văn hóa
làng.
Làng nghề đợc coi là một kiểu làng điển hình của xã hội nông nghiệp.
Quá trình đổi mới tác động đến làng nghề một cách sâu rộng bởi tính chất
kinh tế hàng hóa của nó nh: áp dụng kỹ thuật, công nghệ vào quy trình sản
xuất, sự thay đổi về công năng sử dụng của các sản phẩm thủ công, sự thay
đổi mức sống, vấn đề lao động việc làm, môi trờng Đặc biệt, quá trình này
không chỉ tác động đến đời sống xã hội mà còn làm biến đổi về văn hóa nh:
biến đổi tâm lý cộng đồng làng nghề, cơ cấu tổ chức và văn hóa làng nghề
truyền thống Sự biến đổi này đã và đang ảnh hởng rất lớn đến đời sống xã
hội đơng đại. Vì vậy, nghiên cứu biến đổi văn hóa làng nghề trong thời kỳ
đổi mới là điều hết sức cần thiết và cấp bách.
Tính đến thời điểm hiện nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về làng
nghề, những công trình này đã nghiên cứu phân tích chuyên sâu về kinh tế, xã
hội và văn hóa của làng nghề trên nhiều phơng diện khác nhau. Có những
công trình nghiên cứu mang tính tổng quát, có những công trình nghiên cứu về
một số làng nghề tiêu biểu ở châu thổ sông Hồng nhng cha có công trình
nào nghiên cứu về Sự biến đổi văn hóa làng nghề ở châu thổ sông Hồng từ
năm 1986 đến nay (Qua nghiên cứu trờng hợp làng Sơn Đồng (Hà Tây),
Đồng Xâm (Thái Bình), Bát Tràng (Hà Nội)). Vì vậy, việc giải quyết đề tài
này sẽ có sơ sở để tìm hiểu sâu hơn thực trạng sự biến đổi văn hóa làng nghề
7


và đa ra giải pháp cho sự phát triển văn hoá làng nghề ở châu thổ sông Hồng
trong thời gian tới.
2. Mục đích nghiên cứu
- Phân tích, đánh giá thực trạng biến đổi của văn hóa làng nghề ở châu
thổ sông Hồng trong thời kỳ đổi mới qua nghiên cứu 3 làng nghề Sơn Đồng
(Hoài Đức, Hà Tây cũ), Bát Tràng (Gia Lâm, Hà Nội) và Đồng Xâm (Kiến
Xơng, Thái Bình).
- Đề xuất một số giải pháp bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của
các làng nghề, nhằm góp phần phát triển bền vững các làng nghề trong điều
kiện phát triển kinh tế thị trờng, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và
hội nhập quốc tế.
3. Phơng pháp nghiên cứu
3.1. Phơng pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng một cách kết hợp và linh hoạt các phơng pháp nghiên
cứu của nhiều ngành khoa học, trong đó tuỳ theo nhiệm vụ giải quyết vấn đề ở
từng mục, từng chơng, mà áp dụng từng phơng pháp cụ thể với cách tiếp
cận chủ đạo, bên cạnh sự hỗ trợ của các phơng pháp khác mang tính liên
ngành. Có 4 loại phơng pháp đợc sử dụng nh sau:
- Phơng pháp nghiên cứu văn hóa dân gian
- Phơng pháp nghiên cứu dân tộc học, nhân học
- Phơng pháp nghiên cứu lịch sử
- Phơng pháp nghiên cứu xã hội học
3.2. Thao tác nghiên cứu
- Tổng hợp và phân tích văn bản.
- Quan sát tham dự.
- Phỏng vấn nhóm và phỏng vấn sâu cá nhân tại 3 làng nghề Sơn Đồng
(Hà Tây cũ), Đồng Xâm (Thái Bình) và Bát Tràng (Hà Nội).
- Phỏng vấn bằng bảng hỏi:
8


+ Tiến hành điều tra, phỏng vấn xã hội học thông qua bảng hỏi về thực
trạng biến đổi văn hóa tại 3 làng nghề Sơn Đồng, Bát Tràng và Đồng Xâm có
cấu trúc chặt chẽ đợc soạn sẵn:
Tổng số phiếu cha qua xử lý là 600 phiếu, sau khi làm sạch (xử lý
bớc 1), kết quả còn 504 phiếu với cơ cấu giới tính 290 nam/214 nữ.
- Thống kê: Để thực hiện nghiên cứu này, chúng tôi đã tiến hành lấy số
liệu theo biểu thống kê cấp làng về thực trạng biến đổi văn hóa làng nghề tại 3
làng nghề Sơn Đồng, Bát Tràng và Đồng Xâm. Đồng thời tiến hành nghiên
cứu mở rộng 61 làng nghề tại 3 huyện Hoài Đức, Gia Lâm và Kiến Xơng.
4. Đóng góp của luận án
Một là, luận án làm sáng tỏ các khái niệm làng nghề, văn hóa làng
nghề, biến đổi văn hóa làng nghề. Hai là, trên cơ sở nghiên cứu 3 làng nghề
Sơn Đồng, Bát Tràng (Hà Nội), Đồng Xâm (Thái Bình) và đối chiếu so sánh
với 61 làng nghề thuộc 3 huyện Hoài Đức, Gia Lâm, Kiến Xơng, luận án đã
phân tích thực trạng biến đổi văn hóa làng nghề ở châu thổ sông Hồng trên
các phơng diện: 1/ Biến đổi không gian, cảnh quan và di tích, 2/ Biến đổi
hình thức tổ chức sản xuất, kỹ thuật chế tác và sản phẩm, 3/ Biến đổi phơng
thức truyền nghề và giữ gìn bí quyết nghề nghiệp, 4/ Biến đổi quan niệm và
quan hệ xã hội, 5/ Biến đổi tín ngỡng, lễ hội và phong tục tập quán. Ba là,
luận án đa ra những nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự biến đổi văn hóa làng
nghề, đồng thời chỉ ra quy luật và xu hớng biến đổi của văn hóa làng nghề
trớc tác động của kinh tế thị trờng. Bốn là, luận án đã đa ra những giải
pháp mang tính ứng dụng khả thi giúp cho các nhà quản lý có cơ sở lý luận và
thực tiễn để hoạch định chính sách hợp lý cho sự phát triển của văn hóa làng
nghề ở châu thổ sông Hồng trong giai đoạn hiện nay.
5. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tợng
Luận án tập trung nghiên cứu sự biến đổi các thành tố cơ bản trong văn
hóa làng nghề ở vùng châu thổ sông Hồng.
9


