Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Tìm hiểu nguyên nhân của khủng hoảng tài chính năm 2008, nêu diễn biến và tác động tới thị trường chứng khoán việt nam.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.06 KB, 27 trang )

Bài thuyết trình thị trường chứng khốn đề tài :
Tìm hiểu nguyên nhân của khủng hoảng tài chính năm 2008, nêu diễn
biến và tác động tới thị trường chứng khoán việt nam

Phần 1 : nguyên nhân khủng hoảng ( bài thuyết trình của em
khá dài , trong bản này e chỉ tóm tắt ý chính thơi ạ ^^ )
I, cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008
Khu wall street đã hồn toàn sụp đổ trong 1 tuần lễ , kể từ ngày 15/9/2008 ,
với sự phá sản của ngân hàng đầu tư lehman brothers
Nguyên nhân
Chính sách phi điều tiết các hoạt động đầu tư của ngành ngân hàng
Chính sách lãi suất thấp trong một thời gian quá lâu của cục dự trữ liên bang
Mỹ (FED).
Các cơng cụ tài chính trực tiếp gây ra
Món nợ thế chấp bất động sản dưới chuẩn
Các cơng cụ tài chính phái sinh (vd CDO, CDS)
Ngồi ra còn do hiệu ứng đòn bẩy
II, nợ thế chấp bất động sản
Đạo luật về nhà ở : một cá nhân hay một công ty muốn mua một bất động
sản , thì phải trả ngay tiền mặt trị giá khoảng 10% đến 25% trị giá nhà, phần
cịn lại ngân hàng có thể cho vay , với điều kiên căn nhà đó được thế chấp để
bảo lãnh khoản tiền nợ => nợ thế chấp bất động sản
Trong 20 năm trở lại đây , FED đã hạ lãi suất từ 4%-5% xuống còn 1%-2%
=> dễ mượn tiền để đầu tư , mua bất động sản => giá nhà tăng=> nhiều
người thế chấp nhà vay tiền. Ngân hàng ưu đãi cho khách hàng , thậm chí có
những khoản nợ dưới chuẩn ( người vay nợ không đủ tiêu chuẩn đi vay nợ)
Như vậy nếu có nhiều người khơng có khả năng chi trả thì ngân hàng sẽ tịch
thu nhà, nhưng chưa thể bán ngay ngay trên thi trường => tính thanh khoản
kém , thiếu hụt tiền mặt trầm trọng
Điều đó khiến các tổ chức tài chính bảo hiểm cho các ngân hàng này cũng
bị thiếu tiền mặt => phá sản=> một loạt các ngân hàng cũng phá sản


III, Nằm trong mắt bão
Những năm gần đây ,động cơ của nền sản xuất nước Mỹ không còn là sản
xuất mà là tiêu thụ
Tiêu dùng được khuyến khích=> đẩy người dân tới chỗ siêu nợ, hủy hoại sự
tiết kiệm

1


Vấn đề được đặt ra : vào lúc tín dụng đóng băng , sự lạm dụng tín dụng đã
nhấn chìm người dân vào cuộc khủng hoảng xấu nhất trong 100 năm qua ,
liệu có thể khuyến khích người dân tiếp tục mua hang vì ủng hộ sự phát triển
kinh tế không
Nếu muốn bớt nợ, trong khi không tăng thêm lợi tức thì các gia đình phải
giảm chi tiêu => ảnh hưởng tai hại đến ngành bán lẻ
IV, CDS: con quái vật ăn thịt Wall street
JP Morgan đã sáng tạo ra một cơng cụ tài chính mới CDS ( tín phiếu trao
đổi món nợ xấu ) : là hình thức bảo hiểm, một đơn vị thứ ba phải nhận lãnh
rủi ro cho những món nợ trở nên xấu , và đổi lại , đơn vị này sẽ được nhận
một khoản tiền đều đặn của ngân hàng , tương tự như khoản chi phí bảo
hiểm.
CDS được kí kết thầm lặng giữa hai bên , không qua sự quản lý nào của
nhà nước , cho nên khơng có cơ chế trung gian nào để xác định được giá trị
của chúng .chúng làm thị trường chứng khoán trở nên u tối .
Trước kia CDS đã được sử dụng để khuyến khích các nhà đầu tư đi vào các
thị trường đầy rủi ro ( Nam Mỹ và Nga ) bằng cách bảo hiểm các khoản nợ
của các nước đang phát triển . Sau này , sau sự sụp đổ của công ty lớn như
Enron và World Com , người ta nhận thấy CDS là công cụ hữu hiệu để bảo
vệ các công ty khỏi sự phá sản .
Trong thời kì giá đất lên , chứng khoán thế chấp bất động sản trở thành

