Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Globulin Miễn Dịch Tiêm Bắp docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.41 KB, 14 trang )

Globulin Miễn Dịch Tiêm Bắp


Tên chung quốc tế: Immune globulin IM. Mã ATC:J06B A01.
Loại thuốc: Thuốc gây miễn dịch thụ động.
Dạng thuốc và hàm lượng
Globulin miễn dịch tiêm bắp là dung dịch vô khuẩn, không chứa chí nhiệt tố,
gồm các globulin chứa nhiều loại kháng thể, có mặt bình thường trong máu
người trưởng thành.
Chế phẩm globulin miễn dịch có trên thị trường dùng tiêm bắp được gọi là
immune globulin IM (IGIM).
IGIM chứa 15 - 18% protein, trong đó immunoglobulin G (IgG, gamma
globulin) chiếm không dưới 90%. IGIM là dung dịch trong suốt hoặc hơi
đục, hầu như không mùi và không màu hoặc có thể có màu nâu nhạt do sự
có mặt của hemoglobin biến tính. IGIM được điều chỉnh tới pH 6,4 - 7,2
bằng natri carbonat, natri bicarbonat, và/hoặc đệm natri acetat acid acetic.
IGIM cũng còn chứa glycin như một tác nhân ổn định và thimerosal là chất
bảo quản (0,3 M glycin và 100 microgam/ml thimerosal).
Dược lý và cơ chế tác dụng
IGIM được dùng để tạo miễn dịch thụ động nhờ sự gia tăng hiệu giá kháng
thể và khả năng phản ứng kháng nguyên - kháng thể. Các kháng thể IgG có
trong IGIM có tác dụng phòng bệnh hoặc làm thay đổi một số bệnh nhiễm
khuẩn ở những người dễ mắc.
Sau khi tiêm bắp IGIM, nồng độ IgG huyết thanh đạt đỉnh trong vòng 2
ngày. IgG có trong IGIM được phân bố nhanh và ngang nhau giữa các khu
vực trong và ngoài mạch máu. Nửa đời của IgG ở những người có hàm
lượng IgG bình thường khoảng 23 ngày.
Chỉ định
Globulin miễn dịch tiêm bắp (IGIM) được dùng để tạo miễn dịch thụ động
cho những đối tượng nhạy cảm bị phơi nhiễm đối với một số bệnh nhiễm
khuẩn khi chưa có sẵn vaccin để gây miễn dịch chủ động đối với các bệnh


đó, hoặc khi người dễ mắc bệnh bị dị ứng đối với một thành phần nào đó
trong vaccin, hoặc khi không có đủ thời gian để kích thích hình thành kháng
thể tạo miễn dịch chủ động cho đối tượng. Còn dùng IGIM để điều trị thay
thế trong suy giảm khả năng sinh tổng hợp kháng thể.
Ðối với nhiễm virus viêm gan A IGIM được dùng để tạo miễn dịch thụ động
cho người dễ mắc bị phơi nhiễm với virus viêm gan A. Trước đây, cách lựa
chọn duy nhất để phòng virus viêm gan A cho những trường hợp trước hoặc
sau phơi nhiễm là gây miễn dịch thụ động bằng globulin miễn dịch. Mặc dầu
globulin miễn dịch vẫn còn là một tác nhân lựa chọn để phòng bệnh sau phơi
nhiễm nhằm bảo vệ ngắn hạn sau phơi nhiễm với virus viêm gan A, nhưng
việc gây miễn dịch chủ động bằng vaccin virus viêm gan A loại bất hoạt tạo
ra kết quả bảo vệ lâu dài hơn, do đó đã được khuyến cáo dùng cho những
người có nguy cơ cao để phòng bệnh trước phơi nhiễm. Việc phối hợp tạo
miễn dịch thụ động bằng IGIM cùng với tạo miễn dịch chủ động bằng
vaccin bất hoạt có thể được dùng cho những người mới bị phơi nhiễm với
virus viêm gan A nhằm mục đích bảo vệ lâu dài.
Ðối với bệnh sởi
IGIM được dùng để phòng bệnh hoặc làm thay đổi các triệu chứng của bệnh
sởi cho những đối tượng dễ mắc bị phơi nhiễm với tác nhân gây bệnh trước
đó dưới 6 ngày. Có thể dùng IGIM để phòng bệnh cho trẻ em chưa được
miễn dịch (hay người lớn chưa có miễn dịch, tức là chưa có kháng thể chống
sởi); dùng IGIM càng sớm càng tốt sau khi có tiếp xúc với người bị sởi.
Cũng dùng IGIM cho trẻ em dưới 12 tháng tuổi mới mắc bệnh nặng với mục
đích phòng tránh bệnh sởi; sau đó dùng vaccin virus sởi, quai bị, rubella
(MMR) sống (ít nhất sau 3 tháng), ở lứa tuổi thường dùng.
Miễn dịch thụ động đối với sởi sau khi tiêm IGIM thường tồn tại khoảng 3 -
4 tuần lễ, còn miễn dịch chủ động bằng vaccin virus sởi sống cần được bắt
đầu 3 tháng sau khi tiêm IGIM, miễn là trẻ ít nhất được 15 tháng tuổi và
không có chống chỉ định dùng vaccin. Không dùng IGIM đồng thời với
vaccin virus sởi sống.

