Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Những Danh nhân khoa học Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (59.92 KB, 10 trang )

Cao thắng
Chế súng theo kiểu Pháp
Đòa bộ muốn theo dòng Nhạc mục thét nhung bài từng ghê trận oai linh
Thiên tài toan học chước Vũ Hầu, chế súng đạn biết bao trừng cơ khí ”.
Đây là hai câu thơ trong bài Văn tế của cụ Phan Đình Phùng. Ai là người được cụ
sánh ngang cùng Nhạc phi đời Tống, với Gia Cát Khổng Minh Đời Hán. Người đó chính
là anh hùng Cao Thắng, cánh tay phải đắc lực của cụ trong khởi nghóa Lương Sơn Cao
Thắng sinh năm 1864 tại thôn Yên Đức, xã Tuần Lễ, nay thuộc huyện Hương Sơn, tỉnh
Hà Tónh. Dáng người thấp bé nhưng nhanh nhẹn, thông minh, thích luyện binh đao, võ
nghệ để sau này trở thành một chiến tướng. Em ruột ông là Cao Nưũ cũng là người như
ông.
Năm 1885, khi Vua Hàm Nghi xuống hòch Cần Vương thì cụ Phan Đình Phùng
được giao lãnh đạo phong trào ở Hà Tónh, Quảng Bình. Hào kiệt khắp nơi kéo về xin gia
nhập một người như thế trong số đó anh em Cao Thắng. Ông rất được trọng dụng vì là
người tài.
Năm 1886, khi cụ Châu kéo quân ra Bắc, Cao Thắng được giao quyền chỉ huy khi
mới 22 tuổi. Ông ra sức quy tụ người tài, thợ rèn đưa họ vào Lệ Đông để đúc súng. Sau
bao tháng trời mày mò, rút kinh nghiệm, ông đúc được 200 khẩu súng. Đây là một loại
súng phải nhồi thuốc nổ, hễ đốt lửa thì đạn bay ra khỏi nòng. Khẩu súng ra đời làm nghóa
quân nóng lòng và thanh thế của cụ Phan vang rộng khắp nơi. Nhưng Cao Thắng tự nhủ
phải chế tạo được loại súng hiện đại như của Pháp. Suy tính nát óc mà không biết làm
sao. May thay, ông đã cướp được 17 khẩu súng và 600 viên đạn của một toán lính Pháp
khi chúng đi phát lương cho lính .
Ông đã tự mình tháo rời súng, đo đạc từng bộ phận, rèn đi đúc lại nhiều lần mà
không nản lòng. Cuối cùng khẩu súng kiểu Pháp cũng ra đời. Không có thép cứng ông
dùng cây gọng dù uốn lại, thiếu sắt ông cho gom móng ngựa, cày cuốc cũ về làm lại …
Chính sự thông minh cần cù đã giúp họ tạo ra một cây súng hiện đại chứ không nhờ một
loại máy móc nào cả. Có súng trong tay ông chủ động xin cụ Phan cho đánh trước để mở
đường ra khỏi núi rừng. Ông đã q xuống chân cụ Phan để nói lời tâm huyết : “ Đại
trượng phu đến chết là cùng , chứ có điều chi mà phòng sợ. ”
Ông đã chọn những người ngoan cường để ra đi với trang phục màu đỏ tượng trưng