một loại đầu tư mới rất nóng . Ngay sau đó , các công ty giống như AIG trở
thành không chỉ là công ty bảo hiểm , mà còn phân phối CDS để bảo hiểm
tiền thế chấp bất động sản . Lỗi của AIG là áp dụng biện pháp bảo hiểm cổ
truyền vào thị trường CDS.
Vấn đề trầm trọng thêm vì có q nhiều định chế cùng dính vào một dịch
vụ. và khi tín phiếu có thế chấp bất động sản lung lay , AIG phải bồi thường
hàng tỉ USD cho những CDS này, khi khơng đủ tiền chi trả thì sẽ kéo theo sự
suy sụp của thị trường , tạo sự hoảng loạn=> nên chính phủ phải nhảy vào
cứu AIG
V,Sản phẩm xuất khẩu số một của mỹ: nợ
Từ những năm 1980 nước mỹ đã đi vào một cuộc xuât khẩu lớn, bắt đầu bằng
chi phí hao hụt lớn của chính phủ
Sau khi người nước ngồi phát hiện ra sản phẩm tài chính mới của mỹ : tín
phiếu bất động sản , tiền chảy vào mỹ như nước đồng thời thâm hụt tài khoản
vãng lai tăng nhanh chóng

Phần 2 : diễn biến của khủng hoảng ( phần này bạn Hùng làm khá
chi tiết :D )
2


Diễn biến khủng hoảng
Lược sử.
Khủng hoảng tài chính bắt đầu từ hè năm 2007 và đỉnh điểm là sự sụp
đổ của hệ thống tài chính Mỹ năm 2008. và lây lan sang châu âu và một loạt
các nước khác.
Khủng hoảng tài chính Mỹ có ngun nhân là do chính sách cho vay
bất động sản dưới chuẩn,và sự khơng kiểm sốt được các cơng cụ tài chính
phái sinh.
Bắt đầu tại Mỹ, các ngân hàng cho vay bất động sản dưới chuẩn gặp

khó khăn từ năm 2/2007. Rất nhiều người mua nhà rồi, nhưng sau đó khơng
có tiền thanh tốn cho ngân hàng hằng tháng, các ngân hàng cho vay trở nên
thiếu hụt vốn. Nhiều ngân hàng chuyên về bất động sản đã phải tuyên bố phá
sản.
Những diễn biến chính.
Tháng 6/2007 một trong những ngân hàng đầu tư lớn nhất nước Mỹ
bear stearn tuyên bố hai chi nhánh đầu tư của nó bị phá sản do vấn đề về cho
vay dưới chuẩn.
Ngày 3/8/2007 các thị trường chứng khốn giảm mạnh vì các nhà tư sợ
cơn khủng hoảng lan rộng.
Ngày 9/8/2007 ngân hàng Pháp BNP Paribas tuyên bố ngưng hoạt
động của 3 quĩ đầu tư bất động sản. NHTW châu âu ( ECB) bơm 94,8 EUR
vào thị trường tài chính.
Ngày 10/8/2007 các thị trường chứng khoán trên thế giới đều sụp đổ.
Các ngân hàng TW lại bơm tiền vào.
3


Ngày 12/2/2008 ngân hàng northern rock của Anh gặp khó khăn về vấn
đề tiền mặt, chính phủ vội vàng quốc hữu hóa nó . chính phủ đã mua hầu hết
cổ phần của nó bằng tiền mặt do đó nó mới có tiền chi trả cho khách hàng.
Ngày 16/3/2008 ngân hàng JP morgan chase, ngân hàng khổng lồ của
Mỹ mua lại Bear stearn.với giá 236 triệu USD với điều kiện bảo lãnh 30 tỉ
usd nợ của Bear stearn.
Ngày 7/8/2008 hai tổ chức tài chính lớn nhất của Mỹ Fannie mac và
Fredie mac chuyên bảo hiểm các khoản nợ bất động sản các ngân hàng nhỏ
bị áp lực thiếu tiền mặt. Giá trị cổ phiếu hai công ty này trên thị trường giảm
mạnh.
Ngày 7/9/2008 bộ tài chính Mỹ tuyên bố đặt hai cơng ty dưới sự quản
lí của chính phủ trong thời gian cơ cấu lại tài sản của chúng.