5.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian:
Trong công trình Làng nghề Việt Nam và môi trờng, các tác giả có đa
ra con số thống kê về số lợng làng nghề năm 2005 nh sau: Việt Nam có
1450 làng nghề với miền Bắc là 976 làng (làng nghề thuộc châu thổ sông
Hồng là 856 làng), miền Trung là 297 làng và miền Nam là 177 làng nghề
[16, tr.55-56]. Số liệu trên cho thấy, làng nghề ở miền Bắc nhiều gấp 3 lần so
với miền Trung và gấp 5 lần so với miền Nam. Theo báo cáo của Trung tâm
phát triển quốc tế Nhật Bản (JICA) trong dự án nghiên cứu về quy hạch phát
triển ngành nghề thủ công theo hớng công nghiệp hoá nông thôn ở nớc
CHXHCN Việt Nam và báo cáo 4 năm thực hiện Quyết định số 132/2000-
QĐ-TTg do BNN&PTNT ban hành, Việt Nam có 2017 làng nghề với 1,4 triệu
hộ gia đình tham gia sản xuất. Theo tiêu chí của BNN&PTNT, Việt Nam có
11 nghề thủ công chính: Nhóm ngành nghề gốm sứ thuỷ tinh; nghề cói; nghề
sơn mài; nghề mây tre giang đan; nghề thêu ren; nghề dệt; nghề gỗ; nghề
chạm khắc đá; nghề giấy thủ công; nghề tranh in khuôn gỗ; nghề kim khí đúc
đồng, chạm bạc Trong đó làng nghề mây tre đan là 713 làng (35,24%), làng
có nghề dệt là 432 làng (21,41%), làng sản xuất đồ gỗ là 342 làng (16,95%),
làng thêu ren là 341 làng (16,90%) còn 189 làng thuộc các ngành nghề khác.
Đây thực sự là những con số minh chứng cho vị trí của làng nghề đối với nền
kinh tế Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
Châu thổ sông Hồng là nơi tập trung nhiều làng nghề thủ công nhất
trong cả nớc, còn các làng nghề ở Trung và Nam Bộ hình thành và phát triển
là do một bộ phận dân c đã đa nghề thủ công theo trong quá trình Nam tiến.
Trong cuốn Ngời nông dân châu thổ Bắc Kỳ học giả P.Gourou đã dẫn ra số
liệu thống kê với 108 nghề thủ công khác nhau ở vùng đất này: ở Bắc Kỳ có
rất nhiều công nghiệp khác nhau: điều đó không có gì lạ, vì dân chúng ở châu
thổ phải tự túc về nhu cầu đối với hàng chế tạo. Chúng tôi đã đếm đợc 108
10


nghề khác nhau và con số này chắc chắn còn thấp hơn thực tế một chút [30,
tr.416], nhng cha có số liệu thống kê cụ thể về các làng nghề.
Hiện nay, châu thổ sông Hồng có 1044 làng nghề (số liệu thống kê từ
năm 2009 2010 của tác giả luận án). Số liệu trên đã cho thấy, trong vòng 5
năm số lợng làng nghề ở châu thổ sông Hồng tăng lên đáng kể từ 856 lên đến
1044 làng. Điều này chứng tỏ các làng có nghề đã có sự chuyển đổi và thích
nghi với nền kinh tế thị trờng. Hà Nội và Thái Bình là hai địa phơng có
nhiều làng nghề nhất chiếm 47,3% trên tổng số các làng nghề. Tỉnh có ít làng
nghề nhất là tỉnh Vĩnh Phúc với 17 làng nghề chiếm tỉ lệ 1,7%.
Nh vậy, trong số 11 tỉnh, thành phố ở châu thổ sông Hồng thì Hà Nội,
Thái Bình là hai địa phơng tập trung đông làng nghề nhất và có mặt hầu hết
các loại hình làng nghề. Mặt khác, Hà Nội là thủ đô - trung tâm chính trị, kinh
tế văn hóa trong lịch sử cũng nh hiện nay, còn Thái Bình là một tỉnh thuần
nông nhất. Nếu thực hiện tốt nghiên cứu ở hai khu vực này sẽ cho cái nhìn
tổng quát về sự biến đổi văn hóa của cả vùng châu thổ sông Hồng.
- Địa bàn Hà Nội, đề tài chọn làng nghề gỗ (tạc tợng) Sơn Đồng (Hà
Nội), làng nghề gốm Bát Tràng (Hà Nội) để tiến hành nghiên cứu với những lý
do nh sau:
+ Sơn Đồng là một làng nghề truyền thống, sản xuất ra sản phẩm không
chỉ mang giá trị thẩm mỹ cao mà còn gắn liền với yếu tố tâm linh tợng thờ.
Những năm trớc đổi mới, làng nghề đã bị mai một hoàn toàn, thợ thủ công
trở về sản xuất nông nghiệp. Hiện nay, làng nghề đợc phục hồi và phát triển
khá phồn thịnh.
+ Bát Tràng là một làng chuyên nghề gốm (phờng Bạch Thổ) đợc
hình thành từ rất lâu đời. Dới bàn tay tài hoa nhiều đời của ngời thợ thủ
công, sản phẩm gốm Bát Tràng đã và đang chiếm lĩnh đợc thị trờng trong và
ngoài nớc.
- Địa bàn Thái Bình, đề tài chọn làng nghề chạm bạc Đồng Xâm với lý
do:

11

+ Làng nghề chạm bạc Đồng Xâm có những bớc thăng trầm riêng,
đợc hình thành từ lâu đời với những quy ớc và luật tục rất chặt chẽ (Phúc
Lộc phờng). Trớc những năm đổi mới, nghề chạm bạc so với các nghề khác
ở châu thổ sông Hồng khá phát triển (mở rộng về quy mô, sản phẩm sản xuất
ra phục vụ xuất khẩu đi các nớc Liên Xô và Đông Âu). Sau đổi mới, quy mô
của làng nghề không chỉ giới hạn trong xã mà còn lan rộng ra cả vùng. Nhng
cho đến thời điểm hiện nay, tốc độ tăng trởng của làng nghề gần nh chững
lại, các sản phẩm chạm bạc truyền thống không còn là thế mạnh của làng
nghề mà thay thế vào đó là các loại sản phẩm mới phù hợp với thị trờng.
Đề tài của luận án đặt ra là nghiên cứu trờng hợp nhng vẫn phải đặt
sự biến đổi văn hoá làng nghề của 3 làng trong bối cảnh chung các làng nghề
vùng châu thổ sông Hồng. Vì vậy, ngoài nghiên cứu trờng hợp, chúng tôi còn
nghiên cứu mở rộng tới 61 làng nghề tại 3 huyện Hoài Đức, Gia Lâm, Kiến
Xơng để thấy đợc sự biến đổi văn hóa làng nghề mang tính tổng thể.
Về thời gian: Luận án tiến hành khảo sát, nghiên cứu và đánh giá sự
biến đổi văn hóa làng nghề ở châu thổ sông Hồng trong thời kỳ đổi mới (từ
năm 1986 đến nay).
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu (7 trang), kết luận (2 trang), tài liệu tham khảo (10
trang), phụ lục (107 trang), nội dung của luận án đợc kết cấu thành 3
chơng:
Chơng 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận (25 trang)
Chơng 2. Biến đổi các thành tố trong văn hoá làng nghề ở làng Sơn
Đồng, Bát Tràng và Đồng Xâm từ năm 1986 đến nay (76 trang)
Chơng 3. Bảo tồn và phát triển văn hóa làng nghề ở châu thổ sông
Hồng (38 trang)
12


Chơng 1
Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Châu thổ sông Hồng là một đại diện của nền văn hóa Đông Nam .
Môi trờng khí hậu nhiệt đới ẩm, gió mùa, ma nhiều, sông ngòi dày đặc,
thảm thực vật đa dạng đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc ra đời và phát triển
của cây lúa nớc. Nhiều học giả cho rằng, hằng số văn hóa của ngời Việt
chính là cây lúa nớc, ngời nông dân và yếu tố làng xã. Theo các nhà nghiên
cứu, cộng đồng làng xã đợc coi là đơn vị cơ bản một tổ chức cộng đồng đặc
thù Đông Nam , đợc hình thành dựa trên cơ sở công xã thị tộc với nền tảng
kinh tế là nông nghiệp trồng lúa [29, tr.124]. Do vậy, muốn hiểu về văn hóa
Đông Nam nói chung hay văn hóa của ngời Việt nói riêng, chúng ta cần
thiết phải nghiên cứu vấn đề làng xã. Theo số liệu thống kê trong cuốn Làng
Việt Nam đa nguyên và chặt có tới 449 công trình nghiên cứu về làng Việt,
văn hóa làng, trong đó có làng nghề thủ công truyền thống [59]. Con số này
đã khẳng định phần nào tầm quan trọng của việc nghiên cứu làng xã Việt
Nam.
Để nghiên cứu vấn đề mà đề tài đặt ra, trớc tiên tác giả đã đi sâu tìm
hiểu các công trình nghiên cứu về làng, văn hóa làng để có cái nhìn tổng quát
về làng Việt cổ truyền. Từ đây, chúng ta thấy đợc những yếu tố sản sinh ra
làng nghề, cơ cấu tổ chức cổ truyền của làng nghề với những quan hệ hữu cơ
của nó, bản tính tiểu nông của ngời nông dân, thợ thủ công trong xã hội Việt
Nam truyền thống. Chính điều này đã làm ảnh hởng rất lớn đến làng, văn hóa
làng xã nói chung và làng nghề nói riêng.
Khi khảo cứu các tài liệu liên quan đến đề tài Sự biến đổi văn hóa làng
nghề ở châu thổ sông Hồng từ năm 1986 đến nay, tác giả xin trân trọng tiếp
thu những ý kiến, cũng nh các quan điểm của các học giả đi trớc và phân
định các công trình nghiên cứu trớc đây thành 3 nhóm:
13