cho Lửa, còn phương tây là Kim. Lửa đố vàng khắc chảy. Càng đánh khí thế của nghóa
quân càng lên cao. Đồn bót của giặc không tài nào chống cự nổi. Nhưng trong đêm 21
tháng 11 năm 1893 trong trận đánh đồn Nổ, ông đã trúng đạn và hy sinh. Năm đó mới
29 tuổi, cụ Phan đã khóc thảm thiết, bao chiến só thương tiếc. Chính cụ Phan đã viết bài
văn tế để điếu ông, nhân dân khóc than :
“Khen thay Cao Thắng tài to
Lấy ngay súng giặc về cho lò rèn
Đêm ngày tì mỉ mở xem
Lại thêm có cả đội Quyên cũng tài
Xưởng trong kho chí xưởng ngoài
Thợ rèn các tỉnh đều mời hội công
Súng ta chế được vừa xong
Đem ra mà bắn nức lòng lắm thay
Bắn cho tiệt giống quân Tây
Cậy nhiều súng ống phen này hết khoe.”
Hồ Nguyên Trừng
Người Chế súng thần công
Hồ Nguyên Trừng là con trai trưởng của Hồ Q Ly. Dưới triều Trần, Hồ Q
Ly là một q tộc có thanh thế trong triều, vì hai cô ruột cùng lấy vua Trần Minh Tông
(1314-1329). Năm 1400, Hồ Q Ly lật đổ triều Trần, lên ngôi vua, đặt tên nước là Đại
Ngưu, dời kinh đô vào Thanh Hóa.
Lên ngôi chưa đầy một năm, Hồ Q Ly lên làm Thái Thượng Hoàng nhường ngôi
cho con là Hồ Nguyên Trừng và Hồ Hán Thương. Hai anh em có nhiều điều bất hòa với
nhau.
Ngày 19 tháng 11 năm 1406, quân Minh hộ tống tên Việt gian Trần Thiêm Bình
sống lưu vong trên đất Minh về nước, hòng dựng lên một triều vua bù nhìn làm tay sai
cho giặc. Trước nguy cơ xâm lược, nhà Hồ áp dụng chính sách ngoại giao mềm dẻo và
chuẩn bò kháng chiến.
Hồ Hán Thương xuống chiếu gọi các quan phủ sứ về kinh họp để bàn kế hoạch
nên đánh hay nên hòa. Hồ Nguyên Trừng quả quyết “thần không sợ đánh chỉ sợ lòng

dân không theo”. Chính câu nói này đã cứu vớt lấy lại uy thế nhà Hồ trong sử sách. Khi
giặc Minh hộ tống Trần Thiêm Bình đến gần biên giới nước ta, nhà Hồ bất ngờ tấn công,
vậy chặt, Hoàng Trung - tướng giặc Minh đã giao nộp Thiêm Bình cho nhà Hồ. Dù mất
con bài chính trò, nhưng giặc Minh vẫn xua quân sang nước ta.
Trong thời kỳ này, Hồ Nguyên Trừng đã chế ra một loại súng nổi tiếng là súng
Thần cơ, sự kiện này chứng minh là ông là kỹ sư chế tạo ra súng lỗi lạc nhất thời bấy
giờ. Đây là loại súng có nhiều cỡ khác nhau có sức sát thương hơn hẳn các loại súng
đương thời kể cả Hỏa Công của giặc Mông. Khẩu súng Thần cơ của ông có những bộ
phận chi tiết chủ yếu của các kiểu súng thần công trong những thế kỷ sau này. Về
nguyên tắc loại súng này gần giống như loại súng hỏa mai bắn đạn ghém, chỉ có điều
khác là súng Thần cơ của Hồ Nguyên Trừng có thể bắn được cả mũi tên bằng sắt. Súng
có thể vác trên vai và bắn xa chừng 300 bộ (khoảng 600-700m) gấp 5 lần loại cung nỏ
bình thường.
Đêm mồng 9, giặc Minh đánh úp quân nhà Hồ ở Mộc Hòa. Sáng ngày 12 tướng
giặc Trương Phụ dẫn quân tấn công thành Đa Bang. Súng Thần cơ của Hồ Nguyên Trừng
đã góp phần ngăn chặn bước tiến ồ ạt của giặc. Sách Đại Việt sử ký còn viết “xác giặc
chất cao ngang thành”. Hồ Nguyên Trừng đã cải tiến bằng cách loại bỏ những mũi tên
sắt trước đây được đặt trong nòng súng, nhờ đó súng của ông có sức công phá mạnh hơn.
Bọn giặc Minh lại càng kinh ngạc khi thấy quân Đại Ngưu được trang bò thêm súng
Thần cơ sang pháo.
Do nòng súng lớn nên bầu nòng chứa nhiều thuốc nổ và đạn do đó sức công phá
rất mạnh. Nhưng bọn giặc q quyệt đã tìm cách ly gián lòng dân với nhà Hồ bằng cách
kể tội nhà Hồ về việc cướp ngôi nhà Trần. Quân lính nhà Hồ không còn bụng dạ để
chiến đấu. Hồ Nguyên Trừng ra lệnh cho tướng chỉ huy cho voi ra ứng chiến. Giặc Minh
dùng hỏa tiễn bắn voi, voi lùi lại, nhân đó giặc theo voi đánh vào thành. Thành bò hạ,
quân nhà Hồ chạy vào Thanh Hóa.
Ngày 5-5- 1407 Hồ Qù Ly bò bắt ở bãi Chỉ Chỉ ( Vónh Lộc-Thanh Hóa). Ngày 11-
5- 1407, Hồ Nguyên Trừng bò bắt ở Kỳ La (Kỳ Anh-Hà Tónh ), ngày hôm sau Hồ Hán
Thương cũng bò bắt. Cuộc kháng chiến của triều Hồ hoàn toàn bò dập tắt. Giặc Minh đổi
nước ta thành quận Giao Chỉ và đặt ách thống trò.Vua Minh không thừa nhận gia đình