Ngày 15/9/2008 từ chối cho leman brother mượn tiền. ngân hàng này
đã đi vào phá sản. Cũng trong ngày này bank of American mua ngân hàng
đầu tư merrillynch với giá 50 tỉ usd.
Ngày 16/9/2008 Fed và bộ tài chính quốc hữu hóa AIG bằng cách
bơm 85 tỉ usd và sở hữu 79.9 % cổ phần công ty này.
Ngày 26/9/2008 ngân hàng đầu tư JP morgan mua lại ngân hàng
Washington mutual. Đây là ngân hàng thương mại phá sản lớn nhất trong
lịch sử.
Ngày 3/10/2008 chính phủ Mỹ thơng qua kế hoạch Paulson 700 tỷ usd.
Ngày 17/11 citygroup sa thải 50000 nhân viên (2007đã sa thải 23000)
Ngày 21/11 cổ phiếu của nó chỉ cịn 4 usd. ( 2007 là 20 usd ).
Ngày 23/11 chính phủ hỗ trợ citygroup 300 tỉ usd gồm 25 tỷ tiền mặt
và bảo lãnh các khoản tiền gửi, nợ cho citybank
A.

Khủng hoảng tại Mỹ.
I .khủng hoảng tại wall street.
4


Wall street tại new york là khu vực tài chính đầu tư lớn nhất nước
mỹ và cũng là lớn nhất tồn thế giới ,các tổ chức tài chính ở đây hoạt
động chủ yếu trong lĩnh vực đầu tư và chịu ít ảnh hưởng của nhà nước
như các tổ chức như ngân hàng thương mại hơn.
Ngân hàng đầu tư là một định chế tài chính uy tín tại phố wall, có
trụ sở ở khắp nơi trên thế giới. chúng vay tiền từ những nhà đầu tư và đầu
tư vào những dự án lớn, môi giới buôn bán,sát nhập các công ty lớn.
Các ngân hàng đầu tư với số tiền ít đã đi vay nợ để đầu tư.Tận
dụng hiệu ứng đòn bẩy. vốn tự có ít nhưng quản lí danh mục tài sản lớn.
Tỉ lệ đòn bẩy=tài sản/ vcsh. Morgan 1:32;goldman 1:22.

Ở Mỹ mỗi ngân hàng phải có tỉ lệ dự trũ tiền mặt là 8% để tránh rủi
ro cho các ngân hàng. Nhưng ngân hàng đầu tư thì khác. Từ xưa đến nay họ
chỉ cần bỏ ra 5 usd và được phép vay 95 usd để đầu tư vào dự án nào đó. Giả
sử ngân hàng đầu tư vay lãi được 10 usd thì lợi nhuận của ngân hàng sẽ là
rất lớn so với số 5 usd bỏ ra. Nhưng nếu thua lỗ 10 usd thì khơng những ngân
hàng mất 5 usd của mình mà cịn mất 5 usd của các nhà đầu tư không đủ tiền
mặt chi trả và dẫn đến phá sản => rất rủi ro. Đó là một trong những cơ chế
các ngân hàng đầu tư ở phố wall.
Đến tháng 9/2008 bùng nổ khủng hoảng nợ tín dụng bất động sản.
Hàng trăm ngàn người dân nợ tiền ngân hàng và khơng có tiền thanh tốn,
làm cho các ngân hàng đầu tư thiếu hàng trăm tỉ để thanh toán cho các nhà
đầu tư và nhiều ngân hàng tổ chức tài chính đã đi đến bờ vực phá sản.
3/2008 ngân hàng đầu tiên gặp khó khăn là bear stearn sau khi thiếu
nợ 29 tỉ cho các nhà đầu tư . JP morgan đã mua lại ngân hàng này với giá
236 triệu usd. Chính phủ Mỹ bảo hộ 30 tỷ trả nợ.
Tháng 9/ 2008 3 tổ hợp tài chính khổng lồ bị sụp đổ. Hai ngân hàng
đầu tư khổng lồ leman brother và merrlynch đi vào phá sản, trong đó ngân
5


hàng merrillynch được ngân hàng bank of American mua lại.Tổ chức bảo
hiểm AIG đứng thứ 3 thế giới bị đe dọa phá sản, chính phủ phải bỏ ra 85 tỉ
usd mua lại 79.9% cổ phần của AIG.


