Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Nguyên nhân của khủng hoảng tài chính năm 2008, nêu diễn biến và tác động tới thị trường chứng khoán việt nam pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.81 KB, 28 trang )

NHẬN XÉT:
- VỀ TRÌNH BÀY:
o Hùng
o Hạnh
- VỀ HÌNH THỨC:
o Bản word trình bày k tốt
o Bản silde “cắt chữ”
- CÂU HỎI:
o Sự logic của bài trình bày? Đâu là mục đích nghiên cứu? Hệ
thống giải pháp??? Thu đc kết quả???
o TT Mỹ “ra lệnh” FED hạ lãi suất ???
o Đánh giá sức mạnh của đồng USD và các đồng tiền khác?
o KH tác động đến VN?
o Gói cứu trợ của CP Mỹ có hiệu quả k? Thực hiện đc mđích
đề ra k?
o So sánh KH 2008 và KH 29-33
o Nguyên nhân sâu sa của KH
o So sánh KH-Suy thoái?
o Nhóm có thể gọi đâu là cuộc KHKT hay KHTC
o KH có mang tính chu kỳ k? Nếu mang tính chu kỳ thì có
ngăn chặn đc k?
o Quang: FED k cứu LB
o Xuân: Các NH đem bảo hiểm 80% giá trị của các khoản nợ
thế chấp?
o Chi: KHTC tác động đến TTTC Mỹ nền TTCK VN
o Nhung: Thống kê số lượng NH lớn bị sụp đổ. Đánh giá sự
quản lý của FED?
o Trung: TQ rút tiền cho Mỹ vay? G.thích rõ hơn về cho vay
dưới chuẩn? Tập đoàn…
- ƯU ĐIỂM:
o So sánh NHTM và NHĐT


o “Thuộc bài trbày”
o Phân tích sâu về tác động của KH đến TTCKVN
o
Bài thuyết trình thị trường chứng khoán đề tài :
tìm hiểu nguyên nhân của khủng hoảng tài chính năm 2008, nêu diễn
biến và tác động tới thị trường chứng khoán việt nam
Nhóm 1 : gồm các thành viên
1. Đồng Đức Hạnh ( trưởng nhóm )
2. Trần Mạnh Hùng
3. Lê Hồng Chiến
4. Nguyễn Thị Liên
5. Đoàn Thị Phương
6. Ly Giờ Gụ
7. Diễm Hương
8. Hương Giang
9. Nọi ( sv lào )
10.Bụi ( sv Lào )
Phần 1 : nguyên nhân khủng hoảng ( bài thuyết trình của em
khá dài , trong bản này e chỉ tóm tắt ý chính thôi ạ ^^ )
I, cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008
Khu wall street đã hoàn toàn sụp đổ trong 1 tuần lễ , kể từ ngày 15/9/2008
, với sự phá sản của ngân hàng đầu tư lehman brothers
Nguyên nhân
Chính sách phi điều tiết các hoạt động đầu tư của ngành ngân hàng
Chính sách lãi suất thấp trong một thời gian quá lâu của cục dự trữ liên
bang Mỹ (FED).
Các công cụ tài chính trực tiếp gây ra
Món nợ thế chấp bất động sản dưới chuẩn
Các công cụ tài chính phái sinh (vd CDO, CDS)
Ngoài ra còn do hiệu ứng đòn bẩy

II, nợ thế chấp bất động sản
Đạo luật về nhà ở : một cá nhân hay một công ty muốn mua một bất động
sản , thì phải trả ngay tiền mặt trị giá khoảng 10% đến 25% trị giá nhà,
phần còn lại ngân hàng có thể cho vay , với điều kiên căn nhà đó được thế
chấp để bảo lãnh khoản tiền nợ => nợ thế chấp bất động sản
Trong 20 năm trở lại đây , FED đã hạ lãi suất từ 4%-5% xuống còn 1%-
2% => dễ mượn tiền để đầu tư , mua bất động sản => giá nhà tăng=>
nhiều người thế chấp nhà vay tiền. Ngân hàng ưu đãi cho khách hàng , thậm
chí có những khoản nợ dưới chuẩn ( người vay nợ không đủ tiêu chuẩn đi
vay nợ)
Như vậy nếu có nhiều người không có khả năng chi trả thì ngân hàng sẽ
tịch thu nhà, nhưng chưa thể bán ngay ngay trên thi trường => tính thanh
khoản kém , thiếu hụt tiền mặt trầm trọng
Điều đó khiến các tổ chức tài chính bảo hiểm cho các ngân hàng này cũng
bị thiếu tiền mặt => phá sản=> một loạt các ngân hàng cũng phá sản
III, nằm trong mắt bão
Những năm gần đây ,động cơ của nền sản xuất nước Mỹ không còn là sản
xuất mà là tiêu thụ
Tiêu dùng được khuyến khích=> đẩy người dân tới chỗ siêu nợ, hủy hoại sự
tiết kiệm
Vấn đề được đặt ra : vào lúc tín dụng đóng băng , sự lạm dụng tín dụng
đã nhấn chìm người dân vào cuộc khủng hoảng xấu nhất trong 100 năm qua
, liệu có thể khuyến khích người dân tiếp tục mua hang vì ủng hộ sự phát
triển kinh tế không
Nếu muốn bớt nợ, trong khi không tăng thêm lợi tức thì các gia đình phải
giảm chi tiêu => ảnh hưởng tai hại đến ngành bán lẻ
IV, CDS: con quái vật ăn thịt Wall street
JP Morgan đã sáng tạo ra một công cụ tài chính mới CDS ( tín phiếu trao
đổi món nợ xấu ) : là hình thức bảo hiểm, một đơn vị thứ ba phải nhận lãnh
rủi ro cho những món nợ trở nên xấu , và đổi lại , đơn vị này sẽ được nhận

một khoản tiền đều đặn của ngân hàng , tương tự như khoản chi phí bảo
hiểm.
CDS được kí kết thầm lặng giữa hai bên , không qua sự quản lý nào của
nhà nước , cho nên không có cơ chế trung gian nào để xác định được giá trị
của chúng .chúng làm thị trường chứng khoán trở nên u tối .
Trước kia CDS đã được sử dụng để khuyến khích các nhà đầu tư đi vào
các thị trường đầy rủi ro ( Nam Mỹ và Nga ) bằng cách bảo hiểm các khoản
nợ của các nước đang phát triển . Sau này , sau sự sụp đổ của công ty lớn
như Enron và World Com , người ta nhận thấy CDS là công cụ hữu hiệu để
bảo vệ các công ty khỏi sự phá sản .
Trong thời kì giá đất lên , chứng khoán thế chấp bất động sản trở thành
một loại đầu tư mới rất nóng . Ngay sau đó , các công ty giống như AIG trở
thành không chỉ là công ty bảo hiểm , mà còn phân phối CDS để bảo hiểm
tiền thế chấp bất động sản . Lỗi của AIG là áp dụng biện pháp bảo hiểm cổ
truyền vào thị trường CDS.
Vấn đề trầm trọng thêm vì có quá nhiều định chế cùng dính vào một dịch
vụ. và khi tín phiếu có thế chấp bất động sản lung lay , AIG phải bồi thường
hàng tỉ USD cho những CDS này, khi không đủ tiền chi trả thì sẽ kéo theo
sự suy sụp của thị trường , tạo sự hoảng loạn=> nên chính phủ phải nhảy
vào cứu AIG
V, sản phẩm xuất khẩu số một của mỹ: nợ
Từ những năm 1980 nước mỹ đã đi vào một cuộc xuât khẩu lớn, bắt đầu
bằng chi phí hao hụt lớn của chính phủ
Sau khi người nước ngoài phát hiện ra sản phẩm tài chính mới của mỹ : tín
phiếu bất động sản , tiền chảy vào mỹ như nước đồng thời thâm hụt tài
khoản vãng lai tăng nhanh chóng
Phần 2 : diễn biến của khủng hoảng ( phần này bạn Hùng làm
khá chi tiết :D )
Diễn biến khủng hoảng
Lược sử.

