Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.54 KB, 8 trang )

Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công
bố quốc tế
Nguyễn Văn Tuấn
Đứng trên bình diện quần thể, số lượng và chất lượng bài báo công bố trên
các tập san khoa học quốc tế được xem là một trong những chỉ tiêu quan trọng để
đánh giá năng suất khoa học của một quốc gia, một trường đại học, hay một nhà
khoa học. Thật vậy, ở các nước phát triển và đang phát triển, người ta có hẳn vài
nhóm chuyên theo dõi và so sánh các công trình nghiên cứu để dựa vào đó mà
điều chỉnh chính sách cung cấp ngân sách cho nghiên cứu khoa học. Các trường
đại học xem con số bài báo khoa học và chỉ số trích dẫn là một đo lường về uy tín
khoa bảng của trường, một chỉ tiêu để thu hút tài trợ cho nghiên cứu. Đối với một
cá nhân nhà khoa học, có thể nói rằng con số công trình nghiên cứu được công bố
là chỉ tiêu chính để được đề bạt các chức vụ khoa bảng.
Trong thời gian gần đây, vấn đề hiệu suất nghiên cứu khoa học ở nước ta đã
được đặt ra nhiều lần. Một số phân tích của người viết bài này cho thấy con số bài
báo khoa học của nước ta trong vòng 10 năm qua vẫn còn rất khiêm tốn so với các
nước trong vùng. Khi tính đến các chỉ số về phẩm chất nghiên cứu khoa học, các
công trình khoa học xuất phát từ nước ta cũng chưa thể so sánh với các nước trong
vùng, chứ chưa nói đến các nước phát triển. Mới đây nhất, có phân tích cho thấy
con số bài báo khoa học ở nước ta không bằng con số bài báo khoa học của một
trường đại học Thái Lan!
Mỗi năm, Nhà nước chi ra khoảng 400 triệu USD cho nghiên cứu khoa
học. Do đó, câu hỏi đặt ra là trong năm vừa qua, năng suất khoa học của nước ta
ra sao, có xứng đáng với đồng tiền của người dân đóng thuế bỏ ra cho nghiên cứu
khoa học hay không? Để trả lời câu hỏi này, tôi đã làm một phân tích đơn giản về
con số bài báo khoa học xuất phát từ Việt Nam trong năm qua và so sánh với một
số nước trong khối ASEAN để cho thấy vị thế của nền khoa học nước ta.
Năng suất khoa học 2004-2008
Trong năm 2008 (tính đến tháng 10), các nhà khoa học Việt Nam công bố
được 910 bài báo khoa học trên 512 tập san khoa học quốc tế. So với các nước
trong vùng, con số bài báo khoa học nước ta đứng hàng thứ 4 (sau Singapore, Thái


Lan, và Mã Lai), và vị trí này không thay đổi trong 5 năm qua. Trong cùng năm
2008, Singapore công bố được 5553 bài báo khoa học (cao hơn nước ta gấp 6 lần);
Thái Lan công bố được 3310 bài (hơn Việt Nam 3,6 lần), và Mã Lai công bố 2194
bài (hơn Việt Nam khoảng 2,5 lần).
Tuy nhiên, so sánh tỉ lệ tăng trưởng trong thời gian 2004 đến 2008, năng
suất khoa học Việt Nam có chiều hướng tích cực. Con số bài báo khoa học của
Việt Nam trong năm 2008 phản ảnh một tỉ lệ tăng trường gần 2 lần so với năm
2004. Trong cùng thời gian này, Thái Lan tăng 78%, Mã Lai tăng 95%, và
Singapore tăng 21%. Các nước như Philippines và Insonesia có tỉ lệ tăng trường
khoảng 30 đến 40% (Bảng 1).
Bàng 1. Số lượng bài báo khoa học trên các tập san khoa học quốc tế
trong thời gian 2004-2008
Số lượng bài báo khoa học
Tỉ lệ tăng trưởng
trong năm 2008 so
với năm
Nước
2004