wall street chỉ còn lại hai tổ hợp tài chính lớn là JP morgan và

goldman sachs. Chính phủ yêu cầu 2 tổ chức này quay về dạng ngân hàng
thương mai cổ điển nhận tiền gửi, cho vay và phải có kí quỹ 8%.
Như vậy trong 4 ngân hàng đầu tư lớn đã có hai ngân hàng phá sản

như hai đơn vị độc lập, hai ngân hàng khác phải biến thể để tồn tại.
II. Khủng hoảng tại một số chức tài chính lớn.
1.Fannie mac và Fredie mac.
Fannie mac thành lập vào năm 1938, còn fredie mac thành lập vào
năm 1970 theo luật chống độc quyền ở Mỹ. Dưới sự bảo hộ của bộ tài chính.
Mục đích chính của hai tổ chức này là bảo hiểm các khoản vay bất động sản
có thế chấp giúp người dân mua nhà một cách đễ dàng hơn. Ví dụ họ muốn
mua nhà chỉ cần có từ 20 – 25% giá trị ngơi nhà là có thể mua được, phần
cịn lại, 80% sẽ được các ngân hàng thương mai tài trợ với điều kiện thế chấp
ngơi nhà. Người mua có thể trả hàng tháng trong vòng từ 10 – 20 năm. Vì lẽ
nào đó mà người mua khơng thanh tốn được tiền trong tháng thi ngân hàng
sẽ tịch thu ngôi nhà và đem bán đấu giá. Để tránh mọi rủi do ngân hàng
mang 80% giá trị ngôi nhà này đến bảo hiểm tại Fannie mac và Fredie mac.
Đến năm 2008 tài sản mà hai công ty naỳ nắm giữ hoặc bảo hiểm đã
lên tới 5000 tỉ usd, chiếm khoảng gần 50% thị trường bất động sản. Với
lượng tài sản lớn thế này chỉ cần thị trường bất đống sản giảm giá hoặt số nợ
khó địi các ngân hàng tăng lên thì nó cũng đã thua lỗ nặng rồi. Với tình hình
kinh tế suy thối người dân khơng trả được nợ, hàng trăm hàng ngàn căn bị
siết nợ, bán không được làm cho giá nhà giảm xuống. Các ngân hàng thương
mại bị thua lỗ đòi 2 tổ chức này bồi thường. Đến tháng 9/2008 số tiền mặt
6


phải thanh toán của 2 tổ chức này là 223 tỉ usd. Nếu khơng trả được thì phải
tun bố phá sản. và nó sẽ dẫn đến sự sụp đổ của hàng loạt các tổ chức tài
chính khác. Fannie mac và fredie mac được bộ tài chính ngầm hỗ trợ cho vay
với lãi xuất thấp ( 2 - 3 %) về các tổ chức này lại cho vãi với lãi xuất bất
động sản với lãi suất cao ( 6-8%) ngoài ra nó cịn thu lợi tức từ việc bảo
hiểm vay thế chấp bất động sản. Do đó ban lãnh đạo hai tổ chức này mạnh
tay đầu tư cho vay. Khi hai tổ chức này gặp khó khăn về vấn đề tiền mặt

chính phủ đã đặt nói dưới sụ quản lí của mình sau khi FED tiếp cho mỗi
cơng ty 100 tỷ usd để đảm bảo thanh tốn cho khach hàng.
2. Cơng ty bảo hiểm AIG.
Công ty được thành lập vào năm 1940 tại thượng hải, và là công ty
đầu tiên bán bảo hiểm tại ttrung quốc. Năm 1949 thì chuyển trụ sở về Mỹ.
Đầu tháng 9/2008 giá trị cổ phiếu AIG gần như mất hết.
6/2008 34 usd
9/2008 3.75 usd
Từ đầu năm 2008 đến 25/9/2008 giá trị cổ phiếu mất 91% giá trị.
Trong 3 quí đầu năm 2008 AIG đã lỗ 18 tỉ usd, phần lớn trong số lỗ
này là cho vay thế chấp bất động sản dưới chuẩn và các khoản bảo hiểm tín
dụng bất động sản cho các tổ chức tài chính khác. FED lo sợ sự sụp đổ của
AIG do tầm vóc của nó quá lớn sự sụp đổ của nó có thể ảnh hưởng tới tồn
bộ hệ thống tài chính. Với lượng tài sản hơn 1000 tỉ usd hầu như tất cả các tổ
chức tài chính đều có bảo hiểm tại AIG. Ban lãnh đạo AIG bày tỏ muốn vay
FED một món tiền nhưng có vẻ FED khơng đồng ý.
Đến tháng 6/2008 AIG đã phát hành bảo hiểm vay bất động sản dưới
chuẩn 440 tỉ usd. Trong thời gian này hầu hết những ngân hàng bảo hiểm tại
AIG đều thiếu tiền mặt và địi bồi thường.AIG khơng đủ sức chi trả do đó cần
gấp 85 tỉ usd để thanh toán cho khách hàng.
7


