Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.39 KB, 7 trang )

Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược 1
Nguyễn Văn Tuấn
Trong hệ thống kinh tế thị trường, khi kĩ nghệ dược phẩm và giới thầy
thuốc cọ sát sẽ gây ra nhiều lợi ích, nhưng chính mối tương tác này cũng có thể tạo
nên xung đột và mâu thuẫn. Hoạt động chính của kĩ nghệ dược liên tục nghiên
cứu, sản xuất và phân phối các loại thuốc được “chứng minh” là có hiệu quả lâm
sàng và cứu sống bệnh nhân. Nếu giới thầy thuốc không sử dụng những thuốc
mới có hiệu quả lâm sàng hơn thuốc hiện hành (có thể do thiếu cập nhật hóa hay
thiếu hiểu biết), thì các nỗ lực tiếp thị thuốc của các công ti dược nhằm thuyết
phục thầy thuốc sử dụng thuốc mới có thể xem là một việc làm tích cực và đem lại
lợi ích cho bệnh nhân. Tuy nhiên, nếu những tiếp thị của các công ti dược chỉ
nhắm đến việc tăng lợi nhuận, và trong quá trình tiếp thị gây ra tác hại đến xã hội
(như tăng giá thuốc và lạm dụng thuốc) thì hành động này có thể xem là tiêu cực
và vi phạm y đức. Vấn đề, do đó, là cân bằng giữa lợi ích và tác hại trong mối
tương tác giữa kĩ nghệ dược và y giới.
Nhiều sự kiện xảy ra trong thời gian gần đây làm cho công chúng đặc biệt
quan tâm đến ảnh hưởng của kĩ nghệ dược phẩm đến hệ thống y tế toàn cầu. Sự
kiện thứ nhất là thị trường thuốc đắt tiền càng ngày càng gia tăng đáng ngại, nhất
là ở các nước như Mĩ và Âu châu, làm cho ngân sách y tế ở các nước này lâm vào
tình trạng khủng hoảng. Riêng ở Mĩ, chi phí cho các loại thuốc cần toa bác sĩ đã
lên đến gần 200 tỉ USD, làm cho chính phủ mới của Tổng thống Obama phải đặc
biệt quan tâm. Sự kiện thứ hai là một số công ti thuốc bị tòa án kết tội phạm hình
sự vì những hoạt động tiếp thị của họ. Phần lớn những vụ kiện này đều được giải
quyết ngoài tòa với những khoản bồi thường khổng lồ. Sự kiện thứ ba là các công
ti dược và y giới càng ngày càng nhận thức rằng mối liên hệ giữa hai bên làm cho
thành viên của hai phía cảm thấy xấu hổ, và cần phải có sự thay đổi cơ bản trong
mối liên hệ này.
Theo báo cáo của các “đại gia” dược, năm 2002 họ chi ra 1/3 doanh thu cho
các dịch vụ “selling & administration” (một mĩ từ cho hoạt động tiếp thị). Có
công ti (như Norvatis) còn chi đến 36% cho hoạt động tiếp thị! Tính chung, kĩ
nghệ dược chi ra khoảng 12 đến 15 tỉ USD hàng năm cho hoạt động tiếp thị. Tính


trung bình, ngân sách tiếp thị thuốc trên mỗi bác sĩ dao động từ 8.000 đến 15.000
USD / năm.
Nhưng nói đến “hoạt động tiếp thị” là nói đến cái gì? Một nghiên cứu ở Mĩ
cho thấy có khỏng 16 cách thức tiếp thị, từ những hoạt động thân mật như tặng
quà cáp, bút, đồ chơi (đương nhiên là có logo của thuốc và công ti) đến những
hành vi có thể xem là đáng quan tâm như “tác giả ma” và mua chuộc các giáo sư
đại học. Cần nói thêm rằng hiện tượng tác giả ma (ghost authorship) là một thủ
thuật của các công ti dược mướn các nhà viết thuê viết bài báo khoa học, và họ trả
tiền cho các giáo sư kí tên vào như là tác giả (dù các giáo sư này chẳng biết hay
dính dáng gì đến công trình nghiên cứu). Trong thực tế cũng có không ít giáo sư
chịu kí tên vào các bài nghiên cứu như thế để nhận từ 5000 đến 20000 USD!
Tuy nhiên, trong thực tế thì mối quan hệ này đặt ra nhiều vấn đề y đức và
có khi làm ảnh hưởng xấu đến sự nghiệp của nhiều nhà nghiên cứu danh tiếng.
Một số hành động của một số công ti dược còn có thể mô tả là hối lộ hay đút lót.
Chẳng hạn như vào giữa thập niên 1990, công ti TAP (Mĩ) tung ra thị trường
thuốc Lupron (dùng điều trị ung thư tiền liệt tuyến) nhưng gặp phải cạnh tranh của
một loại thuốc khác rẻ hơn là Zoladex. Để đối đầu với đối thủ, TAP tìm cách gặp
giám đốc y vụ của một công ti bảo hiểm y tế và đề nghị sử dụng Lupron, và hãng
sẽ tặng cho vị giám đốc này 25.000 USD dưới danh nghĩa “tài trợ giáo dục” nhưng
ông sẽ toàn quyền sử dụng. Khi vị giám đốc từ chối, công ti đề nghị tăng 65.000
USD. Nhưng vị giám đốc đã báo cho cảnh sát liên bang Mĩ biết và vụ việc được
đưa ra ánh sáng với nhiều tình tiết động trời khác, và công ti bị phạt 875 triệu
USD.
Một trong những chiến lược mà các công ti dược thường áp dụng có hiệu
quả là sử dụng các chuyên gia, các giáo sư có tiếng trong ngành để nhờ các chuyên
gia này tư vấn và nói chuyện trong các hội nghị do họ tổ chức. Phần lớn những
hội nghị này mang tính chuyên môn cao và đem lại nhiều thông tin có ích cho bác
sĩ, nhưng cũng có một số hội nghị này cũng mang hình thức quảng bá sản phẩm
của công ti hơn là hội nghị khoa học.
Ngoài ra, các công ti còn muốn sử dụng các chuyên gia này để ảnh hưởng

