MỘT SỐ VẤN ĐỀ TƯ TƯỞNG TRẦN NHÂN TÔNG
2
Ta sẽ thấy thiền phái này có ảnh hưởng mạnh mẽ song song với công cuộc Nam
tiến của dân tộc Việt Nam. Trong lịch sử thi cử Việt Nam, nó là thiền phái duy
nhất đã được đưa vào chương trình thi đình của thời Lê sơ. Cụ thể là đầu đề bài thi
đình năm Cảnh Thống Nhâm Tuất (1502), đề thi này có cả thảy 47 câu hỏi, câu
hỏi thứ 15 đã đặt ra thế này: “Điều Ngự và Huyền Quang truyền đạo gì mà được
thành Phật làm tổ?”. Lê Ích Mộc (1459 - ?) đã trả lời thế này: “Vả đem đời gần
đây mà nói, về Thượng sĩ triều Trần thì có Tiêu Diêu, Tuệ Trung, Điều Ngự,
Huyền Quang được pháp vô thượng, cho nên có thể gắn mình vào cảnh giới Di
Đà, viết Thiền tông chỉ nam. Đó là cái đạo họ truyền lại vậy. Về sau ai hiểu được
lẽ vô sinh, chứng tới thành niết bàn thì thành Phật làm tổ. Điều ấy cố nhiên là phải
thôi”. Nhờ trả lời đề thi kiểu ấy, Lê Ích Mộc đã được lấy đỗ trạng nguyên.
Tư tưởng thiền phái Trúc Lâm như vậy đã trở thành một môn học chính quy và
được các nhà vua thời Lê sơ quan tâm. Điều này nhìn từ phía mở rộng biên cương
về phía Nam của dân tộc, ta thấy hoàn toàn dễ hiểu. Thiền phái Trúc Lâm ra đời là
nhằm yểm trợ và thỏa mãn yêu cầu của chính sách Nam tiến của vua Trần Nhân
Tông. Nhưng đến thời Lê sơ với những cuộc chinh phạt liên tục về phương nam,
mà đỉnh cao là cuộc viễn chinh năm 1470, khi vua Lê Thánh Tông cắm cột mốc
phía Nam của tổ quốc trên núi Đá Bia ở Phú Yên, thì yêu cầu gia tăng dân số ngày
càng mạnh mẽ. Chính quyền Đại Việt cần đủ số dân để khai khẩn những vùng đất
mới sáp nhập và tư tưởng thiền phái Trúc Lâm thỏa mãn yêu cầu này của chính
quyền Đại Việt.
Vậy là sau chủ trương và đường lối đoàn kết dân tộc cho sự nghiệp giữ nước, thì
tư tưởng thiền phái Trúc Lâm cho sự nghiệp Nam tiến của dân tộc là một đóng góp
khác của vua Trần Nhân Tông cho lịch sử tư tưởng Việt Nam. Như ta đã thấy tư
tưởng thiền phái này bắt nguồn từ thiền phái Thảo Đường do vua Lý Thánh Tông
thành lập. Nó do thế có thể nói là một nối dài hay đúng hơn là một phát triển cao
hơn của thiền phái Thảo Đường, nếu không nói là một hóa thân của thiền phái này.
Điều đáng tiếc là toàn bộ tư liệu về thiền phái Thảo Đường ngày nay đã hoàn toàn
bị tán thất. Ta chỉ còn một bản tên duy nhất ghi lại thế thứ của dòng thiền này và
được chép vào cuối sách Thiền uyển tập anh. Vì vậy, mọi bàn cãi về hệ tư tưởng
của dòng thiền này tốt lắm thì cũng chỉ là những suy đoán, từ đó dễ đưa đến những
nhận định thiếu cơ sở, đôi khi sai lầm.
Dẫu thế, chỉ nhìn vào bản danh sách tên những thiền sư của phái thiền này từ
người đầu tiên là vua Lý Thánh Tông cho đến vị thiền sư cuối cùng là phụng ngự
Phạm Đẳng, ta thấy trong 5 thế hệ truyền thừa, thế hệ nào cũng có các cư sĩ thiền
sư hiện diện và hầu như toàn bộ đều là viên chức nhà nước, tức là vua và quan. Có
thế hệ, cư sĩ thiền sư chiếm tuyệt đại đa số. Thí dụ thế thứ 5 có 4 người thì 3 người
là vua và quan, đó là hoàng đế Lý Cao Tông, xướng nhi quản giáp Nguyễn Thức
và phụng ngự Phạm Đẳng. Vậy nhìn vào bảng danh sách này, điểm đầu tiên đập
vào mắt ta chính là sự có mặt nổi trội của các cư sĩ thiền sư. Điều này có nghĩa
dòng thiền Thảo Đường là một dòng thiền thế tục, tức dòng thiền chủ yếu phục vụ
cho những người có cuộc sống trần gian phải gánh vác.