Khủng hoảng tài chính bắt đầu từ hè năm 2007 và đỉnh điểm là sự
sụp đổ của hệ thống tài chinhs Mỹ năm 2008. và lây lan sang châu âu và
một loạt các nước khác.
Khủng hoảng tài chính Mỹ có nguyên nhân là do chính sách cho vay
bất động sản dưới chuẩn,và sự không kiểm soát được các công cụ tài chính
phái sinh.
Bắt đầu tại Mỹ, các ngân hàng cho vay bất động sản dưới chuẩn gặp
khó khăn từ năm 2/2007. Rất nhiều người mau nhà rồi, nhưng sau đó không
có tiền thanh toán cho ngân hàng hằng tháng, các ngân hàng cho vay trở
nên thiếu hụt vốn. Nhiều ngân hàng chuyên về bất động sản đã phải tuyên
bố phá sản.
Những diễn biến chính.
Tháng 6/2007 một trong những ngân hàng đầu tư lớn nhất nước Mỹ
bear stearn tuyên bố hai chi nhánh đầu tư của nó bị phá sản do vấn đề về ho
vay dưới chuẩn.
Ngày 3/8/2007 các thị trường chưng khoán giảm mạnh vi các nhà tư
sợ cơn khủng hoảng lan rộng.
Ngày 9/8/2007 ngân hàng Pháp BNP Paribas tuyên bố ngưng hoạt
động của 3 quĩ đầu tu bất đống sản. NHTW châu âu ( ECB) bơm 94,8 EUR
vào thị trường tài chính.
Ngày 10/8/2007 các thị trường chứng khoán trên thế giới đều sụp đổ.
Các ngân hàng TW lại bơm tiền vào.
Ngày 12/2/2008 ngân hàng northern rock của Anh gặp khó khăn về
vấn đề tiền mặt, chính phủ vội vàng quốc hữu hóa nó . chính phủ đã mua
hầu hết cổ phần của nó bằng tiền mặt do đó nó mới có tiền chi trả cho
khách hàng.
Ngày 16/3/2008 ngân hàng JP morgan chase, ngân hàng khổng lồ
của Mỹ mua lại Bear stearn.với giá 236 triệu USD với điều kiện bảo lãnh
30 tỉ usd nợ của Bear stearn.
Ngày 7/8/2008 hai tổ chức tài chính lớn nhất của Mỹ Fannie mac và

Fredie mac chuyên bảo hiểm các khoản nợ bất động sản các ngân hàng nhỏ
bị áp lực thiếu tiền mặt. Giá trị cổ phiếu hai công ty này trên thị trường
giảm mạnh.
Ngày 7/9/2008 bộ tài chính Mỹ tuyên bố đặt hai công ty dưới sự quản
lí của chính phủ trong thời gian cơ cấu lại tài sản của chúng.
Ngày 15/9/2008 từ chối cho leman brother mượn tiền. ngân hàng này
đã đi vào phá sản. Cũng trong ngày này bank of American mua ngân hàng
đầu tư merrillynch với giá 50 tỉ usd.
Ngày 16/9/2008 Fed và bộ tài chính quốc hữu hóa AIG bằng cách
bơm 85 tỉ usd và sở hữu 79.9 % cổ phần công ty này.
Ngày 26/9/2008 ngân hàng đầu tư JP morgan mua lại ngân hàng
Washington mutual. Đây là ngân hàng thương mại phá sản lớn nhất trong
lịch sử.
Ngày 3/10/2008 chính phủ Mỹ thông qua kế hoạch Paulson 700 tỷ
usd.
Ngày 17/11 citygroup sa thải 50000 nhân viên (2007đã sa thải
23000)
Ngày 21/11 cổ phiếu của nó chỉ còn 4 usd. ( 2007 là 20 usd ).
Ngày 23/11 chính phủ hỗ trợ citygroup 300 tỉ usd gồm 25 tỷ tiền mặt
và bảo lãnh các khoản tiền gửi, nợ cho citybank
A. Khủng hoảng tại Mỹ.
I .khủng hoảng tại wall street.
Wall street tại new york là khu vực tài chính đầu tư lớn nhất nước
mỹ và cũng là lớn nhất toàn thế giới ,các tổ chức tài chính ở đây hoạt
động chủ yếu trong lĩnh vực đầu tư và chịu ít ảnh hưởng của nhà nước
như các tổ chức như ngân hàng thương mại hơn.
Ngân hàng đầu tư là một định chế tài chính uy tín tại phố wall, có
trụ sở ở khắp nơi trên thế giới. chúng vay tiền từ những nhà đầu tư và
đầu tư vào những dự án lớn, môi giới buôn bán,sát nhập các công ty lớn.
Các ngân hàng đầu tư với số tiền ít đã đi vay nợ để đầu tư.Tận

dụng hiệu ứng đòn bẩy. vốn tự có ít nhưng quản lí danh mục tài sản lớn.
Tỉ lệ đòn bẩy=tài sản/ vcsh. Morgan 1:32;goldman 1:22.
Ở Mỹ mỗi ngân hàng phải có tỉ lệ dự trũ tiền mặt là 8% để tránh dủi
do cho các ngân hàng. Nhưng ngân hàng đầu tư thì khác. Từ xưa đến nay
họ chỉ cần bỏ ra 5 usd và được phép vay 95 usd để đầu tư vào dự án nào đó.
Giả sử ngân hàng đầu tư va lãi được 10 usd thì lợi nhuận của ngân hàng sẽ
là rất lớn so với số 5 usd bỏ ra. Nhưng nếu thua lỗ 10 usd thì không những
ngân hàng mất 5 usd của mình mà còn mất 5 usd của các nhà đầu tư không
đủ tiền mặt chi trả và dẫn đến phá sản => rất rủi ro. Đó là một trong những
cơ chế các ngân hàng đầu tư ở phố wall.
Đến tháng 9/2008 bùng nổ khủng hoảng nợ tín dụng bất động sản.
Hàng trăm ngàn người dân nợ tiền ngân hàng và không có tiền thanh toán,
làm cho các ngân hàng đầu tư thiếu hàng trăn tỉ để thanh toán cho các nhà
đầu tư và nhiều ngân hàng tổ chức tài chính đã đi đến bờ vực phá sản.
3/2008 ngân hàng đầu tiên gặp khó khăn là bear stearn sau khi thiếu
nợ 29 tỉ cho các nhà đầu tư . JP morgan đã mua lại ngân hàng này với giá
236 triệu usd. Chính phủ Mỹ bảo hộ 30 tỷ trả nợ.
Tháng 9/ 2008 3 tổ hợp tài chính khổng lồ bị sụp đổ. Hai ngân hàng
đầu tư khổng lồ leman brother và merrlynch đi vào phásản, trong đó ngân
hàng merrillynch được ngân hàng bank of American mua lại.Tổ chức bảo
hiểm AIG đứng thứ 3 thế giới bị đe dọa phá sản, chính phủ phải bỏ ra 85 tỉ
usd mua lại 79.9% cổ phần của AIG.
 wall street chỉ còn lại hai tổ hợp tài chính lớn là JP
morgan và goldman sachs. Chính phủ yêu cầu 2 tổ chức này quay về
dạng ngân hàng thương mai cổ điển nhận tiền gửi, cho vay và phải
có kí quỹ 8%.
Như vậy trong 4 ngân hàng đầu tư lớn đã có hai ngân hàng phá sản
như hai đơn vị độc lập, hai ngân hàng khác phải biến thể để tồn tại.
II. khủng hoảng tại một số chức tài chính lớn.
1.Fannie mac và Fredie mac.