Ðối với bệnh rubella
Mặc dù các biểu hiện lâm sàng của rubella ở người mang thai có giảm thiểu
do được gây miễn dịch thụ động sau phơi nhiễm bằng globulin miễn dịch,
cách tiếp cận này có thể không ngăn ngừa được nhiễm virus trong máu
người mẹ, nhiễm virus ở thai, và hội chứng rubella bẩm sinh (với những dấu
hiệu kinh điển như đục thủy tinh thể, bệnh tim, điếc hoặc các khuyết tật
khác). Vì vậy, globulin miễn dịch chỉ được khuyến cáo dùng cho những phụ
nữ mắc rubella trong khi mang thai mà không muốn phá thai trong bất cứ
hoàn cảnh nào.
Ðối với các bệnh suy giảm miễn dịch tiên phát
IGIM được dùng như liệu pháp thay thế trong điều trị dự phòng nhiễm
khuẩn cho những người bị mắc các bệnh thiếu hụt IgG và các kháng thể
khác (như không có gamma globulin huyết, giảm gamma globulin huyết, rối
loạn gamma globulin huyết). IGIM không nên dùng cho những đối tượng
thiếu hụt IgA chọn lọc.
IGIM có thể phòng các bệnh nhiễm khuẩn nặng cho những người mắc các
bệnh suy giảm globulin miễn dịch nếu như hàm lượng IgG trong huyết thanh
có thể duy trì ở mức trên 200 mg/dL. IGIM không có tác dụng phòng các
nhiễm khuẩn mạn tính ở các mô ngoại tiết như đường hô hấp và tiêu hóa.
Ðiều trị dự phòng bằng IGIM, đặc biệt là nhằm chống lại các nhiễm khuẩn
do các vi khuẩn có vỏ (nang hóa) gây ra, thường có hiệu quả trong bệnh
không có gamma globulin huyết bẩm sinh liên quan đến giới tính typ
Bruton, không có gamma globulin huyết liên quan đến u tuyến ức, và không
có gamma globulin huyết dạng mắc phải.
Các sử dụng khác
Không được dùng IGIM một cách thường quy để dự phòng hoặc điều trị
quai bị hoặc bệnh bại liệt. IGIM đã được dùng để phòng nhiễm khuẩn cho
người bệnh bị bỏng và để điều trị bệnh hen hoặc các bệnh dị ứng; tuy nhiên,
hiệu quả của IGIM trong các trường hợp này còn chưa được xác định, và do
đó việc dùng IGIM cho các mục đích nói trên hiện không được khuyến nghị.

