Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Thông động - tĩnh mạch dễ gây suy tim ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.17 KB, 6 trang )

Thông động - tĩnh mạch dễ gây suy
tim
Thông động - tĩnh mạch là có đường lưu thông máu bất
thường giữa động mạch và tĩnh mạch không qua hệ thống
giường (mạng lưới) mao mạch. Có hai loại thông động - tĩnh
mạch: bẩm sinh và mắc phải. Bệnh rất dễ gây biến chứng suy
tim.
Làm sao biết có thông động - tĩnh mạch bẩm sinh?
Người bị thông động - tĩnh mạch bẩm sinh do phát triển bất thường
của hệ thống mạch máu từ thời kỳ bào thai và tiến triển tăng dần
sau khi trẻ được sinh ra nên họ khác với những người bình thường
là khi sinh ra, ở họ đã có các dấu hiệu rất đa dạng của bệnh: từ các
dạng giãn mạch máu nhỏ chỉ ảnh hưởng đến thẩm mỹ cho đến các
khối u máu lớn, loét, chảy máu… Siêu âm có thể xác định được vị
trí, kích thước của khối thông động - tĩnh mạch, xác định được các
đặc điểm về hình thái của đầu phía trung tâm và ngoại vi của các
mạch máu đến khối thông động - tĩnh mạch. Siêu âm Doppler có
thể xác định được vị trí, tốc độ, lưu lượng, kiểu dòng chảy…của
dòng máu trong khối thông động - tĩnh mạch. Chụp mạch máu có
thể xác định được hình thái của các đường thông, hướng các mạch
máu đến và đi. Chụp cắt lớp và chụp cộng hưởng từ xác định được
phạm vi và hình thái của các thông động - tĩnh mạch, các tổn
thương kèm theo của hệ thống cơ và xương mà chụp mạch máu
không thấy được.
Phát hiện thông động - tĩnh mạch mắc phải, cách nào?
Bạn sinh ra hoàn toàn bình thường, cho đến khi bạn bị chấn thương
và vết thương mạch máu, hay bạn phải trải qua thủ thuật ngoại
khoa trên mạch máu, sau phồng động mạch vỡ, nhiễm khuẩn…
Sau đó, bạn phát hiện thấy dấu hiệu bất thường trên cơ thể: có khối
thông động - tĩnh mạch (thường nằm trên đường đi của mạch
máu); ranh giới thường không rõ ràng. Nghe trên vùng da khối đó


thấy có tiếng thổi liên tục, mạnh lên ở thì tâm thu. Sờ có thể thấy
“rung miêu” liên tục, mạnh lên ở thì tâm thu, rõ nhất ở chính vị trí
có lỗ thông. Nếu ép lên động mạch phía trên khối bệnh lý đó thì
thấy nó nhỏ lại, tiếng thổi và rung miêu đều giảm hoặc mất. Vùng
chi phía ngoại vi thường có cảm giác dị cảm, tê, dễ bị chuột rút;
mạch đập yếu hơn so với bên chi lành; các tĩnh mạch giãn to,
ngoằn ngoèo; dấu hiệu thiểu dưỡng như: phù nề, đau, tím, lạnh,
loét da, giảm khả năng vận động Mạch nhanh thường xuyên.
Nhưng khi ấn vào khối tổn thương để làm mất tạm thời lỗ thông
động - tĩnh mạch thì thấy mạch chậm lại, nhất là khi lỗ thông động
- tĩnh mạch lớn (dấu hiệu Branham). Đôi khi có triệu chứng suy
thất trái hoặc suy tim toàn bộ.

Tổn thương thông động - tĩnh mạch tay.
Tim phải tăng nhịp đập để bù lại lượng máu đi tắt trở về tim qua
đường thông. Khối lượng máu lưu hành cũng tăng do áp lực động
mạch phía ngoại vi chỗ thông bị giảm xuống làm cho huyết tương
trong tổ chức thẩm thấu trở vào lòng mạch máu. Đó là hai yếu tố
làm tăng gánh thất trái rồi dẫn đến suy tim toàn bộ. Đường thông
càng to và càng gần tim thì suy tim càng nhanh và nặng. Tổ chức
phía ngoại vi khối phồng bị thiểu dưỡng, phù nề ngày càng nặng
do lượng máu động mạch đến bị giảm đi, đồng thời áp lực máu
tĩnh mạch tăng lên làm cản trở dòng máu trở về. Như thế là bạn đã
bị thông động mạch mắc phải.
Siêu âm thường và siêu âm Doppler, chụp cắt lớp vi tính, chụp
công hưởng từ có kết quả giống như đã nói ở trên. Đường thông
động - tĩnh mạch thường được hình thành trong quá trình tổ chức
hoá của khối máu tụ quanh động - tĩnh mạch bị tổn thương. Trong
lòng đường thông được lót bởi một lớp nội mạc phát triển từ lòng
động mạch vào. Tĩnh mạch ở vùng thông động - tĩnh mạch bị giãn

ra, các van tĩnh mạch bị suy dần. Ở đây thường xảy ra hiện tượng
“động mạch hóa tĩnh mạch”, thành tĩnh mạch dày lên do phì đại
các sợi cơ và tăng sinh các sợi chun của lớp áo trong và lớp áo
giữa, lớp nội mạc cũng dày lên do tăng sinh các sợi tạo keo. Động
mạch ở vùng thông động - tĩnh mach có hiện tượng “tĩnh mạch hóa
động mạch”, thành động mạch mỏng hơn và cong queo do các sợi
tạo keo phát triển nhưng các sợi chun và sợi cơ lại giảm đi.
Khối thông động - tĩnh mạch thường không tự khỏi mà luôn có xu
hướng phát triển kéo dài và dẫn đến các biến chứng: suy tim, lúc
đầu suy tim trái, sau đó suy tim toàn bộ; thiểu dưỡng vùng tổ chức
phía ngoại vi của khối thông, thiểu dưỡng phát triển nhanh do thiếu
máu đến nuôi dưỡng kết hợp với ứ trệ máu tĩnh mạch trở về; vỡ
khối thông phồng động - tĩnh mạch.
Điều trị ra sao?
Khi đã phát hiện khối thông động - tĩnh mạch thì cần phải mổ sớm
để phòng tránh biến chứng suy tim. Thầy thuốc có thể dùng phẫu
thuật bảo toàn dòng máu cho bạn bằng nhiều cách như sau: khâu
bịt lại lỗ thông từ phía lòng tĩnh mạch theo phương pháp Matas,
sau đó khâu phục hồi lại chỗ mở thành của tĩnh mạch; cắt đôi
đường thông và khâu lại thành bên động mạch và tĩnh mạch; cắt bỏ
đoạn động và tĩnh mạch có lỗ thông và khâu nối các mạch máu; cắt
bỏ khối thông động - tĩnh mạch và ghép mạch.
Phẫu thuật thắt mạch máu đối với trường hợp hệ thống tuần hoàn
bên phát triển tốt, đảm bảo được nuôi dưỡng cho vùng ngoại vi
khối thông động - tĩnh mạch sau phẫu thuật.
ThS. Trần Quốc An

×