Fannie mac thành lập vào năm 1938, còn fredie mac thành lập vào
năm 1970 theo luật chống độc quyền ở Mỹ. Dưới sự bảo hộ của bộ tài
chính. Mục đích chính của hai tổ chức này là bảo hiểm các khoản vay bất
động sản có thế chấp giúp người dân mua nhà một cách đễ dàng hơn. Ví dụ
họ muốn mua nhà chỉ cần có từ 20 – 25% giá trị ngôi nhà là có thể mua
được, phần còn lại, 80% sẽ được các ngân hàng thương mai tài trợ với điều
kiện thế chấp ngôi nhà. Người mua có thể trả hàng tháng trong vòng từ 10 –
20 năm. Vì lẽ nào đó mà người mua không thanh toán được tiền trong tháng
thi ngân hàng sẽ tịch thu ngôi nhà và đem bán đấu giá. Để tránh mọi rủi do
ngân hàng mang 80% giá trị ngôi nhà này đến bảo hiểm tại Fannie mac và
Fredie mac.
Đến năm 2008 tài sản mà hai công ty naỳ nắm giữ hoặc bảo hiểm đã
lên tới 5000 tỉ usd, chiếm khoảng gần 50% thị trường bất động sản. Với
lượng tài sản lớn thế này chỉ cần thị trường bất đống sản giảm giá hoặt số
nợ khó đòi các ngân hàng tăng lên thì nó cũng đã thua lỗ nặng rồi. Với tình
hình kinh tế suy thoái người dân không trả được nợ, hàng trăm hàng ngàn
căn bị siết nợ, bán không được làm cho giá nhà giảm xuống. Các ngân hàng
thương mại bị thua lỗ đòi 2 tổ chức này bồi thường. Đến tháng 9/2008 số
tiền mặt phải thanh toán của 2 tổ chức này là 223 tỉ usd. Nếu không trả
được thì phải tuyên bố phá sản. và nó sẽ dẫn đến sự sụp đổ của hàng loạt
các tổ chức tài chính khác. Fannie mac và fredie mac được bộ tài chính
ngầm hỗ trợ cho vay với lãi xuất thấp ( 2 - 3 %) về các tổ chức này lại cho
vãi với lãi xuất bất động sản với lãi suất cao ( 6-8%) ngoài ra nó còn thu
lợi tức từ việc bảo hiểm vay thế chấp bất động sản. Do đó ban lãnh đạo hai
tổ chức này mạnh tay đầu tư cho vay. Khi hai tổ chức này gặp khó khăn về
vấn đề tiền mặt chính phủ đã đặt nói dưới sụ quản lí của mình sau khi FED
tiếp cho mỗi công ty 100 tỷ usd để đảm bảo thanh toán cho khach hàng.
2. Công ty bảo hiểm AIG.
Công ty được thành lập vào năm 1940 tại thượng hải, và là công ty
đầu tiên bán bảo hiểm tại ttrung quốc. Năm 1949 thì chuyển trụ sở về Mỹ.

Đầu tháng 9/2008 giá trị cổ phiếu AIG gần như mất hết.
6/2008 34 usd
9/2008 3.75 usd
Từ đầu năm 2008 đến 25/9/2008 giá trị cổ phiếu mất 91% giá trị.
Trong 3 quí đầu năm 2008 AIG đã lỗ 18 tỉ usd, phần lớn trong số lỗ
này là cho vay thế chấp bất động sản dưới chuẩn và các khoản bảo hiểm tín
dụng bất động sản cho các tổ chức tài chính khác. FED lo sợ sự sụp đổ của
AIG do tầm vóc của nó quá lớn sự sụp đổ của nó có thể ảnh hưởng tới toàn
bộ hệ thống tài chính. Với lượng tài sản hơn 1000 tỉ usd hầu như tất cả các
tổ chức tài chính đều có bảo hiểm tại AIG. Ban lãnh đạo AIG bày tỏ muốn
vay FED một món tiền nhưng có vẻ FED không đồng ý.
Đến tháng 6/2008 AIG đã phát hành bảo hiểm vay bất động sản dưới
chuẩn 440 tỉ usd. Trong thời gian này hầu hết những ngân hàng bảo hiểm
tại AIG đều thiếu tiền mặt và đòi bồi thường.AIG không đủ sức chi trả do đó
cần gấp 85 tỉ usd để thanh toán cho khách hàng.
Ngày 17/9/08 FED đã cho AIG vay 85 tỉ usd theo các điều kiện sau.
Chính phủ nắm giữ 79.9 % cổ phần tại AIG, trong 2 năm phải bán tài sản
để trả lại tiền ho nhà nước với lãi suất 11.4%.
3. Lehman brother
Trong số những ngân hàng đầu tư lehman brother là mộ trong những
ngân hàng lớn nhất với hơn 100 năm uy tín. Với các lĩnh vực hoạt động chủ
yếu là ngân hàng đầu tư,quản lí tài sản…
Kết quả kinh doanh
Quí 3 năm 2008 lỗ 3,9 tỉ usd, gạch bỏ 13,8 tỉ usd nợ khó đòi.
Cổ phiếu cao nhất vào tháng 2/2007: 83,3 usd/cf
Thấp nhất vào 12/9/2008 : 3.65 usd/cf
Chấm dứt vào ngày 15/9/08
Lehman - cũng như các ngân hàng đầu tư khác - đã sử dụng nghiệp vụ chứng
khoán hóa (securitisation) để biến các khoản cho vay mua bất động sản thành các gói trái
phiếu có gốc bất động sản (MBS, MBO, CDO) đầy rủi ro cung cấp cho thị trường.

Khi nền kinh tế đi xuống, người vay tiền mua nhà không trả được các khoản
vay mua nhà thì rủi ro tín dụng được chuyển sang các gói trái phiếu có các
danh mục tín dụng bất động sản làm tài sản đảm bảo. Khủng hoảng càng
gia tăng thì việc phát mại tài sản càng tăng làm giá bất động sản càng
giảm. Điều này có nghĩa giá trị tài sản đảm bảo của trái phiếu càng giảm và rủi do tăng
Vòng xoáy khủng hoảng cứ tiếp tục như vậy, làm cho giá chứng khoán sụt giảm mạnh. Các
ngân hàng đầu tư mặc dù không nắm giữ toàn bộ rủi ro nhưng cũng trực tiếp hoặc gián tiếp
duy trì một số danh mục chứng khoán liên quan đến bất động sản. Hậu quả là hàng loạt
ngân hàng đầu tư lần lượt báo cáo các khoản lỗ kinh doanh.
Công bằng mà nói, Lehman đã lường trước được vấn đề và cố gắng không
dính nhiều vào tín dụng bất động sản dưới chuẩn. Trong số danh mục liên
quan đến bất động sản khoảng 60 tỷ USD thì tín dụng bất động sản dưới
chuẩn chiếm dưới 2 tỷ USD. Tuy nhiên, với sự lan rộng của khủng hoảng tín
dụng mà tín dụng dưới chuẩn chỉ là mồi lửa ban đầu thì Lehman đã không
kịp thoát.
Ngoài các gói trái phiếu liên quan đến bất động sản, Lehman còn đầu tư
trực tiếp hoặc gián tiếp vào bất động sản thương mại. Lehman có thể cấu
trúc các giao dịch này thông qua cung cấp vốn nợ hoặc vốn chủ sở hữu cho
các công ty con hoặc liên doanh đầu tư bất động sản. Khi thị trường bất
động sản đi xuống thì các giá trị bất động sản thương mại này cũng giảm
theo.
Tại thời điểm cuối tháng 8, Lehman nắm danh mục khoảng 52 tỷ USD liên
quan đến bất động sản, trong đó 24 tỷ USD chứng khoán bất động sản nhà
ở, 17 tỷ USD chứng khoán bất động sản thương mại và 11 tỷ đầu tư trực
tiếp. So với tương quan tổng tài sản khoảng 600 tỷ USD và vốn chủ khoảng
20 tỷ USD thì đây là một danh mục lớn.
4. Washington mutual
Ngân hàng được thành lập năm 1889 năm 2008 tài sản lên đến 208 tỉ
usd chủ yếu là cho vay bất động sản dưới chuẩn và đầu tư vào các dự án bất
động sản.