Chống chỉ định
Chống chỉ định dùng IGIM cho người đã có các phản ứng phản vệ hoặc
phản ứng toàn thân nặng đối với globulin miễn dịch hay với bất kỳ thành
phần nào có trong chế phẩm. Cần sẵn có adrenalin để xử trí ngay phản ứng
phản vệ nếu xảy ra.
Chống chỉ định IGIM cho những người bị thiếu hụt IgA chọn lọc, vì những
người này có thể có kháng thể kháng IgA và phản ứng phản vệ có thể xảy ra
sau khi tiêm IGIM hoặc các sản phẩm khác được điều chế từ máu có chứa
IgA.
Thận trọng
Cần dùng IGIM thật thận trọng cho người bị chứng giảm tiểu cầu nặng hoặc
bất cứ một rối loạn đông máu nào, vì xuất huyết có thể xảy ra sau khi tiêm
thuốc vào bắp thịt. Các dữ liệu dịch tễ học và xét nghiệm chỉ ra rằng, các chế
phẩm IGIM hiện có không gây một nguy cơ nào lan truyền virus gây ra bệnh
suy giảm miễn dịch ở người (HIV). Cùng với việc sàng lọc tất cả các mẫu
máu của người cho để phát hiện kháng thể kháng HIV và loại bỏ tất cả
những mẫu có phản ứng dương tính, quy trình sản xuất IGIM bao gồm các
bước thanh lọc nhằm có được một hành lang an toàn cực kỳ cao để loại trừ
mọi lây nhiễm.
Thời kỳ mang thai
Nói chung mang thai không coi là một chống chỉ định dùng globulin miễn
dịch. Tuy nhiên, các nghiên cứu về sự sinh sản ở động vật chưa được thực
hiện đối với IGIM. Hiện còn chưa rõ liệu IGIM có gây hại cho thai khi dùng
cho người mang thai hay không. Do đó chỉ dùng IGIM trong thời kỳ thai
nghén khi thật cần.
Thời kỳ cho con bú
Hiện còn chưa rõ liệu IGIM có được phân bố vào trong sữa mẹ hay không.
Tuy nhiên, vẫn chưa có dữ liệu nghiên cứu nào ở người.
Tác dụng không mong muốn (ADR)
Ðau, nhậy cảm đau và căng cứng cơ có thể xảy ra tại vị trí tiêm bắp và tồn

tại một số giờ sau khi tiêm IGIM. Viêm tại chỗ, nổi mày đay và phù mạch
đôi khi xảy ra; nhức đầu, khó chịu và hội chứng thận hư cũng đã được thông
báo.
Các lần tiêm nhắc lại IGIM, đặc biệt là ở những người dị ứng có thể gây
mẫn cảm thường biểu hiện như sốt, ớn lạnh và đổ mồ hôi. Các phản ứng tại
chỗ và toàn thân nặng, kể cả sốc phản vệ ở người bệnh tăng mẫn cảm đối với
IGIM cũng đã được thông báo. Nếu vô ý tiêm IGIM vào tĩnh mạch có thể
dẫn đến những phản ứng tăng mẫn cảm nghiêm trọng. Các phản ứng toàn
thân và sốc phản vệ sau khi tiêm IGIM có thể là do tạo thành các kết tụ IgG
và gây ra sự hoạt hóa bổ thể.
Liều lượng và cách dùng Pha chế và tiêm
Globulin miễn dịch tiêm bắp (IGIM) không được tiêm dưới da, trong da
hoặc tiêm tĩnh mạch. Mặc dầu IGIM đã từng được tiêm truyền dưới da với
tốc độ chậm để điều trị thay thế ở những người bị các bệnh thiếu hụt IgG
hoặc các kháng thể khác, cần có những nghiên cứu tiếp theo để đánh giá độ
an toàn và hiệu quả của cách tiêm này.
Ở người lớn và trẻ em, tiêm IGIM vào bắp thịt tốt nhất là vùng cơ đelta hoặc
vào mặt trước - bên của đùi. Vì nguy cơ tổn thương các dây thần kinh tọa, do
đó chỉ tiêm mông khi cần, tiêm một khối lượng lớn cho người trưởng thành
hoặc khi cần chia thuốc ra thành nhiều liều nhỏ để tiêm ở nhiều vị trí. Ðối
với trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, tốt hơn hết là nên tiêm IGIM vào mặt trước bên
của đùi.
Khi liều tiêm IGIM lớn hơn 10 ml thì cần phải chia ra thành nhiều liều nhỏ
để tiêm vào nhiều vị trí bắp thịt khác nhau nhằm làm giảm đau tại chỗ và bớt
khó chịu. Tổng liều một lần tiêm bắp thịt không được vượt quá 20 ml (ngay
cả đối với người lớn).
Trước khi tiêm cần kiểm tra bằng mắt để phát hiện các hạt nhỏ và sự đổi
màu của dung dịch thuốc. Cần rút nhẹ piston của bơm tiêm ra một chút để
đảm bảo rằng kim tiêm không xuyên vào mạch máu. Nếu có máu hay bất cứ
sự đổi màu bất thường nào xuất hiện trong bơm tiêm thì nên rút kim tiêm ra