2005

2006

2007

2008

2004

2007


Việt Nam 478

669

681

792

910

1,90

1,15

Thái Lan 1860

2333

2733

3112

3310

1,78

1,06

Malaysia 1126


1474

1618

1842

2194

1,95

1,19

Indonesia 419

532

542

575

544

1,30

0,95

Philippines 383

464


443

436

531

1,39

1,22

Singapore 4594

5514

5640

5726

5553

1,21

0,97

Lĩnh vực nghiên cứu
Trái lại với nhiều người lầm tưởng, lĩnh vực nghiên cứu “mạnh” của Việt
Nam không phải là toán hay vật lí, mà là y học. Thật vậy, Trong năm 2008, con
số bài báo liên quan đến y khoa (như tế công cộng, y học nhiệt đới và bệnh truyền
nhiễm) là 156, chiếm 17% tổng số bài báo của cả nước. Trong khi đó, ngành vật lí

lí thuyết và vật lí ứng dụng “sản xuất” được 141 bài (chiếm 15% tổng số bài báo
khoa học Việt Nam), và toán 120 bài (13%). Như vậy, chỉ ba ngành y học, vật lí
và toán đã chiếm khoảng 45% các công trình nghiên cứu khoa học từ Việt Nam
(xem Bảng 2).
Trong khi đó, các lĩnh vực nghiên cứu “mạnh” của Thái Lan tập trung vào
các ngành khoa học ứng dụng và y sinh học. Chỉ riêng ngành dược, với 189 bài
báo khoa học, chiếm gần 6% tổng số bài báo quốc tế từ Thái Lan. Các lĩnh vực
“top 10” hàng đầu của Thái Lan là: công nghệ thực phẩm (5,1%), công nghệ sinh
học (~5%), sinh học phân tử (~5%), khoa học vật liệu (4%), vi sinh học (~4%),
khoa học môi trường (~4%), bệnh truyền nhiễm (~4%), polymer (~4%), và hóa
học (~3,7%).
Bảng 2. Tốp 10 ngành khoa học của Việt Nam và Thái Lan
Việt Nam (n=910) Thái Lan (n = 3310)
Vật lí (76) Dược học (189)
Y tế công cộng (69) Công nghệ thực phẩm (168)
Toán thuần túy (66)
Công nghệ sinh học và vi sinh học
(161)
Toán ứng dụng (54) Sinh học phân tử và sinh hóa (150)
Y học nhiệt đới (54) Khoa học vật liệu (137)
Vật lí chất rắn (35) Vi sinh học (130)
Khoa học môi trường (34) Khoa học môi trường (127)
Bệnh truyền nhiễm (33) Bệnh truyền nhiễm (127)
Vật lí ứng dụng (30) Polymer (126)
Khoa học vật liệu (24) Kĩ thuật hóa học (121)
Chú thích: số trong ngoặc là số công trình khoa học công bố tr
ên các
tập san khoa học quốc tế trong năm 2008.
Thật ra, ngay cả các lĩnh vực “top 10” của Việt Nam (không phải top 10
của Thái Lan), con số công trình khoa học cũng rất thấp so với Thái Lan. Chẳng

hạn như số bài báo về y học (y tế công cộng, y học nhiệt đới, bệnh truyền nhiễm)
của Thái Lan vẫn cao hơn Việt Nam gần 2 lần. Ngay cả ngành vật lí (lí thuyết,
ứng dụng, và chất rắn) con số bài báo của Thái Lan vẫn cao hơn Việt Nam. Chỉ có
số lượng bài báo về toán học là Thái Lan thấp hơn Việt Nam khoảng 40%.
Nội lực
Trong tổng số 910 công trình khoa học Việt Nam trên các tập san quốc tế,
65% bài là do tác giả người Việt Nam đứng tên đầu, và phần còn lại là do tác giả
ngoại quốc đứng tên đầu. Những tác giả đứng tên đầu có thể là nghiên cứu sinh
nhưng cũng có thể là người chủ trì dự án nghiên cứu; do đó, một cách đánh giá nội
lực chính xác hơn là dựa vào tên tác giả chịu trách nhiệm chính (responsible
author). Chỉ có 209 bài báo khoa học (khoảng 23%) do tác giả người Việt chịu
trách nhiệm chính.
Tuy nhiên, phân tích cho từng ngành thì thấy ngành y sinh học có tỉ lệ nội
lực thấp nhất: chỉ khoảng 5% bài báo y sinh học là do tác giả Việt Nam chịu trách
nhiệm chính, phần còn lại là do người nước ngoài chủ trì. Nói cách khác, phần lớn
(có thể 95%) công trình nghiên cứu y sinh học ở Việt Nam là do các nhà khoa học
Việt Nam tham gia vào những dự án nước ngoài, hoặc do hợp tác hay cộng tác với
đồng nghiệp nước ngoài.
Chất lượng
Chất lượng của một bài báo nghiên cứu khoa học thường được đánh giá qua
chỉ số ảnh hưởng (IF hay impact factor) của tập san. Tập san có uy tín cao thường
có chỉ số IF cao, vì họ chỉ công bố những công trình khoa học có chất lượng cao.
Phân tích về chất lượng cũng cho thấy đại đa số các bài báo khoa học được
công bố trên những tập san có chỉ số IF rất thấp. Chẳng hạn như trong ngành y
sinh học (một lĩnh vực tương đối mạnh của nước ta), phần lớn các bài báo đều
công bố trên tập san có chỉ số IF dưới 3 như American Journal of Tropical
Medicine and Hygiene (IF= 2,5), Journal of Clinical Microbiology (IF=3,5),
Tropical Medicine & International Health (IF=2,6), International Journal of
Tubeculosis and Lung Disease (IF=2), Chemical and Pharmaceutical Bulletin
(IF=1.3). Ngay cả các ngành như toán và vật lí, phần lớn bài báo từ Việt Nam