Tháng 9/2008 nợ khó đòi đã lên đến 31 tỉ usd ngân hàng không có
tiền mặt để chi trả. Đầu năm 2008 giới đầu tư mất đầu tư vào ngân hàng
bán tháo cổ phiếu của wahu trên thị trường chứng khoán. Trong 1 năm cổ
phiếu đã giảm 95 % từ 36.47 usd (2007) xuống 1.69 usd vào 9/2008
Ngân hàng này bị tịch thu bởi công ty liên bang bảo hiểm tiền gửi tich
thu và bán lại toàn bộ tài sản cho ngân hàng đầu tu JP morgan với giá 1.9 tỉ
usd. Đây là vụ phá sản ngân hàng thương mại lón nhất trong lịch sử tài
chính nước Mỹ.
III. kế hoạch giải cứu hệ thống tài chính của chính phủ - kế hoạch
Paulson.
Sau khi giải cứu phố wall, chính phủ yêu cầu kiểm kê lại thình hình
tài chính các tổ chức, phát hiện ra lỗ hổng khoảng 700 tỉ usd trong hệ
thông tài chính nước Mỹ.
Ngày 3/10/2008. thông qua kế hoạch Paulson với một số nội dung
chính sau đây.
- Chính phủ có thê mua lại toàn bộ các tín phiếu có thế chấp bất
động sản từ các định chế tài chính với giá cao nhất là 700 tỉ usd. Được
chia làm 3 giai đoạn trước mắt là 250 tỉ sau đó là 100 tỷ do nhà trắng
quyết định còn 350 tì phải thông qua quốc hội.
- Nếu sau khi bán các bất động sản mà các tổ chức này không giả
tiền cho nhà nước thì nhà nước sẽ mua cổ phiếu của chính các tổ
chức này.
- Chính phủ lập ra một quĩ bảo hiểm các tín phiếu bất động sản
rủi ro, các định chế tài chính sẽ đóng góp tài trợ cho quĩ này.
- Chính phủ giới hạn tiền lương cán bộ cao cấp của các tổ chức
không quá 500000 usd/ năm.
- Chính phủ tăng tiền gửi của dân chúng từ 100000 usd/năm lên
250000 usd/ năm một người/1tk/1nh.
- 5 năm nữa chính phủ sẽ ban hành kế hoạch mới cho phép các tổ
chức hoàn trả lại các khoản vay

- Ban hành qui tắc mới về kế toán, có thể đánh giá chính xác hơn
về tình hình tài chính của các tổ chức.
- Giảm thuế tạm thời cho các tổ chức tài chính nào không thu tiền
lãi các khoản vay bất động sản.
Sau khi thông qua kế hoạch Paulson, 700 tỉ usd này sẽ được dùng một
phần để tăng vốn cho các ngân hàng. Fed cho danh sách 10 – 15 tổ chức
mỗi đơn vị nhận được 10 tỉ usd vốn để đổi lại 1 phần cổ phần cho nhà nước.
B.khủng hoảng tại châu âu
I. bão nổi tại Iceland.
Iceland là một quốc gia nhỏ ở phía bắc nước Anh. Chủ yếu sinh sống
bằng nghề đánh bắt cá và xuất khẩu cá. 10 năm gần đây nghành ngân hàng
phát triển mạnh mẽ. Ba ngân hàng lớn của quốc gia này đã có trụ sởtại
Anh, ha lan…Ở Anh hàng trăm ngàn dân, các quĩ hưu trí, quĩ tiền gửi đều
gửi tiền tại các ngân hàng này. Chính sách đòn bảy thả lỏng đã giúp các
ngân hàng này có lượng tài sản tăng rất nhanh. Dùng tiền gửi các lãnh đạo
ngân hàng này đã đầu tư vào phố wall từ cổ phiếu cho đến bất động sản
dưới chuẩn. Khi thị trương thuận lợi các ngân hàng có những khoản lời
kếch xù những tuần cuối tháng 9/2008 khủng hoảng tại phố wall đã lan
sang Iceland. Chính phủ cứu ngân hàng nhưng ngân khố không có tiền,
chính phủ lại đi vay các nước châu âu. Nhưng trong tình hình tài chính khó
khăn thế này không quốc gia nào giám cho vay. Chính phủ lúng túng vội
vàng quốc hữu hóa hai ngân hàng lớn nhất nước này trong tình trạng không
có tiền chính phủ khôngbiêt làm thế nào liền đóng băng các tài khoản tiền
gửi. Khách hàng hoảng sợ trong đó có rất nhiều tiền gửi là của dân anh.
Thủ tương Anh cho rằng các ngân hàng này đã phản bội dân Anh, ông đã
cho đóng băng các tài khoản của các ngân hàng nay chi nhánh tại Anh, các
ngân hàng dưng trước bờ vực phá sản. Một thời gian sau thủ tướng Anh đã
dịu giọng và cho vay 100 – 200 triệu usd. Nhưng số tiền này quá nhỏ bởi vì
nguyên tiền gửi tại các quĩ ở Anh đã lên tới 2 tỉ usd, số tiền cho vay này chỉ
đủ thanh toán cho khach hàng cá nhân.

15/10/2008 Iceland đã phải cử phái đoàn sang Nga để vay 6 tỉ usd.
II. khủng hoảng hệ thống ngân hàng tại châu âu.
Nhiều ngân hàng ở châu âu tham gia vào tài trợ thị trường bất động
sản dưới chuẩn, nên khi thị trường tài chính Mỹ đi vào khủng hoảng nó đã
ảnh hưởng mạnh đến hệ thông ngân hàng châu âu.
- Tại Anh nhiều ngân hàng đã gặp khó khăn trong vấn đề tiền mặt:
Ngày 2/8/2008 northern rock đã thiếu tiền mặt trầm trọng, người Anh
nối đuôi nhau đến rút tiền tại ngân hàng. Chính phủ đã phải quyết định
quốc hữu hóa nó để ngăn chặn khủng hoảng lan sang các ngân hàng khác
Ngày 9/8/2008 một ngân hàng khác của anh là Halifax bank ò
Scotland phát hiện lỗ nặng với các khoản vay bất động sản và được chính
phủ Anh cho phép sát nhập với ngân hàng LOYDS TSB mặc dù ngân hàng
này có tài sản nhỏ hơn. Làm cho ngân hàng trở thành ngân hàng lớn thứ 3
ở Anh với 28% thị phần bất động sản ở Anh.
- Tại Thụy sỹ ngân hàng UBS gạch bỏ 44 tỉ usd nợ khó đòi chủ yếu là
bất động sản dưới chuẩn. chính phủ đã bơm cho ngân hàng này 60 tỷ.
- Tại ý thủ tướng Ý nói rằng ông hi vọng không có phá sản ở Ý. Các
ngân hàng ở Ý rất bảo thủ trong vấn đề cho vay bất động sản, họ chỉ cho
vay 50% giá trị ngôi nhà, một số ngân hàng Ý còn dư nhiều tiền mặt.
III.Các nước châu âu cứu nguy ngân hàng.
Đức xung phong bỏ ra 400 tỉ eur bảo hiểm cho tín dụng ngân hàng,
bơm 80 tỉ vào ngân hàng.
Pháp bỏ ra 320 tỷ EUR vào dòng chảy tín dụng của hệ thống ngân
hàng
Ý tuyên bố chi bao nhiêu cũng được để chặn đúng khủng hoảng.
Hà lan và Tây ban nha quyết định chi 200 tỉ eur và 100 tỉ eur để vực
hệ thống ngân hàng.
C. Khủng hoảng tại Châu á - Trung quốc.
Cơn sóng khủng khoảng tài chính ở Mĩ và châu Âu đã lan sang châu
á đặc biệt là Trung quốc nước có nền kinh tế đứng thứ 4 thế giới năm