1.1.1. Những công trình nghiên cứu về làng nghề và văn hoá làng
nghề ở châu thổ sông Hồng
Thời kỳ phong kiến đã có những ghi chép về làng nghề hay nghề truyền
thống, nhng các ghi chép này thờng gắn liền với sự kiện lịch sử và chỉ điểm
xuyết tên một số nghề hay làng nghề nhất định. Theo số liệu thống kê, trong
cuốn Đại Việt sử ký toàn th [18], thì chỉ có 2 lần các sử gia nhắc đến tên làng
nghề nh: làng nghề làm nón Ma Lôi và thợ làng Cao Liệt với nghề làm mũ
cỏ, có 20 ghi chép về các nghề nh dệt gấm, đúc đồng, luyện sắt, trồng dâu
nuôi tằm, dệt gai, làm keo, làm sơn hay diêm tiêu và chỉ có 2 ghi chép về
việc quy định cho các thợ thủ công làm việc trong các công trình của triều
đình. Trong Đại Nam thực lục [87] có rất nhiều ghi chép về làng nghề và nghề
cổ ở nớc ta: 27 ghi chép về làng nghề, 117 ghi chép về nghề thủ công, 65 ghi
chép về quy định và việc thợ thủ công làm việc cho triều đình. Nhìn vào số
liệu trên, chúng ta thấy đợc sự hình thành của làng nghề thủ công trong lòng
chế độ phong kiến với sự quản lý chặt chẽ của chính quyền nhà nớc và sự
phát triển mang tính rộng khắp của làng nghề trong cả nớc. Điều này cũng
khẳng định rằng:
- Làng nghề trong lịch sử là một trong những công cụ phục vụ đắc lực
cho chính quyền nhà nớc phong kiến.
- Nghề thủ công góp phần làm tăng thêm mối quan hệ Làng Nớc.
Một nguồn tài liệu khác vô cùng phong phú về làng nghề đó chính là
truyền thuyết và ca dao dân ca. Trong công trình Kho tàng ca dao dân ca
ngời Việt (4 tập) của các tác giả Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật, Phan
Đăng Tài, Nguyễn Thúy Loan, Đặng Diệu Trang [60], chúng tôi đã thống kê
đợc trong tổng số 11.665 câu ca dao dân ca có 261 câu nói về làng nghề thủ
công:
- 98 câu nói về địa danh làng nghề (nhiều nhất là khu vực Hà Nội (bao
gồm cả tỉnh Hà Tây cũ)).
14


- 174 lần các câu ca dao dân ca nhắc đến các địa danh (Bắc Ninh: 6 lần,
Nam Định: 6 lần, Hà Nam: 6 lần, Hải Dơng: 4 lần, Hng Yên: 2 lần, Thái
Bình: 1 lần, Ninh Bình: 1 lần, Bắc Giang: 8 lần, Quảng Ninh: 2 lần, Thanh
Hóa: 27 lần, còn lại là các địa danh khác không xác định đợc chính xác tỉnh).
- 163 câu nói về nghề và làng nghề (nghề dệt đợc nhắc đến 94 lần,
nghề làm nón: 8 lần, nghề chiếu cói: 4 lần, nghề mộc: 7 lần, nghề làm đồ vàng
mã: 8 lần, đan lát: 17 lần, giấy: 10 lần, kim khí: 12 lần, gốm: 16 lần, chế biến
lơng thực thực phẩm: 32 lần, còn lại là các nghề khác).
Điều này cho thấy sự phong phú về số lợng các làng nghề, sự phân bố
mật tập của các làng nghề tại một số trung tâm của châu thổ sông Hồng. Nội
dung của các câu ca dao dân ca còn thể hiện cách thức quảng bá sản phẩm, sự
đánh giá các làng nghề thông qua sản phẩm, sự khẳng định văn hóa truyền
thống của làng nghề Đặc biệt, sản phẩm của làng nghề không đơn thuần
phục vụ mục đích kinh tế mà còn là niềm tự hào quê hơng, đất nớc (danh
tiếng của làng nghề), sự thể hiện nhu cầu sáng tạo và thởng thức văn hóa
nghệ thuật, sự ý thức về tài năng và trình độ thẩm mỹ của ngời thợ thủ
công
Trong thời kỳ Pháp thuộc, nghề thủ công ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ rất
phát triển. Theo thống kê của P.Gourou trong cuốn Ngời nông dân châu thổ
Bắc Kỳ thì có tới 108 nghề thủ công khác nhau ở khu vực này [30, 416]. Tác
giả này đã phân định làng Việt dới góc độ địa lý học: làng ven sông, ven đồi
và làng ven biển nhng lại dành cả một phần viết về phơng tiện sống của
nông dân Bắc kỳ. Trong chơng 2 của phần này, tác giả đã viết về công
nghiệp làng xã và phân chia công nghiệp làng xã thành ba loại chính: công
nghiệp dệt, đan lát, công nghiệp gỗ còn tất cả các loại hình khác tác giả xếp
chung vào loại công nghiệp khác Đây là một công trình có giá trị khoa học
cao, đúng nh tác giả Lê Hồng Lý nhận định trong công trình Nhìn lại quá
trình nghiên cứu nghề và làng nghề thủ công mỹ nghệ Việt Nam: Bằng
những con số thống kê chi tiết, những nghiên cứu tỉ mỉ, Gourou đã dựng nên