Ngày 17/9/08 FED đã cho AIG vay 85 tỉ usd theo các điều kiện sau.
Chính phủ nắm giữ 79.9 % cổ phần tại AIG, trong 2 năm phải bán tài sản để
trả lại tiền ho nhà nước với lãi suất 11.4%.
3. Lehman brother
Trong số những ngân hàng đầu tư lehman brother là mộ trong những
ngân hàng lớn nhất với hơn 100 năm uy tín. Với các lĩnh vực hoạt động chủ
yếu là ngân hàng đầu tư,quản lí tài sản…

Kết quả kinh doanh
Quí 3 năm 2008 lỗ 3,9 tỉ usd, gạch bỏ 13,8 tỉ usd nợ khó địi.
Cổ phiếu cao nhất vào tháng 2/2007: 83,3 usd/cf
Thấp nhất vào 12/9/2008 : 3.65 usd/cf
Chấm dứt vào ngày 15/9/08
Lehman - cũng như các ngân hàng đầu tư khác - đã sử dụng nghiệp vụ chứng
khốn hóa (securitisation) để biến các khoản cho vay mua bất động sản thành các gói trái phiếu
có gốc bất động sản (MBS, MBO, CDO) đầy rủi ro cung cấp cho thị trường.
Khi nền kinh tế đi xuống, người vay tiền mua nhà không trả được các khoản
vay mua nhà thì rủi ro tín dụng được chuyển sang các gói trái phiếu có các
danh mục tín dụng bất động sản làm tài sản đảm bảo. Khủng hoảng càng gia
tăng thì việc phát mại tài sản càng tăng làm giá bất động sản càng giảm. Điều
này có nghĩa giá trị tài sản đảm bảo của trái phiếu càng giảm và rủi do tăng
Vịng xốy khủng hoảng cứ tiếp tục như vậy, làm cho giá chứng khoán sụt giảm mạnh. Các
ngân hàng đầu tư mặc dù khơng nắm giữ tồn bộ rủi ro nhưng cũng trực tiếp hoặc gián tiếp
duy trì một số danh mục chứng khoán liên quan đến bất động sản. Hậu quả là hàng loạt ngân
hàng

đầu



lần

lượt

báo

cáo


các

khoản

lỗ

kinh

doanh.
8


Cơng bằng mà nói, Lehman đã lường trước được vấn đề và cố gắng khơng
dính nhiều vào tín dụng bất động sản dưới chuẩn. Trong số danh mục liên
quan đến bất động sản khoảng 60 tỷ USD thì tín dụng bất động sản dưới
chuẩn chiếm dưới 2 tỷ USD. Tuy nhiên, với sự lan rộng của khủng hoảng tín
dụng mà tín dụng dưới chuẩn chỉ là mồi lửa ban đầu thì Lehman đã khơng
kịp

thốt.

Ngồi các gói trái phiếu liên quan đến bất động sản, Lehman còn đầu tư trực
tiếp hoặc gián tiếp vào bất động sản thương mại. Lehman có thể cấu trúc các
giao dịch này thông qua cung cấp vốn nợ hoặc vốn chủ sở hữu cho các công
ty con hoặc liên doanh đầu tư bất động sản. Khi thị trường bất động sản đi
xuống thì các giá trị bất động sản thương mại này cũng giảm theo.
Tại thời điểm cuối tháng 8, Lehman nắm danh mục khoảng 52 tỷ USD liên
quan đến bất động sản, trong đó 24 tỷ USD chứng khoán bất động sản nhà ở,
17 tỷ USD chứng khoán bất động sản thương mại và 11 tỷ đầu tư trực tiếp.
So với tương quan tổng tài sản khoảng 600 tỷ USD và vốn chủ khoảng 20 tỷ

USD

thì

đây



một

danh

mục

lớn.