2007.Tác động của cuộc khủng khoảng tài chính đến Trung Quốc ngày càng
trầm trọng.Trung Quốc mặc dầu có quỹ tiền tệ rất lớn ,quỹ dự trữ ngoại tệ
trên 2000 tỷ USD,nhưng không được che chắn khỏi sự suy sụp toàn cầu đã
bắt đàu suy thoái ngay từ giữa năm 2008.Nguyên nhân do đâu và tại sao
Trung Quốc lại công bố một kế hoạch cứu nguy 590 tỷ USD-một kế hoạch
lớn gần bắng kế hoạch 700 tỷ cứu nguy tài chính của Washington- chỉ vài
ngày sau khi họ cho biết là kinh tế tăng trưởng 9% vào quý 3 năm 2008.
Trước hết chúng ta sẽ nhìn lại Trung Quốc từ giữa những năm
2008.Tình hình suy thoái nội địa :các nhà xuất khẩu phá sản ,xây dựng suy
sụp,xí nghiệp sa thải công nhân và công nhân biểu tình diễn ra ở rất nhiều
tỉnh của Trung quốc.
Lĩnh vực thương mại được coi là 1 lĩnh vực đóng góp lớn trong GDP
của Trung Quốc (chiếm tới 40% GDP những năm qua) bị ảnh hưởng nặng
nhất của khủng khoảng toàn cầu.Xuất khẩu giảm sút nghiêm trọng nhưng số
lượng hang nhập khẩu còn giảm mạnh hơn nữa.Điển hình nhất tháng 11-
2008,xuất khẩu giảm 2,2% khi tính trên USD sau 7 năm tăng trưởng.Nếu
đổi sang đồng nhân dân tệ thì xuất khẩu giảm tới 9,6% vào tháng 11,trừ đi
cả lạm phát số suy giảm 11,4%.Tại các bến cảng Trung Quốc,bãi chứa
container trước đầy ắp hàng bây giờ trống rỗng.Đó là hậu quả của hang
triệu người dân nước Mĩ đã mất tin tưởng vào nền kinh tế.Họ cảm thấy
nghòe hơn,giảm bớt tiêu dùng.Từ đó các nhà bán lẻ Mĩ tìm cách trả chậm
cho các hang hóa xuất khẩu từ Trung Quốc.Chuyện này các nhà cung cấp
Trung Quốc phải vay them tiền bù vào chỗ trống.Một số công ty Trung
Quốc không vay được đã phải đóng cửa.Cùng lúc đó các nhà bán lẻ của Mĩ
đòi các nhà cung cấp Trung Quốc phải có bảng cân đối kế toán tốt và không
phá sản trước khi hoàn thành việc giao hàng.Các nhà xuất khảu thì lo ngại
người mua hàng phá sản,rất phân vân khi chất hàng lên tàu.Một vấn đề nữa
cũng gây thiệt hại cho các nhà xuất khẩu Trung Quốc là việc Trung Quốc
hỗ trợ các nhà xuất khẩu về giá các mặt hàng.Biện pháp này tạo ra mối
quan ngại cho các nhà châu Á đang có hàng cạnh tranh với Trung Quốc có

thể đưa tới chính sách bảo hộ chống Trung Quốc.Indonexia,một trong
những thị trường lớn của châu á,áp dụng 1 loạt các biện pháp bảo hộ,hạn
chế các mặt hàng nhậ khẩu quần áo,đồ điện tử ,giầy dép,đồ chơi,thực phẩm
có xuất sứ từ Trung Quốc gây thêm khó khăn cho xuất khẩu Trung
Quốc.Tình trạng trên khiến nhiều xí ngiệp Trung Quốc đã phải đóng cửa.
Tại tỉnh Quảng Đông rất nhiều xí nghiệp đã đóng cửa mà không trả
nổi lương cho nhân viên,một số nhân viên đã xin nghỉ sớm và đòi được phát
lương ngay trước khi chủ xí nghiệp xin phá sản.
Tại Tứ Xuyên các miền sâu trong nội địa cán bộ thị xã xoay sở đủ
cách đẻ tạo việc làm cho hàng nghìn lao đọng di cư (từ nông thôn ra thành
thị),giờ họ trở về quê và gia đình họ không cần tới họ trong công việc đòng
áng.
Tại Hồng Kong có khoảng từ 10000-60000 xí nghiệp sẽ phải đóng
cửa hay đã đóng cửa trong thời gian sắp tới và ảnh hưởng của nó còn nằng
nề hơn trong đại lục.Vì các xí nghiệp trong đại lục bình thường ít và nhỏ
hơn các xí nghiệp của Hồng Kong.
Xuất khẩu suy giảm ảnh hưởng mạnh mẽ lên các lĩnh vực dệt
may,công nghiệp,và bất động sản vì giá bất động sản ở Trung Quốc đã giảm
35% so với thời điểm năm 2007.Tháng 8 năm 2008 số lượng nhà mới xây
được bán ra tại 16 vùng lớn ở Trung Quốc đã giảm 15% so với năm trước
.Số lượng nhà bán ở Bắc Kinh giảm 55% và ở Thượng Hải giảm 38% đã
kéo theo số bán giảm của các mặt hàng tiêu thụ dài hạn ví dụ các sản phẩm
gia dụng.Diễn biến thị trường thép và oto cũng không mấy sáng sủa.Số
lượng xe bán nội địa cũng thu nhỏ hơn so với năm trước.Giá một số kiểu xe
đã bị giảm một nửa so với năm ngoái.Giá bán các sản phẩm từ thép giảm
mạnh.
Lĩnh vực tiền tệ:các NHTM có tới 65% tiền vay nợ là các khoản thế
chấp bất động sảm.Đáng chú ý là không phải người Trung Quốc vay tiền
ngân hàng với lý do mua nhà mà thực ra họ dùng tiền để mua xe ôto hoặc
chứng khoán.Như vậy hiện nay nợ của Trung Quốc được tài trợ bằng tín

dụng bất động sản dưới chuẩn rất nguy hiểm.Cũng giống như Mĩ khi thị
trường bất động sản suy sụp làm cho thị trường tiền tệ suy sụp hệ lụy tới
nền kinh tế thực trong bối cảnh nền kinh tế thực đang trì trệ.Một cuộc khủng
hoảng kinh tế thực toàn cầu có thể diễn ra bất cứ lúc nào.Điều này là rất
nguy hiểm.
Đứng trước tình hình đó chính phủ Trung Quốc có kế hoạch kích
thích nền kinh tế đang kiệt quệ bằng gói kích cầu 586 tỉ USD.Gói kích cầu
này tập trung vào cơ sở hạ tầng nhà ở nông nghiệp tiêu thụ nội địa và an
sinh xã hội.Tuy nhiên phân nửa tổng số tiền lại được tập trung cho kế hoạch
kích cầu vào hệ thống giao thong ,cơ sở hạ tầng chỉ còn lại số ít là chi mới
cho an sinh xã hội,tiêu thụ nội địa.Cơ cấu chi phí kiểu này không có gì mới
tại Trung Quốc.Năm 2007 chi phí nhà nước cho y tế,bảo hiểm xây dựng phụ
cấp thất nghiệp tổng cộng 88 tỉ USD và bằng 2,4% GDP.Vậy thì tại sao
người ta vẫn chi mạnh cho phát triển cơ sở hạ tầng trong khi đó cơ sở hạ
tầng Trung Quốc giờ rất phát triển.Nguyên nhân chính là người trong chính
phủ chỉ nhìn thấy những cái làm trước mắt ,cái mà mình làm được trong
nhiệm kì của mình thì mới dễ được công nhận.