15

một bức tranh sinh động và khá đầy đủ của nghề thủ công mỹ nghệ ở đồng
bằng Bắc Bộ [67, tr.63].
Trong cuốn Sơ khảo lịch sử phát triển thủ công nghiệp Việt Nam, tác
giả Phan Gia Bền đã chỉ ra tác dụng của thủ công nghiệp, phân tích một số
chính sách đối với làng nghề trong thời kỳ Pháp thuộc, đặc điểm của nghề thủ
công Việt Nam, đặc biệt là vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Với công
trình này, tác giả đã nghiên cứu khá công phu, cung cấp cho ngời đọc những
tri thức cơ bản về sự phát triển thủ công nghiệp trong một giai đoạn lịch sử
khá dài. Tuy nhiên, do hớng tới một mục đích nhất định nên công trình này
chỉ đi sâu vào phân tích tiểu thủ công nghiệp và mô tả một số nghề gắn liền
với làng nghề nhất định chứ không đề cập chuyên sâu đến làng nghề hay vai
trò quan trọng của làng nghề trong sự phát triển chung của cả nền công nghiệp
Việt Nam thời bấy giờ [10, tr.80, 112, 113]. Về mặt lý thuyết, tác giả đã đóng
góp một phần không nhỏ vào việc đa ra những định nghĩa về thủ công
nghiệp, thợ thủ công mà cho đến hiện nay, các nhà nghiên cứu vẫn đang sử
dụng hoặc đa ra làm tiền đề cho những nghiên cứu của mình.
Sau năm 1975, các công trình nghiên cứu về làng nghề của các tác giả
Việt Nam nghiên cứu tơng đối muộn so với những công trình nghiên cứu về
làng xã (kinh tế, xã hội, văn hoá), và thờng chủ yếu sử dụng phơng pháp
mô tả dân tộc học. Chẳng hạn nh bộ sách Nghề cổ truyền (2 tập) của tác giả
Tăng Bá Hoành tập trung khảo tả về nhiều làng nghề ở đất Hải Hng xa, nay
là tỉnh Hải Dơng và Hng Yên nh: nghề đan thuyền Nội Lễ, nghề làm tơng
Bần[45]. Những công trình nghiên cứu về làng nghề của tác giả Lâm Bá
Nam từ năm 1986 đến nay đã giúp chúng ta hiểu về qui trình của một số làng
nghề dệt, cơ cấu kinh tế, cũng nh sự tác động của kinh tế hàng hoá cận đô
vào làng nghề. Tác giả Nguyễn Văn Chính với bài viết Nghề thủ công trong
cơ cấu kinh tế vùng đồng bằng Bắc Bộ, đăng trên Tạp chí nghiên cứu kinh tế,
số 6, 1989 đã cho chúng ta thấy khái quát chung về cơ cấu kinh tế của làng

nghề thủ công vùng đồng bằng Bắc bộ. Năm 1994, tác giả này đã công bố
16

công trình nghiên cứu làng La Tinh làng nghề dệt vải, xã Đông La, huyện
Hoài Đức, tỉnh Hà Tây. Ngoài ra, còn có các tác giả nh Tô Đông Hải với bài
viết Làng nghề thủ công mỹ nghệ Hà Đông qua cái nhìn của một Tổng
đốc, Nguyễn Hữu Thức với Nghề làm giấy cổ truyền ở làng An Cốc, Hoà
Mỹ với Nghề gốm Vân Đình, Lu Thị Tuyết Vân với Quan hệ giữa thủ
công nghiệp và nông nghiệp trong các làng nghề ở miền Bắc Việt Nam, Đỗ
Trọng Quang với Về sự mai một của nghề truyền thống ở làng Triều Khúc,
Vũ Văn Luân với Nghề giấy cổ truyền làng Bởi.
Trong các công trình nh Thủ công nghiệp Việt Nam (1858 - 1945) của
tác giả Vũ Huy Phúc xuất bản năm 1996 [81], Làng nghề thủ công truyền
thống Việt Nam (1998) của Bùi Văn Vợng [114], Làng nghề, phố nghề,
Thăng Long - Hà Nội (2000) của GS. Trần Quốc Vợng, TS. Đỗ Thị Hảo, các
vấn đề liên quan khái niệm về làng nghề thủ công, vị trí làng nghề trong diễn
trình lịch sử văn hoá Việt Nam và một số quan điểm phát triển làng nghề mới
đợc đặt ra nghiên cứu một cách sâu rộng. Điều này có thể nhận diện ở một số
mặt sau đây:
+ Duy trì mô hình sản xuất theo hộ gia đình vẫn là phơng thức hiệu
quả nhất. Theo các tác giả, sản xuất nhỏ sẽ dẫn đến số vốn đầu t cho sản sản
xuất không nhiều, ngời thợ thủ công có thể tự đứng ra vay vốn nhà nớc và
nh vậy làng nghề sẽ từng bớc phát triển.
+ Khi nói về thị trờng, các tác giả nêu ra một loạt những khó khăn và
thách thức trong nền kinh tế thị trờng mà cha tìm đợc hớng đi cho đầu ra
của sản phẩm thủ công.
+ Hoàn thiện hệ thống luật và chính sách, tạo lập môi trờng thể chế
cho phát triển làng nghề là một vấn đề cấp bách cần thiết phải thực hiện sớm,
đồng thời khai thác tiềm năng du lịch thì mới có thể khôi phục, phát triển các
làng nghề. Đặc biệt, cần phải đa ra những giải pháp để phát triển đi đôi với