họ Hồ thuộc dòng dõi Ngu Thuấn nên buộc phải đổi họ khác , Hồ Nguyên Trừng đổi
lại Lê Trừng. Những năm tháng lưu đầy , ông dồn hết tâm sự của mình trong tác phẩm
Nam Ông Mộng Lục. Nam Ông là bút hiệu của Hồ Nguyên Trừng. Tác phẩm này của
ông có giá trò góp phần bổ sung vào văn học va sử học thời Lý Trần. Sách Cô thụ biểu
đàm viết “ Nhà Minh cho Lê Trừng, con Quý Ly làm Hộ bộ Thượng Thư , Trừng khéo
chế súng, chế ra thần sang cho triều Đình, cho đến nay, tế binh khí tề phải tế Trừng ”.
Căn cứ vào sách sử của nhà Minh, Hồ Nguyên Trừng không những là người đầu tiên
đúc súng Thần cơ ở Việt Nam mà còn là người đầu tiên chế tạo súng của Trung Quốc
Lê Quý Đôn
Nhà Bác học vó đại thế kỹ XVIII
Lê Quý Đôn sinh ngày 2.8.1726 tại làng Phú Hiếu huyện Diên Hà(nay thuộc Độc
Lập huyện Hưng Hà Thái Bình), là con trai của tiến só Lê Phú Thứ.
Ông từ nhỏ đã chúng tỏ minh là người thông minh, có trí nhớ siêu phàm cùng sức
học uyên bác. Mới 8 tuổi, trong một lần bò bố mắng “ Đồ rắn đầu, rắn cổ .”, cậu đã ứng
khẩu ngay một bài thơ Đường luật mà mỗi câu đều co tên một loài rắn :
Chẳng phải liu điu vẫn giống nhà
Rắn đầu biếng học , lẽ không tha
Thẹn đầu hổ lửa đau lòng mẹ
Nay thét mai gầm , rát cổ cha
Ráo méo chỉ quan tuồng dối trá
Lằn lưng , cam chòu vọt năm ba
Từ rày Châu Lỗ chăm nghề học
Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia
Năm 17 tuổi ông thi Hương đỗ giải Nguyên.
Năm 26 tuổi thi Hội đỗ Hội Nguyên và thi Đình đỗ Bảng Nhãn. Được làm Thò Thư
Viện Hàn Lâm,rồi làm ở Ban Toản Tu Quốc Sư, được cử đi điều tra chấn Nam Sơn,
biệt phái sang phủ chúa.
Năm 1757 được thăng chức Thò Giảng Viện Hàn Lâm.
1760 vua Lê Í Tông mất ông được cử sang Trung Quốc báo tang.
Bằng sự ngoại giao sắc sảo ông đã buộc triều đình nhà Thanh phải thay đổi cách gọi

từ “di quan” (quan lại mọi rợ) thành An Nam Cống Sứ đối với sứ bộ của ta.
Cuộc đời làm quan của Lê Quý Đôn không có gì trắc trở.
Ông được người đời nhớ tới vì sức học uyên bác không mệt mỏi để trở thành nhà
bác học lấy lừng đầu thế kỷ XVIII
Ông được các nhà trí thức đánh giá rất cao, coi ông như bậc thiên tài. Nhưng ở ông
ta thấy 99% là nhừ sự cần cù, kiên nhẫn, cách tổ chức công việc hợp lý, khoa học , luôn
học hỏi va ghi chép.
Ông đã để lại nhiều bộ sách quý có giá trò giúp ích cho muôn đời.
Không những là nhân tài trong nước ông còn được nhà Thanh khâm phục là người
tài giỏi.
Tuy nhiên con người dù tài giỏi đến đau cũng có những lónh vực không biết.
Đó là bài học sâu sắc mà Lê Quý Đôn đã nhận được từ thời còn trẻ.
“Dù giỏi bao nhiêu, dù học bao nhiêu cũng không bao giờ đủ cả”
Lương Đình Của
Người tạo ra nhiều giống lúa mới

×