Phần 3 : tác động tới thị trường chứng khoán việt nam
Những tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 đến hệ
thống ngân hàng và thị trường chứng khoán Việt Nam:
Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ là tác động mang tính hai
chiều, song chủ yếu là tác động tiêu cực tới nền kinh tế toàn cầu cũng như
của Việt Nam. Do sự hội nhập ngày càng sâu và rộng của nền kinh tế Việt
Nam vào thế giới nên Việt Nam chịu những tác động nhất định, tuy không
trực tiếp.
Những tác động đến hệ thống ngân hàng:
Từ việc phân tích nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu
xuất phát từ nước Mỹ nêu trên, chúng ta có thể khẳng định là cuộc khủng

hoảng này sẽ không có tác động đáng kể đến hệ thống ngân hàng Việt Nam,
bởi lẽ:
Thứ nhất, mức độ hội nhập của nền kinh tế Việt Nam nói chung và của hệ
thống ngân hàng nói riêng với nền kinh tế và hệ thống ngân hàng Mỹ và thế
giới chưa sâu. Các ngân hàng Việt Nam hiện nay chủ yếu làm cầu nối cung
cấp dịch vụ thanh toán, bảo lãnh và bao thanh toán cho các doanh nghiệp
xuất, nhập khẩu. Bên cạnh đó, lượng vốn của các ngân hàng Việt Nam vay
trên thị trường quốc tế là không lớn nên có thể loại trừ khả năng xuất hiện
hiệu ứng rút vốn ồ ạt gây nên rủi ro về thanh khoản của hệ thống ngân
hàng.
Thứ hai, các ngân hàng và các tổ chức tài chính Việt Nam không sở hữu các
MBS của Mỹ, do vậy không phải gánh chịu những khoản lỗ phát sinh do
công cụ này giảm giá. Mặt khác, cấu trúc của hệ thống ngân hàng Việt Nam
còn khá đơn giản, các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng chưa phát triển, chưa
có sự liên thông ở mức tinh vi giữa TTBĐS và TTCK thông qua các công cụ
phái sinh tương tự như MBS của Mỹ. Các ngân hàng Việt Nam đầu tư vào
bất động sản chủ yếu thông qua hình thức trực tiếp là cho vay có đảm bảo
bằng tài sản hoặc bằng chính bất động sản hình thành từ vốn vay nên khả
năng tạo hiệu ứng dây chuyền kiểu Mỹ khi bất động sản giảm giá là rất khó
xảy ra.
Tuy nhiên, mặc dù hệ thống ngân hàng Việt Nam không chịu ảnh hưởng trực
tiếp từ cuộc khủng hoảng tài chính đang diễn ra nhưng không phải là không
có vấn đề. Những vấn đề mà hệ thống ngân hàng gặp phải chủ yếu phát sinh
từ những yếu tố nội tại.
Trước hết, là vấn đề mô hình của hệ thống ngân hàng. Theo Khoản 2, Điều
20 của Luật các tổ chức tín dụng được Quốc hội ban hành năm 1997 và
được sửa đổi, bổ sung năm 2004 thì các loại hình ngân hàng ở Việt Nam
bao gồm: ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư,
ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác.
Nhưng dưới gốc độ lập pháp thì cho đến nay, chúng ta vẫn chưa có sự phân

biệt rõ ràng về chức năng của từng loại ngân hàng. Đặc biệt, chưa có một
văn bản pháp quy nào được ban hành để điều chỉnh hoạt động của ngân
hàng phát triển và NHĐT – là những hoạt động kinh doanh ngân hàng có
rủi ro cao nhất. Chính sự mập mờ này đã tạo điều kiện cho các NHTM, các
CTTC “lấn sân”. Và trên thực tế, nhiều NHTM và các CTTC đã “không
ngần ngại” đầu tư vào bất động sản và chứng khoán đã mang lại không ít
hệ lụy cho nền kinh tế, góp phần không nhỏ vào việc đẩy nền kinh tế đi đến
lạm phát thời gian đó.
Tiếp theo, là sự ra đời ồ ạt của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng phi
ngân hàng, đặc biệt là các CTTC. Cho đến thời điểm tháng 3/2009, chúng ta
đã có trên 80 ngân hàng thương mại và trên 20 công ty tài chính. Phần lớn
các CTTC đều có nguồn góc vốn góp từ các tập đoàn kinh tế, các tổng công
ty nhà nước lớn. Với vai trò tạo vốn và điều hoà vốn giữa các thành viên
trong tập đoàn, tổng công ty, cho nên CTTC dễ dàng bỏ qua những chuẩn
mực cần thiết của hoạt động tín dụng trong việc tài trợ vốn cho các thành
viên, các dự án của tập đoàn và tổng công ty. Điều này không những làm
cho rủi ro tín dụng tăng lên mà còn làm tăng nguy cơ “hiệu ứng dây
chuyền” khi thị trường tiền tệ hoặc lĩnh vực kinh doanh chính của tập đoàn,
tổng công ty có biến động mạnh. Việc có quá nhiều ngân hàng (trong đó, có
khoản 25% ngân hàng có hiệu quả kinh doanh hạn chế) và các CTTC sẽ dẫn
đến hai nguy cơ lớn là khả năng huy động vốn để duy trì kinh doanh ổn định
và khả năng quản trị ngân hàng, đặc biệt trong giai đoạn khó khăn hiện
nay.
Bên cạnh đó, tỷ lệ nợ xấu đang có xu hướng gia tăng do tăng trưởng tín
dụng khá cao cũng đặt hệ thống ngân hàng trước những thách thức không
nhỏ. Theo số liệu từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tổng dư nợ tín dụng cho
vay kinh doanh bất động sản hiện nay khoảng 115.500 tỷ đồng, chiếm
9,15% trên tổng dư nợ toàn hệ thống. Riêng năm 2007, tỷ lệ tăng trưởng tín
dụng của hệ thống ngân hàng Việt Nam năm 2007 là 53% – một con số khá
cao cộng với khoảng 50% các khoảng dư nợ được thế chấp bằng bất động

sản sẽ làm tăng tỷ lệ nợ xấu trong những tháng cuối năm 2008 khi các
khoản cho vay vào bất động sản trước đây lúc thị trường này còn hấp dẫn
sẽ đáo hạn. Trong tình hình TTBĐS vẫn chưa có dấu hiệu khởi sắc thì việc
các ngân hàng phải đối diện với khoản lỗ lớn là khó tránh khỏi.
Ngoài ra, nguy cơ về tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng vẫn đang
còn tiềm ẩn, mặc dù các giải pháp thắt chặt tiền tệ, ổn định kinh tế vĩ mô,
kìm chế lạm phát của Chính phủ đã phát huy tác dụng. Đầu 2009: lãi suất
cơ bản qua bốn đợt cắt giảm trong một thời gian ngắn đã được hạ xuống
còn 10%, tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng được giảm xuống đáng kể đi kèm theo
việc tăng lãi suất trên tỷ lệ này, lãi suất cho vay trên thị trường liên ngân
hàng và chiết khấu giấy tờ có cũng giảm khá mạnh. Song song đó, NHNN
đã mua lại tín phiếu bắt buộc phát hành cho các ngân hàng trước thời gian
đáo hạn trị giá 20,3 ngàn tỷ đồng. Những động thái trên là dấu hiệu “nới
lỏng chính sách tiền tệ” một cách linh hoạt của Chính phủ nhằm tăng tính
thanh khoản cho hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện để ngân hàng hạ lãi suất
cho vay để các doanh nghiệp có thể tiếp cận nguồn vốn. Qua đó, kích thích
sản xuất chống lại nguy cơ giảm phát và duy trì mức tăng trưởng của nền
kinh tế. Nhưng khi, lượng tiền mặt trong hệ thống tăng lên và các ngân hàng
đã giảm đáng kể lãi suất cho vay tương đương với mức cuối năm 2007 thì
các doanh nghiệp lại tỏ ra không mấy mặn mà. Nguyên nhân chủ yếu được
xác định là do ảnh hưởng của đợt lạm phát trong nước khi đó và của cuộc
khủng khoảng tài chính toàn cầu đang diễn ra đã làm sức mua trong nước
và trên thị trường các nước vốn là nơi tiêu thụ truyền thống sản phẩm xuất
khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam giảm mạnh. Như vậy, hệ thống ngân
hàng Việt Nam lại đối diện với một thách thức mới. Đó là tìm đầu ra cho
những đồng vốn của mình. Trong điều kiện TTBĐS “đóng băng” và TTCK
liên tục tuột dốc thì rõ ràng đây thật sự là một bài toán khó.
Những tác động đến thị trường chứng khoán (TTCK):
Các nghiên cứu cho thấy, cơn bão tài chính thế giới chưa có những tác động
lớn trực tiếp đến nền kinh tế nói chung và TTCK Việt Nam nói riêng. Cơ sở