đến chính sách và định hướng cho chuyên ngành. Theo một cuộc điều tra vào năm
2002, hơn 80% các giáo sư và bác sĩ trong các tổ chức y khoa chuyên soạn thảo
các phác đồ điều trị có liên hệ hay nhận tiền thuyết giảng (speaking fee) hay tư vấn
phí (consultant fee) từ các công ti dược. Có người nhận cả nửa triệu USD mỗi
năm và nhiều lợi lộc khác từ các công ti dược.
Không ai biết các công ti dược đã cung cấp bao nhiêu tiền cho các giáo sư
và bác sĩ. Nhưng dựa vào các báo cáo thường niên, bác sĩ Marcia Angell (tổng
biên tập tập san y khoa New England Journal of Medicine) ước tính rằng con số có
thể lên đến 10 tỉ USD. Với số tiền đó, các công ti dược đã kiểm soát được các
chuyên gia hàng đầu trong y khoa về việc sử dụng các sản phẩm của họ. Qua
những mối quan hệ mật thiết với các giáo sư các công ti dược có thể kiểm soát kết
quả nghiên cứu và định hướng mà y khoa thực hành ra sao và thậm chí định nghĩa
thế nào là bệnh.
Mối liên hệ giữa y giới và kĩ nghệ dược sẽ chẳng được quan tâm nếu nó
không ảnh hưởng đến bệnh nhân và xã hội nói chung. Câu hỏi mà công chúng và
chính quyền hay đặt ra là: giới thầy thuốc có bị chi phối bởi các hoạt động tiếp thị
của các công ti dược, và nếu có thì ảnh hưởng đến bệnh nhân và xã hội mang tính
tích cực hay tiêu cực? Nhiều bác sĩ cho rằng các công ti thuốc không hề chi phối
việc ra toa hay chăm sóc bệnh nhân, và câu hỏi đó là một xúc phạm đến nhân cách
của họ! Một số bác sĩ khác thì cho rằng mối quan hệ đó tích cực bởi vì họ học hỏi
và cập nhật hóa thông tin từ các công ti dược.
Nhưng trong thực tế, có rất nhiều phân tích và nghiên cứu khoa học cho
thấy rõ ràng rằng nói chung các bác sĩ thường ra toa những thuốc của công ti mà
họ có liên hệ mật thiết. Ngoài ra, những giáo sư ngồi trong các hội đồng y khoa và
soạn thảo phác đồ điều trị cũng chịu ảnh hưởng từ mối liên hệ của họ với các công
ti thuốc. Các giáo sư này thường có xu hướng đề nghị thuốc của công ti mà họ có
liên hệ mật thiết, và nhiều khi họ cũng cố tình che dấu những tác hại của thuốc các
công ti đó. Điều đáng nói ở đây là sứ mệnh của y khoa là đào tạo bác sĩ, nghiên
cứu khoa học, và chăm sóc bệnh nhân. Nhiệm vụ của y khoa không phải là thiết
lập những liên minh thương vụ với các công ti thuốc. Các công ti thuốc không

phải là nhà từ thiện; họ kì vọng phải có lời hay lợi ích cho những đồng tiền họ bỏ
ra, và trong thực tế họ cũng đạt được mục tiêu đó, chứ nếu không thì chắc chắn họ
chẳng tiếp tục làm như hiện nay. Do đó, chịu ảnh hưởng bởi các công ti thuốc là
một cách tự đánh mất phẩm cách của người thầy thuốc.

Timothy Kuklo

Bác sĩ Timothy R. Kuklo, 48 tuổi, là một chuyên gia chấn thương chỉnh hình và
phó giáo sư y khoa thuộc Đại học Washington ở St Louis (bang Missori, Mĩ). Tốt
nghiệp từ trường võ bị danh tiếng Westpoint, ông từng phục vụ trong quân y Mĩ
tại Trung tâm quân y Walter Reed, một trung tâm y khoa danh tiếng của Mĩ. Tuần
vừa qua, ông bị 4 đồng nghiệp tố cáo là giả tạo số liệu trong nhiều công trình
nghiên cứu, và có những mối liên hệ đáng nghi ngờ với một công ti sinh học.