Điểm thứ hai mà bản danh sách đó đập vào mắt ta là thành phần xã hội của những
vị thiền sư thuộc dòng thiền thế tục này. Họ chủ yếu là vua và quan. Ngoài vua ra
thì không nói như Lý Thánh Tông, Lý Anh Tông, Lý Cao Tông, những người còn
lại phần lớn được ghi rõ tên họ thế tục và chức tước trại triều đình, mà cao nhất là
chức thái phó, và thấp nhất là chức xướng nhi quản giáp, một chức do Lý Thái Tổ
thiết lập vào năm 1025. Và chính cũng thành phần xã hội này của dòng thiền Thảo
Đường đã làm cho nó phải hóa thân thành thiền phái Trúc Lâm, bởi vì không lẽ
nào một dòng thiền Phật giáo lại chỉ dành riêng cho một giai tầng xã hội. Có lẽ
đây là điểm hạn chế đã làm dòng thiền thế tục Thảo Đường mất đi tính hấp dẫn
của nó đối với quảng đại quần chúng. Khi tách ra khỏi bộ phận quảng đại quần
chúng này, dòng thiền Thảo Đường chắc không thể nào tồn tại, mà phải hoá thân
vào một dòng thiền mới.
Dòng thiền mới này là Trúc Lâm Yên Tử.
Ta đã nói dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử có cội nguồn từ dòng thiền Thảo Đường.
Nhưng để hình thành, dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử phải thu nhận không chỉ tinh
hoa của quá khứ, mà còn tổng hợp được những cống hiến của thời đại mình. Ở
trên, tại buổi giảng vào ngày mồng 9 tháng giêng nhuận năm Bính Ngọ (1306) vua
Trần Nhân Tông đã cám ơn Vô Nhị Thượng Nhân và Tuệ Trung đại sĩ, là “ơn mưa
pháp đã thấm tới cho cháu con được tắm gội”. Vô Nhị Thượng Nhân không ai
khác hơn là vua Trần Thánh Tông như Thánh đăng ngữ lục cho ta biết. Còn Tuệ
Trung đại sĩ thì chính là Tuệ Trung Trần Quốc Tung, người đã ấn chứng cho vua
Trần Nhân Tông trong sự giác ngộ thiền, như chính vua đã ghi lại trong Thượng sĩ
hành trạng.
Vua Trần Thánh Tông là người đã sinh thành vua Trần Nhân Tông, như vậy chắc
chắn có một ảnh hưởng quyết định đối với sự hình thành và phát triển của tư tưởng
Trần Nhân Tông. Thế thì, tư tưởng vua Trần Thánh Tông là gì. Một lần nữa, các
tác phẩm của vua Trần Thánh Tông như Văn tập, Thiền tông liễu ngộ ca, Chí giá
minh, Phóng ngư và Cừu tập ngày nay đã tán thất hết. Tuy nhiên, căn cứ một số
bài thơ và đoạn văn còn lại tới ngày nay trong các tác phẩm như Thánh đăng ngữ
lục, Việt âm thi tập, Toàn Việt thi lục , ta có thể rút ra một số nhận định về tư
tưởng Trần Thánh Tông như sau.
Thứ nhất, trong thơ văn Trần Thánh Tông thường xuất hiện tư tưởng thiền của Lý
Cao. Chẳng hạn bài thơ đầu tiên do Thánh đăng ngữ lục tờ 12a8 - b3 chép lại của
vua Trần Thánh Tông đọc thế này:
Bốn chục năm hơn một tấm lòng
Muôn trùng cửa ngục vượt ra xong
Động như hang trống gào vang gió
Tĩnh tựa hồ yên trăng sáng trong
Câu nọ năm huyền mình hiểu hết
Đường kia mười chữ mặc xáo xông
Có người hỏi tớ tin gì mới
Mây tại trời xanh nước ở thùng.
Câu cuối nguyên văn chữ Hán là:
Vân tại thanh thiên, thủy tại bình.
Câu này nguyên nằm trong bài tứ tuyệt do Lý Cao (772 - 841) viết để tặng cho
thiền sư Dược Sơn Duy Nghiễm (751 - 834):
Luyện đắc thân hình tợ hạc hình,
Thiên chu tùng hạ lưỡng hàm kinh.
Ngã lai vấn đạo vô dư thuyết,
Vân tại thanh thiên, thủy tại bình.
Điều này chứng tỏ Trần Thánh Tông rất tâm đắc với những gì Lý Cao thể hiện
trong thơ văn mình. Với nhân vật Lý Cao này, tuy là một Phật tử, đã có những bài
điều trần lên án việc độ tăng và làm chùa to đúc Phật lớn, cho rằng những việc làm
đó chẳng có công đức gì mà chỉ là những việc làm hút máu mỡ của dân. Đối với
việc độ tăng, Lý Cao cho rằng: “Những môn đồ đạo Phật không chăn tằm mà quần
áo đầy đủ, không cày bừa mà ăn uống sung túc, ngồi rỗi mà kẻ phục dịch có đến
mấy nghìn trăm vạn người. Suy ra đủ biết tất có bao nhiêu người đói rét”. Đối với
việc làm chùa, đúc tượng, ông lý luận những việc làm ấy tốn kém hơn xây dựng
cung A phòng và đặt vấn đề: “Đó há chẳng phải đều lấy từ nhân tài vật lực của
trăm họ mà ra đó sao?”. Ta sẽ thấy những từ vừa nêu đã xuất hiện trong nhận xét
của Lê Văn Hưu (1230 - ?) về việc làm chùa và độ tăng của Lý Thái Tổ do Ngô Sĩ
Liên ghi lại trong ĐVSKTT 2 tờ 3b5 -4a5.