và hủy bỏ bơm tiêm đó. Một liều mới của IGIM được tiêm vào một vị trí
khác, dùng một bơm tiêm và kim tiêm mới. Ðể đề phòng việc lây truyền
virus viêm gan và các tác nhân nhiễm khuẩn khác từ người này sang người
khác, mỗi người được tiêm IGIM cần được dùng cho riêng mình một bơm
tiêm và kim tiêm vô khuẩn. Liều lượng
Trường hợp nhiễm virus viêm gan A
Liều thông thường của IGIM với mục đích phòng bệnh sau phơi nhiễm cho
những đối tượng phơi nhiễm với virus viêm gan A là 0,02 ml/kg, liều duy
nhất được tiêm càng sớm càng tốt sau khi bị phơi nhiễm. Sau khi đã bị phơi
nhiễm trên 2 tuần lễ thì không nên dùng IGIM. Nếu kết hợp cả việc tạo miễn
dịch chủ động và thụ động để phòng bệnh sau phơi nhiễm, nhằm đảm bảo có
miễn dịch bảo vệ lâu dài, thì liều đầu tiên vaccin virus viêm gan A loại bất
hoạt có thể tiêm đồng thời với IGIM nhưng ở vị trí tiêm khác và dùng bơm
kim tiêm khác. Khi dùng IGIM với mục đích phòng bệnh trước phơi nhiễm
cho những du khách đi đến những vùng có nguy cơ cao lây nhiễm virus
viêm gan A, nếu thời gian phơi nhiễm dưới 3 tháng thì dùng một liều duy
nhất IGIM là 0,02 ml/kg, nếu thời gian phơi nhiễm là 3 tháng hoặc lâu hơn,
liều thông thường là 0,06 ml/kg, cứ 4 - 6 tháng tiêm một lần.
Trường hợp sởi
Liều IGIM thông thường với mục đích phòng bệnh sau phơi nhiễm đối với
bệnh sởi cho những đối tượng dễ mắc là 0,25 ml/kg (liều tối đa là 15 ml),
liều duy nhất tiêm trong vòng 6 ngày sau khi phơi nhiễm; sau đó gây miễn
dịch chủ động bằng vaccin virus sởi sống cần được bắt đầu 3 tháng sau khi
tiêm IGIM cho những đối tượng đã 15 tháng tuổi trở lên, trừ khi chống chỉ
định dùng vaccin. Nếu người bị phơi nhiễm đó có tiền sử rõ rệt hoặc nghi
ngờ là bị bệnh bạch cầu, u limphô, các u ác tính đã phát triển toàn thân hoặc
một bệnh suy giảm miễn dịch hay đang được điều trị bằng các thuốc
corticoid hay các thuốc ức chế miễn dịch (thí dụ các thuốc kháng chuyển
hóa, các thuốc alkyl hóa, xạ trị), thì liều IGIM thường dùng để phòng sau
phơi nhiễm bệnh sởi là 0,5 ml/kg (liều tối đa là 15 ml), tiêm liều duy nhất.

Những người dùng IGIM với mục đích điều trị thay thế thì không cần phòng
bệnh sởi bổ sung bằng IGIM, nếu như bị phơi nhiễm sởi.
Trường hợp rubella
Liều IGIM thường dùng để dự phòng sau phơi nhiễm với rubella cho những
người mang thai đã tiếp xúc với bệnh mà không muốn phá thai trị bệnh là
0,55 ml/kg, tiêm liều duy nhất.
Các bệnh suy giảm miễn dịch
Bằng biện pháp thay thế để dự phòng nhiễm khuẩn cho những người bị các
bệnh thiếu hụt IgG và các kháng thể khác, liều IGIM khởi đầu là 1,2 ml/kg.
Sau đó dùng liều duy trì 0,6 ml/kg (ít nhất là 100 mg/kg) cách 2 - 4 tuần tiêm
1 lần; một vài người có thể cần phải tiêm nhiều lần hơn (khoảng cách thời
gian ngắn hơn). Liều duy nhất tối đa là 30 - 50 ml cho người lớn và 20 - 30
ml cho trẻ em và trẻ nhỏ.
Tương tác thuốc
Với vaccin virus viêm gan A
Có thể tiêm đồng thời vaccin virus viêm gan A loại bất hoạt với globulin
miễn dịch, nhưng ở các vị trí tiêm khác nhau và dùng bơm kim tiêm khác
biệt. Kháng thể kháng virus viêm gan A (anti HAV) thu được thụ động từ
nguồn globulin miễn dịch có thể làm giảm đáp ứng miễn dịch chủ động do
vaccin virus viêm gan A loại bất hoạt tạo ra. Tuy nhiên, do hiệu giá kháng
thể kháng virus viêm gan A của vaccin nói chung lớn hơn nhiều so với các
mức kháng thể được coi là có tác dụng bảo vệ, nên khả năng giảm tính miễn
dịch chủ động vì sự có mặt của lượng kháng thể thụ động này không có ý
nghĩa lâm sàng quan trọng.
Với các vaccin khác
Các kháng thể có trong globulin miễn dịch có thể ảnh hưởng tới đáp ứng
miễn dịch của một vài loại vaccin virus sống (chẳng hạn như vaccin virus
sởi sống, vaccin virus quai bị sống, vaccin virus rubella sống). Trước đây
người ta cho rằng các vaccin virus sống này có thể tiêm sớm từ 6 tuần đến 3
tháng sau khi dùng các chế phẩm globulin miễn dịch; tuy nhiên, lời khuyên