của những kết luận trên là tính liên thông và hội nhập của nền kinh tế Việt
Nam với nền kinh tế và thị trường tài chính thế giới chưa cao. Tuy nhiên,
nếu xem xét một cách thấu đáo có thể thấy rằng mặc dù không chịu ảnh
hưởng trực tiếp nhưng TTCK Việt Nam cũng đã chịu sự tác động nhất định
từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Sự tác động này biểu hiện trên các
phương diện sau đây:
Một là, khủng hoảng tài chính với sức lan tỏa nhanh chóng đã tác động đến
các quốc gia vốn là thị trường xuất khẩu hàng hoá của nhiều doanh nghiệp
niêm yết như Mỹ, Liên minh Châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc… Thị trường co
lại. Những đơn hàng chật vật kiếm được cũng chỉ đủ để doanh nghiệp (DN)
hoà vốn. Cơn bĩ cực của nền kinh tế đã ngấm sâu trong các nhà xưởng,
trong những hợp đồng xuất khẩu và trong doanh thu đang ngày một "khiêm
tốn" của các DN. Khủng hoảng tài chính làm sức mua của các thị trường
trên giảm sút nghiêm trọng ảnh hưởng đáng kể đến kế hoạch doanh thu và
lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết làm giá cổ phiếu của các doanh
nghiệp này vốn đang sụt giảm lại khó có khả năng phục hồi.
Figra đến KCN Đài Tư,Long Biên, Hà Nội đã được 4 năm, hoạt động theo
hình thức tạm nhập tái xuất. Sản phẩm là những bộ bàn ghế xuất khẩu
100% sang Nhật Bản. Cơn suy thoái kinh tế toàn cầu đã khiến cho DN này
không ký được hợp đồng nào cho năm 2009, trong khi tiền nợ thuê mặt
bằng, nhà xưởng cứ gối đầu nhau tháng sau cộng dồn tháng trước. Đây
cũng là DN đầu tiên trong KCN Đài Tư buộc phải giải thể do khủng hoảng.
Một loạt những dây chuyền sản xuất linh kiện điện tử, máy tính… trong
những nhà máy lớn như Canon, Panasonic… đều phải dừng hoạt động vì
thiếu đơn hàng. Trong lúc này, chỉ những dây chuyền sản xuất đồ gia dụng
mới hoạt động bình thường. Kế hoạch sản xuất của những DN thương hiệu
lớn này được phân bổ từ Công ty mẹ đều ít đi và mang tính ngắn hạn. Các
DN đang phải chịu ứ đọng vốn đầu tư rất nhiều mà chưa thể hoạt động sinh
lời. Không chỉ thiệt hại cho DN mà cơ hội việc làm cho người lao động cũng
bị giảm bớt.

Giá cổ phiếu tại thị trường Việt Nam chỉ trong vòng 1 tháng (từ 18/7/2008-
17/8/2008) đã giảm khoảng 11,2%.Mức giảm chung tại TTCK khu vực châu
Á từ ảnh hưởng của TTCK Mỹ là khoảng 15% (chỉ duy nhất Trung Quốc
tăng 18,2% do nước này đã áp dụng biện pháp về kiểm soát vốn).
Hai là, khủng hoảng tài chính đã làm cho các nhà đầu tư nước ngoài bán
ròng cổ phiếu, trái phiếu. Huy động vốn gián tiếp vào thị trường cổ phiếu
Việt Nam rất khó khăn do các nhà đầu tư sẽ hướng tới các kênh đầu tư an
toàn (flight to quality). Việc bán tháo chứng khoán khỏi thị trường Việt Nam
là có thể, mặc dù xác suất không cao do tính thanh khoản và quy mô của thị
trường.
Điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường chứng khoán và quá trình cổ
phần hóa các doanh nghiệp nhà nước lớn trong các năm tới. Việc huy động
vốn thông qua thị trường vốn khó khăn trong khi thị trường tín dụng thắt
chặt sẽ chặn dòng vốn và đẩy chi phí tài chính của các doanh nghiệp lên
cao. Một khía cạnh khác của đầu tư gián tiếp là các giao dịch chênh lệch lãi
suất (carry trade) nhằm hưởng chênh lệch lãi suất giữa 2 đồng tiền trong
khi tỷ giá ổn định. Các giao dịch này thường mang tính đầu cơ ngắn hạn
cao. Với lãi suất toàn cầu sụt giảm và chính sách tỷ giá neo VND vào USD
của Việt Nam trong khi lãi suất VND vẫn ở mức cao, có thể dòng vốn này sẽ
chảy vào trong một số giai đoạn nhất định nhằm khai thác cơ hội chênh
lệch. Trong những trường hợp thoái vốn, dòng vốn này có thể tạo áp lực tỷ
giá cho VND.
Việc phát hành chứng khoán huy động vốn trên thị trường quốc tế cũng sẽ
khó khăn và chi phí tăng cao.
Tính từ đầu tháng 8/2008 đến đầu tháng 10/2008 các nhà đầu tư nước
ngoài đã liên tục bán ròng cổ phiếu với tổng giá trị lên 1.278 tỷ đồng và
khoảng 13,5 ngàn tỷ đồng đối với trái phiếu. Với giá trị bán ra khổng lồ này
đã góp phần không nhỏ vào sự sụt giảm của chỉ số VN-Index và Hastc-Index
thời gian đó. Trước đó, nhiều ý kiến đã “trấn an” các nhà đầu tư là sẽ
không có chuyện các nhà đầu tư ngoại rút vốn vì phần lớn các quỹ đầu tư

nước ngoài tại Việt Nam là các quỹ đóng. xét về bản chất thì các quỹ đóng
không mua lại chứng chỉ đã phát hành cho nhà đầu tư nhưng họ hoàn toàn
có thể thực hiện tái cấu trúc danh mục đầu tư của mình, trong đó có việc
bán chứng khoán ở thời điểm này để mua vào thời điểm khác hoặc bán ở thị
trường này để đầu tư vào thị trường khác hoặc đầu tư vào thị trường ngoại
hối. Thực tế cho thấy, đồng nội tệ của nhiều quốc gia bị ảnh hưởng nặng
bởi lạm phát đã mất giá so với đồng USD vài chục phần trăm trong khi sự
giảm giá của đồng Việt Nam so với đồng USD và các ngoại tệ mạnh khác là
không đáng kể. Khả năng nhà đầu tư nước ngoài đã nhận định rằng đồng
Việt Nam sẽ tiếp tục mất giá cũng như các đồng tiền khác nên đã bán chứng
khoán để mua ngoại tệ nhằm kiếm lời là rất có thể. Nếu kịch bản diễn ra
đúng như họ dự đoán thì khi đó họ sẽ bán ngoại tệ để tiếp tục đầu tư vào
chứng khoán.
Thứ ba, tác động rõ nét nhất của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đến
TTCK Việt Nam là ở yếu tố tâm lý. Thật ra, yếu tố tâm lý trên TTCK thì ở
quốc gia nào cũng có, đặc biệt là các quốc gia có thị trường này mới hình
thành. Yếu tố tâm lý đã làm cho TTCK Việt Nam bao phen lâm vào tình
trạng mất cân đối cung cầu: khi giá chứng khoán lên thì mua không được,
ngược lại khi giá rớt thì chỉ toàn lệnh bán mà không có lệnh mua. Sở dĩ có
hiện tượng này là do phần nhiều các nhà đầu tư Việt Nam chưa chuẩn bị
kiến thức và bản lĩnh cũng như kinh nghiệm cần thiết để tham gia mua bán
chứng khoán, mặt khác môi trường thông tin chưa thật sự đảm bảo cho
thông tin đến với tất cả các nhà đầu tư cùng một lúc và chuẩn xác. Việc đầu
tư theo đám đông đã gây khó khăn trong việc hoạch định chính sách và điều
tiết thị trường của cơ quan quản lý và trở thành mảnh đất màu mỡ cho các
hành vi làm giá, giao dịch nội gián, tung tin đồn thất thiệt…để trục lợi. Tâm
lý mua bán theo đám đông lại trở nên nặng nề hơn khi nền kinh tế bị lạm
phát. Mỗi khi các thông tin về việc tăng giá xăng dầu, NHNN tăng lãi suất
cơ bản hoặc chỉ số giá tiêu dùng được công bố đều nhận được phản ứng tức
thời từ TTCK. Trong giai đoạn này, các nhà đầu tư nước ngoài được xem là