4. Washington mutual
Ngân hàng được thành lập năm 1889 năm 2008 tài sản lên đến 208 tỉ
usd chủ yếu là cho vay bất động sản dưới chuẩn và đầu tư vào các dự án bất
động sản.
Tháng 9/2008 nợ khó địi đã lên đến 31 tỉ usd ngân hàng khơng có tiền
mặt để chi trả. Đầu năm 2008 giới đầu tư mất đầu tư vào ngân hàng bán
tháo cổ phiếu của wahu trên thị trường chứng khoán. Trong 1 năm cổ phiếu
đã giảm 95 % từ 36.47 usd (2007) xuống 1.69 usd vào 9/2008
9


Ngân hàng này bị tịch thu bởi công ty liên bang bảo hiểm tiền gửi tich
thu và bán lại toàn bộ tài sản cho ngân hàng đầu tu JP morgan với giá 1.9 tỉ
usd. Đây là vụ phá sản ngân hàng thương mại lón nhất trong lịch sử tài chính

nước Mỹ.
III. kế hoạch giải cứu hệ thống tài chính của chính phủ - kế hoạch
Paulson.
Sau khi giải cứu phố wall, chính phủ u cầu kiểm kê lại thình hình tài
chính các tổ chức, phát hiện ra lỗ hổng khoảng 700 tỉ usd trong hệ thơng tài
chính nước Mỹ.
Ngày 3/10/2008. thơng qua kế hoạch Paulson với một số nội dung
chính sau đây.
- Chính phủ có thê mua lại tồn bộ các tín phiếu có thế chấp bất
động sản từ các định chế tài chính với giá cao nhất là 700 tỉ usd. Được
chia làm 3 giai đoạn trước mắt là 250 tỉ sau đó là 100 tỷ do nhà trắng
quyết định cịn 350 tì phải thơng qua quốc hội.
- Nếu sau khi bán các bất động sản mà các tổ chức này khơng giả
tiền cho nhà nước thì nhà nước sẽ mua cổ phiếu của chính các tổ chức
này.
- Chính phủ lập ra một quĩ bảo hiểm các tín phiếu bất động sản rủi
ro, các định chế tài chính sẽ đóng góp tài trợ cho quĩ này.
- Chính phủ giới hạn tiền lương cán bộ cao cấp của các tổ chức
không quá 500000 usd/ năm.
- Chính phủ tăng tiền gửi của dân chúng từ 100000 usd/năm lên
250000 usd/ năm một người/1tk/1nh.
- 5 năm nữa chính phủ sẽ ban hành kế hoạch mới cho phép các tổ
chức hoàn trả lại các khoản vay
10


- Ban hành qui tắc mới về kế tốn, có thể đánh giá chính xác hơn về
tình hình tài chính của các tổ chức.
- Giảm thuế tạm thời cho các tổ chức tài chính nào khơng thu tiền
lãi các khoản vay bất động sản.

Sau khi thông qua kế hoạch Paulson, 700 tỉ usd này sẽ được dùng một
phần để tăng vốn cho các ngân hàng. Fed cho danh sách 10 – 15 tổ chức mỗi
đơn vị nhận được 10 tỉ usd vốn để đổi lại 1 phần cổ phần cho nhà nước.
B.khủng hoảng tại châu âu
I. bão nổi tại Iceland.
Iceland là một quốc gia nhỏ ở phía bắc nước Anh. Chủ yếu sinh sống
bằng nghề đánh bắt cá và xuất khẩu cá. 10 năm gần đây nghành ngân hàng
phát triển mạnh mẽ. Ba ngân hàng lớn của quốc gia này đã có trụ sởtại Anh,
ha lan…Ở Anh hàng trăm ngàn dân, các quĩ hưu trí, quĩ tiền gửi đều gửi tiền
tại các ngân hàng này. Chính sách địn bảy thả lỏng đã giúp các ngân hàng
này có lượng tài sản tăng rất nhanh. Dùng tiền gửi các lãnh đạo ngân hàng
này đã đầu tư vào phố wall từ cổ phiếu cho đến bất động sản dưới chuẩn.
Khi thị trương thuận lợi các ngân hàng có những khoản lời kếch xù những
tuần cuối tháng 9/2008 khủng hoảng tại phố wall đã lan sang Iceland. Chính
phủ cứu ngân hàng nhưng ngân khố khơng có tiền, chính phủ lại đi vay các
nước châu âu. Nhưng trong tình hình tài chính khó khăn thế này khơng quốc
gia nào giám cho vay. Chính phủ lúng túng vội vàng quốc hữu hóa hai ngân
hàng lớn nhất nước này trong tình trạng khơng có tiền chính phủ khơngbiêt
làm thế nào liền đóng băng các tài khoản tiền gửi. Khách hàng hoảng sợ
trong đó có rất nhiều tiền gửi là của dân anh. Thủ tương Anh cho rằng các
ngân hàng này đã phản bội dân Anh, ông đã cho đóng băng các tài khoản
của các ngân hàng nay chi nhánh tại Anh, các ngân hàng dưng trước bờ vực
phá sản. Một thời gian sau thủ tướng Anh đã dịu giọng và cho vay 100 – 200
11