Trong thời gian phục vụ tại Trung tâm quân y Walter Reed bác sĩ Kuklo thường đi
thuyết giảng khắp nơi về hiệu quả của một sản phẩm của ông ti Medtronic có tên
là Infuse, một loại protein mà ông cho là có hiệu quả l
àm lành xương nhanh chóng.
Trong công trình nghiên cứu được công bố trên một tập san y khoa bên Anh vào
năm ngoái, Kuklo báo cáo rằng trong thời gian 3/2003 đến 3/2005 ông đã sử dụng
Infuse để điều trị cho 138 bệnh nhân (quân nhân) bị thương chân do nổ mìn trong
cuộc chiến Iraq, và tỉ lệ thành công là 92%.

Kuklo là một “cảm tình viên” của Infuse. Như nói trên, ông đi quảng bá Infuse
khắp nơi về Infuse và thuyết phục đồng nghiệp nên sử dụng protein càng nhiều
càng tốt cho bệnh nhân! Ông là người có tài ăn nói và thuyết phục đến độ có đồng
nghiệp nhận xét nếu ông bảo đưa tài khoản ngân hàng thì chắc chắn có người sẽ
đưa! Chỉ trong vòng vài năm, doanh thu của Medtronic từ Infuse lên đến 500

ngàn USD.

Infuse được sử dụng rộng rãi ở các bệnh viện dân sự bên Mĩ cho giải phẫu xương
cột sống và điều trị gãy xương. Nhưng các bác sĩ có thể sử dụng Infuse cho các
chỉ định khác. Năm ngoái, Cục quản lí thuốc và thực phẩm Mĩ (FDA) ra thông
báo cho biết nếu infuse được sử dụng trong giải phẫu cổ có thể làm cho bệnh nhân
khó thở. Infuse không được FDA phê chuẩn cho sử dụng trong giải phẫu cổ. Do
đó, việc làm và mối liên hệ của Kuklo với công ti Medtronic được đánh giá là có
tiềm năng gây tác hại đến quân nhân và bệnh nhân.

Công ti Medtronic cho biết họ có tài trợ cho Kuklo làm nghiên cứu và có trả tiền
phí cho các buổi nói chuyện của ông, nhưng họ từ chối không cho biết số tiền đó
là bao nhiêu. Một dân biểu liên bang yêu cầu phải mở cuộc điều tra để làm sáng
tỏ vấn đề.

Scott Reuben

Trước vụ Kuklo, nước Mĩ và thế giới chứng kiến một vụ xì căng đan lớn đến nổi
giới y khoa xem đó là một Madoff trong y khoa. Đó là trường hợp của bác sĩ
Scott Reuben, một chuyên gia gây mê của Trung tâm Y khoa Baystate (bang
Illinois, Mĩ). Ông còn là một một ngôi sao “đang lên” và giữ chức giáo sư y khoa,
thuộc trường Đại học Tufts.

Nếu Kuklo là “tín đồ” của Infuse, thì Reuben là tín đồ của các thuốc như Celebrex,
Vioxx, và Bextra để giảm đau sau khi giải phẫu chỉnh hình và một vài chỉ định
khác. Ông còn cho rằng phối hợp các thuốc trên và thuốc can thiệp hệ thần kinh
(neuropathic agents) có hiệu quả cao hơn thuốc mô phỏng theo thuốc phiện
(opioids). Có người cho rằng nhờ những nghiên cứu của Reuben mà những thuốc
giảm đau như Celebrex, Vioxx có thị trường hàng tỉ đô-la mỗi năm. Cần nói thêm
rằng thuốc Vioxx đã được rút khỏi thị trường do những tác hại làm tăng nguy cơ

bệnh tim mạch, kể cả tai biến, cho bệnh nhân.

Charles B. Nemeroff

Có lẽ một trong những trường hợp quá đáng nhất là trường hợp bác sĩ Charles B.
Nemeroff, chủ nhiệm khoa tâm thần học tại Đại học Emory, là tác giả của cuốn
sách giáo khoa có ảnh hưởng trong chuyên ngành (Textbook of
Psychopharmacology). Nemeroff là chủ nhiệm đề án nghiên cứu về một số thuốc
của công ti GlaxoSmithKline (GSK) với ngân sách 3,95 USD. Ông còn là một
người hay nói chuyện cho công ti GSK, Theo luật của Mĩ và qui ước của Đại học
Emory, bất cứ giáo sư nào nhận trên 10.000 USD từ các công ti kĩ nghệ phải khai
báo. Nhưng theo một điều tra của Quốc hội Mĩ, Nemeroff không khai báo đã nhận
gần 500,000 USD mà ông thuyết giảng cho GSK.


×