cũng chỉ công bố trên các tập san có chỉ số IF thấp (dưới 1).
Tính trung bình, khoảng 42% các bài báo từ Việt Nam được trích dẫn trên 5
lần, tức là cao hơn số trung bình trên thế giới. Các ngành khoa học Việt Nam có
trích dẫn cao thường là các ngành khoa học thực nghiệm như y sinh học, hóa học,
nông nghiệp, môi trường và công nghệ sinh học. Riêng hai ngành toán và kĩ thuật
số lần trích dẫn không cao và có thể chẳng có ảnh hưởng gì lớn trên thế giới. Điều
đáng quan tâm là 41% các bài báo về kĩ thuật từ Việt Nam chưa bao giờ được trích
dẫn sau 5 năm công bố.
Một cách khác để gián tiếp đánh giá chất lượng là xem xét tỉ lệ các bài báo
chưa bao giờ được trích dẫn. Có khoảng 20% các bài báo khoa học từ Việt Nam
chưa bao giờ được trích dẫn sau 5 năm công bố. Đây cũng là tình trạng chung ở
các nước trong vùng, với tỉ lệ chưa bao giờ trích dẫn (trong vòng 5 năm) được ghi
nhận tại Thái Lan (15%), Mã Lai (19%), Nam Dương (19%), Phi Luật Tân (13%),
và Singapore (17%). Như vậy, tính trung bình chất lượng nghiên cứu khoa học
nước ta cũng thấp hơn so với các nước trong vùng.
Vài nhận xét
Qua các phân tích trên đây, chúng ta thấy rõ ràng rằng năng suất khoa học ở
nước ta quá thấp hơn so với các nước trong vùng. Một trong những lí do cho tình
trạng khoa học Việt Nam còn quá khiêm tốn trên trường quốc tế và trong vùng là
các đại học và trung tâm nghiên cứu khoa học nước ta chưa có những qui định về
chuẩn mực nghiên cứu khoa học phù hợp với các chuẩn mực quốc tế. Hệ thống đề
bạt giáo sư ở nước ta vẫn dựa vào các tiêu chuẩn “nội địa”, mà không mấy quan
tâm đúng mức đến mức độ đóng góp vào khoa học có công trình đăng trên các tập
san khoa học quốc tế. Đại đa số các tiến sĩ được đào tạo từ trong nước cũng không
hay chưa bao giờ có các bài báo trên các tập san khoa học quốc tế.
Ngoài ra, chúng ta có quá nhiều nhà khoa học với chức danh giáo sư và tiến
sĩ nhưng họ không làm nghiên cứu mà chỉ đảm nhận các chức vụ hành chính (gần
70% các tiến sĩ giữ chức vụ quản lí và không làm nghiên cứu khoa học). Theo
thống kê, năm học 2007-2008, cả nước có 38.217 giảng viên dạy đại học; trong số
này, có 13.394 người có trình độ thạc sĩ trở lên (kể cả 21 giáo sư và phó giáo sư),