việc bảo vệ môi trờng tại các làng nghề: vấn đề xử lý rác thải công nghiệp,
17

tách khu sản xuất ra khỏi khu dân c, tuyên truyền giáo dục ngời dân về ý
thức bảo vệ môi trờng [117].
Qua đây, chúng ta thấy rằng, quan điểm phát triển làng nghề của các
chuyên gia đầu ngành đều dựa trên nền tảng cơ bản là bản chất t hữu nhỏ,
đặc tính tiểu nông của ngời nông dân để phát triển làng nghề theo mô hình
hộ gia đình. Điều này càng minh chứng rõ nét hơn, ngời thợ thủ công trong
các làng nghề về bản chất vẫn là ngời nông dân. Nh vậy, để tìm đợc hớng
đi cho các làng nghề trong nền kinh tế thị trờng là một bài toán khá nan giải.
Tác giả Chu Quang Trứ đi sâu Tìm hiểu các nghề thủ công điêu khắc
cổ truyền đã viết về 3 nghề, đó là nghề đúc đồng, nghề chạm khắc gỗ và nghề
chạm đá (thành tựu của các nghề trong lịch sử, tín ngỡng thờ tổ nghề, kỹ
thuật làm nghề) [107], Jamieson.N.L với Làng nghề truyền thống Việt
Nam, in trong Một số vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở các nớc
và Việt Nam (2000) đã khái quát các loại nghề truyền thống của Việt Nam
dới con mắt của ngời nớc ngoài.
Các công trình nh Nghề cổ nớc Việt (khảo cứu) của Vũ Từ Trang
[106], Nghề thủ công truyền thống Việt Nam và các vị tổ nghề (1996) của GS.
Trần Quốc Vợng và TS. Đỗ Thị Hảo miêu tả các nghề thủ công cổ truyền của
Việt Nam và tín ngỡng thờ tổ nghề của ngời Việt [116]; tác giả Nguyễn
Thái Lai với Làng tranh Đông Hồ [61]; tác giả Lê Huyên với Nghề Sơn cổ
truyền Việt Nam [50]; tác giả Trơng Minh Hằng với công trình Gốm sành
nâu ở Phù Lãng, Làng nghề thủ công mỹ nghệ miền Bắc đã cho thấy giá trị
văn hóa của nghề thủ công là những kỹ năng và bí quyết nghề nghiệp của
ngời thợ thủ công[39], [40]. Gần đây nhất là công trình Làng nghề Sơn
quang Cát Đằng xa và nay (2011) của Nguyễn Lan Hơng. Công trình đã
khái quát về nghề sơn ở Việt Nam, đa ra đặc trng và giá trị của làng nghề
sơn quang Cát Đằng. Mặt khác còn chỉ ra thực trạng của nghề sơn hiện tại và

những vấn đề đang đặt ra [51].
18

1.1.2. Những công trình nghiên cứu về biến đổi văn hóa làng nghề
trong thời kỳ đổi mới
Trớc thời kỳ đổi mới, đã có những công trình nghiên cứu công phu về
biến đổi văn hoá, xã hội ở nông thôn Việt Nam nh công trình Hai Van - une -
communerurale Vietnamienne Contribution Sociologique A.L etude des
transi-tions (Hải Vân - một xã ở Việt Nam, đóng góp của xã hội học vào việc
nghiên cứu những sự quá độ) của hai tác giả ngời Bỉ là Francois Houtart và
Genevieve Lemercinier (1979), đợc Hồ Hải Thụy dịch và xuất bản năm 2001
với tên gọi Xã hội học về một xã ở Việt Nam. Các tác giả đã đa ra lý thuyết
phát triển nông thôn:
- Các sự kiện xã hội đợc coi nh các chỉ báo để phát hiện ra logic xã
hội. Cần phải có một hệ thống câu hỏi để minh chứng và giải thích cho
các sự kiện xã hội [26, tr.26-27].
- Sự chuyển biến của cơ sở hạ tầng, tạo sự thay đổi toàn bộ xã hội chú
ý đến tính quyết định của chức năng kinh tế đối với quan hệ xã hội ở
nông thôn Việt Nam.
- Sự thay đổi về không gian xã hội, những mục tiêu tập thể đợc xác lập
khi bớc vào thời kỳ quá độ.
Gần đây, cuốn Làng ở vùng châu thổ sông Hồng: Vấn đề còn bỏ ngỏ
của tác giả Phillippe Papin - Ollivier Tessier (chủ biên) đã nghiên cứu tơng
đối toàn diện về tổ chức không gian làng, con ngời và xã hội, các hoạt động
kinh tế, vấn đề dân c của 4 làng thuộc vùng châu thổ sông Hồng: Tả Thanh
Oai (Thanh Trì, Hà Nội), Ninh Hiệp (Gia Lâm, Hà Nội), Mộ Trạch (Hải
Dơng), Hay (Thanh Ba, Phú Thọ) từ năm 1996 đến năm 1999[79]. Một số
công trình nghiên cứu quan trọng m luận án đã tham khảo về phơng pháp
nghiên cứu là Tâm lý cộng đồng làng xã và di sản của Đỗ Long, Trần Hiệp
[64], tác giả Mai Văn Hai Phan Đại Doãn với công trình Quan hệ dòng họ ở

châu thổ sông Hồng [32], Sự biến đổi của làng xã Việt Nam hiện nay, Tô Duy
Hợp (chủ biên) và cuốn sách Đời sống văn hoá ở nông thôn đồng bằng sông
19