Lê Văn Hưu đã nói thế này: “Lý Thái Tổ lên ngôi vua mới được 2 năm, tông miếu
chưa dựng, xã tắc chưa xây, mà trước đã dựng 8 chùa ở phủ Thiên Đức, lại trùng
tu chùa quán ở các lộ, độ cho hơn 1000 người ở kinh đô làm sư, thì việc tiêu phí
sức lực của cải không thể kể xiết. Của không phải do trời mưa xuống, sức chẳng
phải của thần làm cho, há chẳng phải là khơi vét máu mỡ của dân ư ? Khơi vét
máu mỡ của dân mà có thể gọi là làm phước được ư? Vị chúa sáng nghiệp tự mình
cần kiệm, còn sợ con cháu ngày sau xa xỉ lười nhác. Thế mà Thái Tổ để phép lại
như vậy, trách gì con cháu đời sau chẳng xây tháp cao ngất trời, dựng cột chùa
bằng đá chạm, chùa Phật lộng lẫy hơn cả cung vua.
Đám dưới học theo, đến nỗi có kẻ hủy hoại thân thể, thay đổi y phục, bỏ cảử sản
nghiệp, trốn cả bà con, trăm họ quá nửa là sư, trong nước đến đâu cũng có chùa,
nguồn gốc há chẳng phải từ đó mà ra sao?”.
Đọc lời vừa bình luận của Lê Văn Hưu, người ta thường có ấn tượng đây là một
lời phê phán Phật giáo và đặc biệt là Phật giáo nhà Lý, đứng trên quan điểm Nho
giáo. Và trên thực tế hầu hết sách vở viết về Lê Văn Hưu đều có một nhận định
chung như thế. Nhưng đó là một nhận định hoàn toàn sai lầm do không nghiên cứu
đầy đủ hệ tư tưởng Phật giáo đời Trần. Nếu ai đã đọc tác phẩm của Lý Cao thì sẽ
thấy ngay không chỉ tư tưởng mà ngay cả văn cú Lê Văn Hưu dùng trong lời bình
luận vừa nêu, đã rút ra từ tác phẩm của Lý Cao. Vậy trong thời Trần, ít lắm là có
hai tác giả ở nước ta đã chịu ảnh hưởng sâu đậm hệ tư tưởng Phật giáo của Lý
Cao, đó là vua Trần Thánh Tông và Lê Văn Hưu. Đấy là chưa kể ảnh hưởng của
Lý Cao đối với thơ của thiền sư Không Lộ (? - 1119) thường biết dưới bài Ngôn
hoài.
Ta phải thấy Lê Văn Hưu viết bộ Đại Việt sử ký theo lệnh và dưới sự chỉ đạo của
vua Trần Thánh Tông, như ĐVSKTT 5 tờ 33a8-b1 đã ghi: “Mùa xuân tháng giêng
năm Nhâm Thân (1272) Hàn lâm viện học sĩ kiêm Quốc sử viện giám tu Lê Văn
Hưu vâng lệnh viết xong Đại Việt sử ký từ Triệu Vũ Đế đến Lý Chiêu Hoàng gồm
30 quyển, dâng lên, vua xuống chiếu khen thưởng”.Đại Việt sử ký như thế là một
bộ sử chính thức của nhà nước Đại Việt, cụ thể là nhà nước do vua Trần Thánh
Tông lãnh đạo, tất nhiên phải phản ảnh quan điểm và lập trường viết sử của nhà
nước này. Vì vậy ta không có gì ngạc nhiên khi tư tưởng và văn cú của Lý Cao đã
xuất hiện trong thơ văn của Trần Thánh Tông và Lê Văn Hưu.
Dĩ nhiên vấn đề làm chùa và độ người cho đi tu không phải đến thời Trần Thánh
Tông mới trở thành một vấn đề nổi cộm cần xử lý. Ngay từ cuối thời Lý, vào
những năm đầu của thế kỷ thứ 13, Đàm Dĩ Mống đã đề nghị sa thải tăng đồ với lời
lẽ hết sức thô bạo, mà Đại Việt sử lược 3 tờ 13a10-b2 đã ghi lại: “Nay Tăng đồ
cùng với dịch phu quá nửa, bọn chúng tự kết bè đảng, dựng bậy thầy trò, tụ nhóm,
ở bầy, làm nhiều việc dơ, hoặc ở giới trường tinh xá, ngang nhiên rượu thịt, hoặc
tại thiền phòng tịnh viện, riêng tự gian dâm, ngày ẩn tối ra, như đàn cáo chuột.
Chúng làm nát tục hư đạo, dần dần thành thói. Việc đó nếu không cấm, để lâu
càng tệ thêm”.