và nếu theo tiêu chuẩn nước ngoài mỗi năm phải có một bài báo khoa học, thì con
số bài báo khoa học nước ta phải là 13.000. Nhưng trong thực tế, cả nước chỉ “sản
xuất” được 910 bài, tức chưa đầy 10% tiềm năng!
Chẳng những số lượng thấp và chất lượng lại càng rất thấp. Như vừa trình
bày trên, đại đa số các công trình nghiên cứu từ Việt Nam chỉ công bố trên các tập
san có chỉ số IF thấp, thậm chí những tập san địa phương như của Hàn Quốc và
Nhật! Con số 20% công trình nghiên cứu chưa bao giờ được trích dẫn cũng là một
phản ảnh về chất lượng nghiên cứu khoa học ở nước ta chưa được cao.
Số lượng và chất lượng nghiên cứu khoa học có thể tùy thuộc vào ngân
sách khoa học. Theo một quan chức trong Bộ Khoa học và Công nghệ, trong niên
khóa 2007-2008, ngân sách Nhà nước cho nghiên cứu khoa học lên đến 400 triệu
USD. Trong năm 2008 có 209 bài báo nội lực (tức hoàn toàn do người Việt Nam
làm chủ trì và chịu trách nhiệm chính). Như vậy, tính trung bình, mỗi bài báo
khoa học tốn đến 1,9 triệu USD tiền đóng thuế của người dân. Đó là một cái giá
rất đắt, đắt gấp 3-5 lần so với các nước trong vùng.
Những dữ liệu trên đây cho thấy các nhà quản lí giáo dục và khoa học cần
phải định lại tiêu chuẩn về tiến phong giáo sư và phó giáo sư. Hiện nay, trong khi
các đại học trên thế giới đều dựa vào số lượng và chất lượng công trình nghiên cứu
khoa học để đề bạt các chức vụ khoa bảng, thì ở nước ta có sự đánh giá tương
đồng giữa những bài báo trong nước và các bài báo trên các tập san quốc tế! Một
sự đánh đồng như thế chẳng những thiếu công bằng, mà còn có ảnh hưởng xấu đến
việc đưa khoa học nước ta hội nhập với cộng đồng khoa học quốc tế.
Nếu những phân tích trên đây cung cấp một vài ý nghĩa, thì tôi nghĩ đến
vấn đề ưu tiên cho nghiên cứu khoa học nước ta trong tương lai là gì. Đã từ lâu,
hoạt động khoa học nước ta chủ yếu nhắm vào những nghiên cứu cơ bản như toán
học và vật lí học, hai ngành nằm trong “top 10” ở nước ta. Nhưng sự thật qua con
số bài báo khoa học cho thấy chính ngành y sinh học mới là ngành mạnh ở nước
ta, chứ không phải ngành toán hay vật lí. Nếu kinh nghiệm từ các nước đang phát
triển như Thái Lan hay Mã Lai là một bài học, tôi nghĩ định hướng nghiên cứu
khoa học tương lai ở nước ta nên dành ưu tiên cho khoa học thực nghiệm và ứng

dụng, như y sinh học, công nghệ sinh học và khoa học môi trường.
Nghiên cứu khoa học là một trong những tiêu chí chuẩn để đánh giá và xếp
hạng một đại học trong hàng ngũ “đẳng cấp quốc tế” (world-class university).
Theo ước nguyện của ngành giáo dục nước ta, một số đại học đang có tham vọng
trở thành “đại học đẳng cấp quốc tế” trong vòng 20 năm. Nhưng những kết quả
phân tích trên đây cho thấy ước nguyện đó rất có thể chỉ là mộng ước, vì rất khó
thành hiện thực. Với tốc độ tăng trưởng hiện nay, 20 năm nữa, con số bài báo
khoa học nước ta có thể chỉ 2500 bài, tức chỉ bằng phân nửa con số của Singapore
hay 20% thấp hơn Thái Lan của năm 2008. Với một viễn ảnh như thế, chúng ta
không nên chỉ mơ ước, mà phải biến mơ ước thành hiện thực qua nhiều cải cách
giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
Do đó, để nâng cao vị thế khoa học Việt Nam trên trường quốc tế, thiết
nghĩ Nhà nước cần phải nâng cao hiệu suất đầu tư cho khoa học và công nghệ, và
cải cách hệ thống hoạt động nghiên cứu khoa học, và bắt đầu bằng việc phát triển
các chuẩn mực cho các nhà khoa học, kể cả tiêu chuẩn giáo sư, sao cho phù phù
hợp với các chuẩn mực quốc tế và không quá xa rời thực tế ở nước ta. Cần chuẩn
mực mới nên khuyến khích các nhà khoa học nước ta tập trung vào việc công bố
các nghiên cứu trên các tập san quốc tế, tập trung vào việc đăng kí bằng sáng chế
tại các cơ quan quốc tế. Cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế, nhưng cũng cần phải đảm
bảo những nghiên cứu từ Việt Nam thuộc sở hữu của người Việt Nam.

×