Hồng và sông Cửu Long của tác giả Phan Hồng Giang (chủ biên) [46], [28].
Các công trình trên đây đã dựa trên số liệu thống kê, điều tra xã hội học của
rất nhiều làng xã đã cho chúng ta thấy đợc sự chuyển đổi về cơ cấu kinh tế
trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp sang
nền kinh tế thị trờng. Từ sự chuyển đổi này kéo theo hàng loạt hệ lụy đó là sự
biến đổi của xã hội nông thôn cổ truyền trong đó có cơ cấu tổ chức (bên trong
đó là các quan hệ sở hữu, quan hệ huyết thống và những quan hệ xã hội
khác), đời sống văn hóa xã hội, phong tục tập quán Đồng thời, diện mạo
của đời sống văn hóa xã hội ở nông thôn nớc ta hiện nay đợc các công trình
phác họa tơng đối toàn diện. Đây thực sự là những công trình có giá trị khoa
học nhiều mặt, giúp ích cho tác giả của luận án tiếp cận, kế thừa và học hỏi,
nhất là về mặt phơng pháp nghiên cứu liên ngành để áp dụng vào nghiên cứu
đề tài.
Tác giả Dơng Bá Phợng với công trình Bảo tồn và phát triển các làng
nghề trong quá trình công nghiệp hóa (2001) đã cho chúng ta thấy các nhân tố
ảnh hởng tới sự phát triển các làng nghề, tiềm năng và sự vận động của các
làng nghề trong nên kinh tế thị trờng, đồng thời đa ra phơng hớng bảo tồn
và phát triển làng nghề truyền thống [83, tr.10-15]. Năm 2003, tác giả Mai
Thế Hởn (chủ biên) cho xuất bản cuốn sách Phát triển làng nghề truyền thống
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá với nội dung: Làng nghề truyền
thống ở nông thôn Việt Nam và quá trình phát triển của nó, đa ra một số kinh
nghiệp trong việc phát triển làng nghề ở một số nớc Inđônêxia, Nhật Bản,
Hàn Quốc, Trung Quốc, Philippin, Thái Lan, ấn Độ[47]. Làng nghề Việt
Nam và môi trờng (2005) của tác giả Đặng Kim Chi (chủ biên), Nguyễn
Ngọc Lân, Trần Lệ Minh là công trình nghiên cứu hiện trạng kinh tế - xã hội
và hiện trạng môi trờng các làng nghề trong cả nớc, đồng thời đa ra các

giải pháp cải thiện môi trờng làng nghề [16].
Từ năm 2005 2009, Viện nghiên cứu phát triển của Cộng hoà Pháp và
Viện Nghiên cứu nông nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã
20

tiến hành chơng trình nghiên cứu về Sự trỗi dậy của các làng nghề: phát
triển kinh tế, công nghiệp hoá và đô thị hoá ở đồng bằng châu thổ sông Hồng
đông dân (Việt Nam). Cùng năm 2009, công trình Biến đổi văn hóa ở các
làng quê hiện nay của tác giả Nguyễn Thị Phơng Châm đã giới thiệu đợc
những tiền đề lý thuyết về biến đổi văn hóa của các học giả nớc ngoài. Từ
những phân tích này, công trình đã nghiên cứu sự biến đổi văn hóa của ba làng
Đồng Kỵ, Trang Liệt và Đình Bảng với tất cả khía cạnh của đời sống xã hội.
Đây thực sự là nguồn tài liệu tham khảo bổ ích để tác giả luận án có thêm cái
nhìn tổng quát về các trờng phái lý thuyết của các học giả nớc ngoài và
nghiên cứu trờng hợp về biến đổi văn hoá [15].
Công trình Làng nghề thủ công huyện Thanh Oai (Hà Nội) truyền thống
và biến đổi của tác giả Bùi Xuân Đính đã nghiên cứu chuyên sâu về sự biến
đổi làng nghề của huyện Thanh Oai, tìm ra đợc nguyên nhân khách quan,
chủ quan dẫn đến sự biến đổi, chỉ ra đợc vấn đề phát sinh trong quá trình đổi
mới của đất nớc [23]. Đây là một công trình có giá trị tham khảo liên quan
trực tiếp đến đề tài của luận án.
1.1.3. Những công trình nghiên cứu về 3 làng nghề Sơn Đồng, Bát
Tràng và Đồng Xâm
1.1.3.1. Các công trình nghiên cứu về làng nghề gỗ (tạc tợng) Sơn
Đồng, Hoài Đức, Hà Nội
Làng Sơn Đồng chuyên nghề tạc tợng thờ với quan điểm dĩ nhân định
vi cốt tợng có nghĩa là lấy con ngời thật làm chuẩn cho pho tợng. Tợng
thờ do những ngời thợ Sơn Đồng tạo tác hiện vẫn còn đợc lu giữ khá nhiều
ở các đình chùa Hà Nội, Vĩnh Phúc, Nam Định, Thái Bình Tuy nhiên,
những công trình nghiên cứu, bài viết về làng nghề Sơn Đồng không nhiều.