triệu usd. Nhưng số tiền này quá nhỏ bởi vì nguyên tiền gửi tại các quĩ ở Anh
đã lên tới 2 tỉ usd, số tiền cho vay này chỉ đủ thanh toán cho khach hàng cá
nhân.
15/10/2008 Iceland đã phải cử phái đoàn sang Nga để vay 6 tỉ usd.

II. khủng hoảng hệ thống ngân hàng tại châu âu.
Nhiều ngân hàng ở châu âu tham gia vào tài trợ thị trường bất động
sản dưới chuẩn, nên khi thị trường tài chính Mỹ đi vào khủng hoảng nó đã
ảnh hưởng mạnh đến hệ thông ngân hàng châu âu.
- Tại Anh nhiều ngân hàng đã gặp khó khăn trong vấn đề tiền mặt:
Ngày 2/8/2008 northern rock đã thiếu tiền mặt trầm trọng, người Anh
nối đi nhau đến rút tiền tại ngân hàng. Chính phủ đã phải quyết định quốc
hữu hóa nó để ngăn chặn khủng hoảng lan sang các ngân hàng khác
Ngày 9/8/2008 một ngân hàng khác của anh là Halifax bank ò
Scotland phát hiện lỗ nặng với các khoản vay bất động sản và được chính
phủ Anh cho phép sát nhập với ngân hàng LOYDS TSB mặc dù ngân hàng
này có tài sản nhỏ hơn. Làm cho ngân hàng trở thành ngân hàng lớn thứ 3 ở
Anh với 28% thị phần bất động sản ở Anh.
- Tại Thụy sỹ ngân hàng UBS gạch bỏ 44 tỉ usd nợ khó địi chủ yếu là
bất động sản dưới chuẩn. chính phủ đã bơm cho ngân hàng này 60 tỷ.
- Tại ý thủ tướng Ý nói rằng ơng hi vọng khơng có phá sản ở Ý. Các
ngân hàng ở Ý rất bảo thủ trong vấn đề cho vay bất động sản, họ chỉ cho vay
50% giá trị ngơi nhà, một số ngân hàng Ý cịn dư nhiều tiền mặt.
III.Các nước châu âu cứu nguy ngân hàng.
Đức xung phong bỏ ra 400 tỉ eur bảo hiểm cho tín dụng ngân hàng,
bơm 80 tỉ vào ngân hàng.
Pháp bỏ ra 320 tỷ EUR vào dịng chảy tín dụng của hệ thống ngân
hàng
12


Ý tuyên bố chi bao nhiêu cũng được để chặn đúng khủng hoảng.
Hà lan và Tây ban nha quyết định chi 200 tỉ eur và 100 tỉ eur để vực hệ
thống ngân hàng.
C. Khủng hoảng tại Châu á - Trung quốc.