này dựa trên số liệu từ những người dùng các liều thấp globulin miễn dịch.
Bằng chứng gần đây cho thấy các liều cao globulin miễn dịch có thể ức chế
đáp ứng miễn dịch đối với vaccin sởi sống trong thời gian hơn 3 tháng. Thời
gian ảnh hưởng đáp ứng miễn dịch của các vaccin sởi, quai bị, và/hoặc
rubella chưa được xác định đầy đủ. Tuy nhiên, dựa trên các số liệu thu được
có thể đánh giá được nửa đời sinh học của lượng kháng thể thụ động thu
được là vào khoảng 30 ngày, nên đã có những khuyến cáo sau đây:
Việc tiêm các loại vaccin chứa virus sởi sống cần được hoãn ít nhất là 3
tháng sau khi tiêm IGIM với mục đích phòng virus viêm gan A trước và sau
phơi nhiễm; hoãn ít nhất 5 tháng sau khi tiêm IGIM để phòng bệnh sởi cho
những người có tình trạng miễn dịch bình thường; hoãn ít nhất 6 tháng sau
khi tiêm IGIM để phòng bệnh sởi cho những người bị suy giảm miễn dịch.
Nếu xét cần phải sử dụng đồng thời một vaccin chứa virus sởi sống và
globulin miễn dịch (do sắp phơi nhiễm với bệnh), thì cần tính đến sự giảm
năng lực miễn dịch của vaccin. Vaccin virus sống cần được tiêm ở một vị trí
khác biệt, cách xa vị trí tiêm globulin miễn dịch và một liều vaccin bổ sung
cần được tiêm sau một thời gian xác định, trừ khi có bằng chứng huyết thanh
học là đã có đáp ứng kháng thể đầy đủ với vaccin sống. Việc tái chủng, có
thể là cần thiết, cho những người đã được tiêm globulin miễn dịch một thời
gian ngắn sau khi dùng một loại vaccin chứa virus sởi sống cũng cần được
tính đến. Nhìn chung, sự sao chép của virus trong vaccin và sự kích thích
miễn dịch xảy ra trong vòng 7 - 14 ngày sau khi tiêm vaccin virus sống. Bởi
vậy, nếu như khoảng cách giữa lần tiêm một vaccin virus sởi, quai bị,
và/hoặc rubella và tiếp sau đó là tiêm globulin miễn dịch dưới 14 ngày thì
một liều vaccin bổ sung cần được thực hiện sau một thời khoảng thích hợp
được quy định từ trước, trừ phi thử nghiệm huyết thanh học cho thấy đã có
đáp ứng miễn dịch đầy đủ với vaccin. Nhìn chung, không cần thiết một liều
vaccin bổ sung nếu như thời khoảng giữa các lần tiêm vaccin và globulin
miễn dịch vượt quá 2 tuần lễ.
Globulin miễn dịch hình như không ảnh hưởng đến đáp ứng miễn dịch đối

với vaccin virus bại liệt sống uống (OPV), vaccin sốt vàng, vaccin thương
hàn uống (Ty21a).
Globulin miễn dịch hình như không ảnh hưởng đến đáp ứng miễn dịch ở trẻ
em, đối với vaccin bạch hầu - uốn ván - ho gà hấp phụ (DTP).
Ðộ ổn định và bảo quản
IGIM cần được bảo quản ở nhiệt độ lạnh từ 2 - 8
0
C và không được để đông
băng. Thời hạn dùng của IGIM không được quá 3 năm kể từ ngày xuất khỏi
kho lạnh (5
0
C) của nhà sản xuất.
Thông tin qui chế
Thuốc phải được kê đơn và bán theo đơn.

×