Công trình phải kể đến đầu tiên đó là Tợng Sơn Đồng (Hà Nội) in trong kỷ
yếu Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1979 của tác giả Nguyễn Duy
Hinh, sau đó là bài viết Từ một vài trò diễn trong lễ hội làng của học
giả Trần Từ in trong Tạp chí NCVHNT số (3) năm 1991 [110]. Hai công
21

trình này viết về 2 khía cạnh khác nhau của làng nghề Sơn Đồng đó là tợng
thờ và tục múa mo trong lễ hội. Học giả Trần Từ đã so sánh và phân tích tục
múa mo ở xã Sơn Đồng với tục đánh phết ở Bích Đại, Thợng Lạp (Vĩnh Phú)
và đa ra một số nhận xét về tục thờ sinh thực khí, tín ngỡng phồn thực trong
trò diễn của một số làng vùng châu thổ sông Hồng. Năm 2005, tác giả Nguyễn
Xuân Nghị đã công bố bài viết Làng nghề Sơn Đồng với sản phẩm đồ thờ
truyền thống trên Tạp chí Nguồn sáng dân gian số (1) [72]. Ngoài việc giới
thiệu làng cổ Sơn Đồng và lễ hội làng với tục giằng bông, tác giả còn cho
chúng ta thấy đợc kỹ thuật chế tác sản phẩm nh: tợng thờ, ngai thờ, khám
thờ, hoành phi, câu đối Năm 2008, tác giả Vũ Thị Thanh Tâm đã công bố t
liệu dân tộc học Nghề tạc tợng thờ Sơn Đồng trên Tạp chí Dân tộc học số
(2) với nội dung viết về lịch sử của nghề tạc tợng, các lễ tục trong nghề, quy
trình tạc tợng và hiện trạng làng nghề [95]. Trong công trình Làng nghề Sơn
Đồng (đề tài cấp Viện của Viện nghiên cứu Văn hóa, thuộc Viện Khoa học xã
hội Việt Nam) của tác giả Trơng Duy Bích và Nguyễn Thị Hơng Liên đã
khảo sát sự biến đổi của làng nghề Sơn Đồng dới nhiều góc độ khác nhau
nh: kinh tế, xã hội và văn hóa truyền thống [11]. Gần đây nhất là bài viết
Những biến đổi ở làng nghề Sơn Đồng, Hoài Đức, Hà Nội đăng trên Tạp chí
Nghiên cứu Đông Nam á số (7), 2011 của tác giả Nguyễn Thanh Hơng. Bài
viết đề cập đến sự biến đổi trong cách thức hoạt động nghề từ năm 1954 đến
nay và sự biến đổi trong việc dùng chất liệu và kỹ thuật chế tác của nghề tạc
tợng[52].
1.1.3.2. Các công trình nghiên cứu về làng nghề gốm Bát Tràng, Gia
Lâm, Hà Nội

Làng Bát Tràng là một trong những làng nghề nổi tiếng nhất của vùng
châu thổ sông Hồng. Vì vậy, đã có rất nhiều nghiên cứu chuyên sâu về làng
nghề này dới nhiều góc độ khác nhau.
Trong Đại Việt sử ký toàn th đã có những ghi chép đầu tiên về tên gọi
của Bát Tràng [18, tr.133], sách D địa chí của Nguyễn Trãi cũng đã nhắc tới
22

làng Bát Tràng với nghề làm đồ bát chén [105, tr.33]. Một trong những ngời
gần nh đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu về làng nghề Bát Tràng từ trớc giải
phóng là tác giả Phan Huy Lê và Nguyễn Tuyết Đào với công trình Hồ sơ
khảo sát Bát Tràng năm 1973 [62]. Năm 1977, tác giả Phan Đại Doãn đã công
bố bài viết Từ một số làng gốm miền Bắc trong Thông báo khoa học sử học
số 1 năm 1977. Từ năm 1978 đến năm 1986, tác giả Nguyễn Đình Chiến đã có
những nghiên cứu chuyên sâu về đồ gốm Bát Tràng: Đồ gốm thời Trần Lê
Sơ mới phát hiện ở Đa Tốn (Hà Nội) in trong Những phát hiện mới về khảo cổ
học năm 1978, Một mô hình nhà hai tầng bằng gốm men in trong Những
phát hiện mới về khảo cổ học năm 1985, Thông tin mới về đồ gốm men Bát
Tràng thế kỷ XVI XVII Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1986,
Nhóm đồ gốm men có niên đại thế kỷ XVI in trong Những phát hiện mới về
khảo cổ học năm 1986.
Đến năm 1989, tác giả Đỗ Thị Hảo cho ra đời chuyên khảo Quê gốm
Bát Tràng với những nghiên cứu mang tính toàn diện về nghề, văn hóa làng
nghề với những dấu tích xa nh: Văn chỉ, đình, chùa, phơng châm xử thế, lệ
làng phép họ, tục kết chạ, ma chay, cới xin, quy định đối với dân ngụ c, các
trò diễn trong hội làng [34]. Năm 1994, tác giả Diệp Đình Hoa công bố bài
viết Gốm Bát Tràng và sức sống mới của tranh dân gian trên Tạp chí Văn
hoá Nghệ thuật [42]. Bài viết Bát Tràng làng nghề truyền thống xa và nay
của tác giả Đinh Văn Khiêm đang trên Tạp chí Dân tộc và thời đại cũng đa
ra những số liệu cụ thể về tổng sản phẩm, số lợng lò, tổng thu nhập của làng
Bát Tràng và cảnh báo vấn đề ô nhiễm nghiêm trọng ở Bát Tràng vào những

năm này [58].
Năm 1995, tác giả Phan Huy Lê, Nguyễn Quang Ngọc, Nguyễn Đình
Chiến cho ra mắt bạn đọc cuốn sách dịch 2 thứ tiếng Gốm Bát Tràng thế kỷ
XIV XIX (Bat Trang ceramics 14th 19th centuries) đợc các nhà khoa học
trong nớc và hội nghiên cứu gốm cổ Nhật Bản đánh giá rất cao [63].

×