nhân tố dẫn dắt thị trường. Động thái mua vào hoặc bán ra của họ cũng sẽ
làm cho giá chứng khoán tăng hoặc giảm theo. Nhưng từ cuối tháng 9/2008
đến những tháng đầu 2009, rất nhiều thông tin tốt về nền kinh tế được phát
đi như lãi suất cơ bản và giá xăng liên tục giảm, chỉ số giá tiêu dùng giảm
đáng kể đã không nhận được những phản ứng tích cực nào từ thị trường và
chỉ số chứng khoán cả 2 sàn Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội đều giảm.
Điều đó cho thấy nhà đầu tư Việt Nam đã không còn quan tâm đến các
thông tin tốt từ nền kinh tế trong nước nữa. Cái mà họ quan tâm là diễn biến
tình hình giao dịch ở các TTCK Mỹ, Anh, Nhật Bản…thế nào và sẽ có hành
vi đầu tư tương tự. Trong những tháng đầu 2009, diễn biến của các chỉ số
chứng khoán Việt Nam luôn cùng chiều với chỉ số của các thị trường trên.
Vậy là cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã chuyển hướng tâm lý đầu tư
của các nhà đầu tư Việt Nam: từ đầu tư theo nhà đầu tư nước ngoài ở trong
nước sang đầu tư theo các “nhà đầu tư ngoài nước”. Tâm lý này trở thành
một rào cản không nhỏ cho các nỗ lực của Chính phủ nhằm vực dậy TTCK.
Nhiều chuyên gia đã chỉ ra rằng, khi thị trường tài chính có biến động mạnh
ở một hoặc nhiều nước phát triển, các TTCK toàn cầu có độ liên thông lớn
hơn rất nhiều so với thời kỳ ổn định và Việt Nam cũng không nằm ngoài quy
luật đó.
Thứ tư, tâm lý giá xuống đã làm méo mó vai trò là “phong vũ biểu” phản
ánh “sức khỏe” nền kinh tế và đe dọa tính thanh khoản của thị trường. Đó
là khi, giá chứng khoán xuống quá thấp thì người bán lại không muốn bán
nhưng người mua cũng sẽ không dám mua do vẫn còn lo sợ chứng khoán sẽ
tiếp tục giảm nữa. Khi đó từ “khủng hoảng niềm tin” thị trường sẽ chuyển
sang một cuộc khủng hoảng khác nguy hiểm hơn nhiều: khủng hoảng về tính
thanh khoản.
Thứ năm, mặc dù không phải phát sinh mới đây do cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu nhưng TTCK Việt Nam vẫn còn tồn tại rất nhiều những vấn
đề khác như các vấn đề về khung pháp lý, vai trò quản lý, giám sát của Nhà
nước, tính minh bạch của thị trường:

Vẫn có những hoạt động làm giá, thao túng cổ phiếu, thao túng thị trường
khiến cho nhà đầu tư (NĐT) bất an, họ rất ngại trong việc đầu tư giá trị, mà
dần dần chuyển sang lướt sóng nhiều hơn
Còn nhiều quy định như T cộng (T+), giao dịch chỉ một chiều, vẫn còn các
lệnh ATO, ATC; mỗi NĐT chỉ được mở 1 tài khoản giao dịch, còn thiếu các
công cụ phái sinh để thêm nhiều sản phẩm cho thị trường và phòng chống
rủi ro
Giải pháp cho hệ thống ngân hàng và thị trường chứng khoán:
Đối với hệ thống ngân hàng
Hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay đứng trước ba vấn đề lớn là: mô
hình và cấu trúc của hệ thống ngân hàng, vấn đề kiểm soát rủi ro và tính
thanh khoản. Để nâng cao tính hiệu quả trong hoạt động ngân hàng đồng
thời tránh được “vết xe đổ” của hệ thống ngân hàng Mỹ thì chúng ta cần có
những giải pháp kiên quyết và đồng bộ theo hướng cái cấu trúc lại hệ thống
ngân hàng cho hiệu quả hơn, tăng cường kiểm soát rủi ro và nâng cao tính
thanh khoản của hệ thống ngân hàng. Cụ thể là:
- Tiến hành rà soát lại hệ thống văn bản điều chỉnh hoạt động ngân hàng,
bao gồm Luật ngân hàng Nhà nước năm 1997 (sửa đổi, bổ sung năm 2003)
và Luật các tổ chức tín dụng dụng năm 1997 (sửa đổi, bổ sung năm 2004)
và các văn bản dưới luật về ngân hàng. Hai Luật này mặc dù đã góp phần
rất lớn vào việc điều chỉnh hoạt động và sự phát triển của hệ thống ngân
hàng thời gian qua nhưng được ban hành và sửa đổi khi mức độ hội nhập
kinh tế và những thay đổi trong các quan hệ kinh tế thị trường ở Việt Nam
diễn ra chưa mạnh mẽ nay đã bộc lộ những khiếm khuyết và bất cập nhất
định. Các văn bản dưới luật thì được ban hành khá tản mạn, không tập
trung và bất cân xứng, chủ yếu điều chỉnh các hoạt động của NHTM cổ
phần mà chưa có sự quan tâm đúng mức về hoạt động của các tổ chức tín
dụng khác như hoạt động của NHĐT, NHTM Nhà nước, các tổ chức tín
dụng phi ngân hàng. Vai trò và tính độc lập của NHNN được quy định trong
hai Luật này không cao, chưa đủ để có thể thực hiện chức quản lý và điều

hành chính sách tiền tệ quốc gia một cách linh hoạt. NHNN “không có chức
năng hoạch định mà chỉ là cơ quan chấp hành trong việc điều hành chính
sách tiền tệ. Các văn bản dưới luật thường được ban hành để xử lý vấn đề
mang tính chất vụ việc nhiều hơn là những vấn đề mang tính chất chiến
lược. Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về ngân hàng phải được tiến hành
theo hướng nâng cao tính độc lập và vai trò chủ động trong quản lý, điều
hành linh hoạt chính sách tiền tệ, mở rộng thẩm quyền và tăng cường các
công cụ kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh ngân hàng của NHNN.
Song song đó, cần có sự tách bạch rõ ràng giữa hoạt động của NHTM và
NHĐT đồng thời nâng cao điều kiện cấp phép thành lập và hoạt động của
NHTM cổ phần và các CTTC. Các văn bản về ngân hàng phải đặt nền tảng
pháp lý để tạo ra môi trường kinh doanh ngân hàng minh bạch và nâng cao
tính cạnh tranh thông qua việc đẩy mạnh cổ phần hoá các NHTM Nhà nước
và hình thành cơ sở pháp lý rõ ràng cho việc sáp nhập, hợp nhất và phá sản
ngân hàng.
– Tăng cường kiểm soát rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Trước hết,
NHNN cần đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra việc thực hiện
các quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng của
các ngân hàng và TCTD theo quy định Luật các tổ chức tín dụng và Quyết
định số 457/2005 ngày 19/4/2005 quy định cụ thể các tỷ lệ bảo đảm an toàn
trong hoạt động của TCTD và các văn bản khác. Đặc biệt, cần nghiên cứu
xây dựng và giám sát chặt chẽ hạn mức tín dụng đối với các lĩnh vực nhạy

×