Cơn sóng khủng khoảng tài chính ở Mĩ và châu Âu đã lan sang châu á
đặc biệt là Trung quốc nước có nền kinh tế đứng thứ 4 thế giới năm 2007.Tác
động của cuộc khủng khoảng tài chính đến Trung Quốc ngày càng trầm
trọng.Trung Quốc mặc dầu có quỹ tiền tệ rất lớn ,quỹ dự trữ ngoại tệ trên
2000 tỷ USD,nhưng khơng được che chắn khỏi sự suy sụp tồn cầu đã bắt
đàu suy thoái ngay từ giữa năm 2008.Nguyên nhân do đâu và tại sao Trung
Quốc lại công bố một kế hoạch cứu nguy 590 tỷ USD-một kế hoạch lớn gần
bắng kế hoạch 700 tỷ cứu nguy tài chính của Washington- chỉ vài ngày sau
khi họ cho biết là kinh tế tăng trưởng 9% vào quý 3 năm 2008.
Trước hết chúng ta sẽ nhìn lại Trung Quốc từ giữa những năm
2008.Tình hình suy thối nội địa :các nhà xuất khẩu phá sản ,xây dựng suy
sụp,xí nghiệp sa thải cơng nhân và cơng nhân biểu tình diễn ra ở rất nhiều
tỉnh của Trung quốc.
Lĩnh vực thương mại được coi là 1 lĩnh vực đóng góp lớn trong GDP
của Trung Quốc (chiếm tới 40% GDP những năm qua) bị ảnh hưởng nặng
nhất của khủng khoảng toàn cầu.Xuất khẩu giảm sút nghiêm trọng nhưng số
lượng hang nhập khẩu còn giảm mạnh hơn nữa.Điển hình nhất tháng 112008,xuất khẩu giảm 2,2% khi tính trên USD sau 7 năm tăng trưởng.Nếu đổi
sang đồng nhân dân tệ thì xuất khẩu giảm tới 9,6% vào tháng 11,trừ đi cả
lạm phát số suy giảm 11,4%.Tại các bến cảng Trung Quốc,bãi chứa
container trước đầy ắp hàng bây giờ trống rỗng.Đó là hậu quả của hang
triệu người dân nước Mĩ đã mất tin tưởng vào nền kinh tế.Họ cảm thấy nghòe
13


hơn,giảm bớt tiêu dùng.Từ đó các nhà bán lẻ Mĩ tìm cách trả chậm cho các
hang hóa xuất khẩu từ Trung Quốc.Chuyện này

các nhà cung cấp Trung

Quốc phải vay them tiền bù vào chỗ trống.Một số công ty Trung Quốc khơng

vay được đã phải đóng cửa.Cùng lúc đó các nhà bán lẻ của Mĩ đòi các nhà
cung cấp Trung Quốc phải có bảng cân đối kế tốn tốt và khơng phá sản
trước khi hoàn thành việc giao hàng.Các nhà xuất khảu thì lo ngại người mua
hàng phá sản,rất phân vân khi chất hàng lên tàu.Một vấn đề nữa cũng gây
thiệt hại cho các nhà xuất khẩu Trung Quốc là việc Trung Quốc hỗ trợ các
nhà xuất khẩu về giá các mặt hàng.Biện pháp này tạo ra mối quan ngại cho
các nhà châu Á đang có hàng cạnh tranh với Trung Quốc có thể đưa tới
chính sách bảo hộ chống Trung Quốc.Indonexia,một trong những thị trường
lớn của châu á,áp dụng 1 loạt các biện pháp bảo hộ,hạn chế các mặt hàng
nhậ khẩu quần áo,đồ điện tử ,giầy dép,đồ chơi,thực phẩm có xuất sứ từ
Trung Quốc gây thêm khó khăn cho xuất khẩu Trung Quốc.Tình trạng trên
khiến nhiều xí ngiệp Trung Quốc đã phải đóng cửa.
Tại tỉnh Quảng Đơng rất nhiều xí nghiệp đã đóng cửa mà khơng trả
nổi lương cho nhân viên,một số nhân viên đã xin nghỉ sớm và đòi được phát
lương ngay trước khi chủ xí nghiệp xin phá sản.
Tại Tứ Xuyên các miền sâu trong nội địa cán bộ thị xã xoay sở đủ
cách đẻ tạo việc làm cho hàng nghìn lao đọng di cư (từ nơng thơn ra thành
thị),giờ họ trở về quê và gia đình họ khơng cần tới họ trong cơng việc địng
áng.
Tại Hồng Kong có khoảng từ 10000-60000 xí nghiệp sẽ phải đóng
cửa hay đã đóng cửa trong thời gian sắp tới và ảnh hưởng của nó cịn nằng
nề hơn trong đại lục.Vì các xí nghiệp trong đại lục bình thường ít và nhỏ hơn
các xí nghiệp của Hồng Kong.

14


Xuất khẩu suy giảm ảnh hưởng mạnh mẽ lên các lĩnh vực dệt may,cơng
nghiệp,và bất động sản vì giá bất động sản ở Trung Quốc đã giảm 35% so
với thời điểm năm 2007.Tháng 8 năm 2008 số lượng nhà mới xây được bán

ra tại 16 vùng lớn ở Trung Quốc đã giảm 15% so với năm trước .Số lượng
nhà bán ở Bắc Kinh giảm 55% và ở Thượng Hải giảm 38% đã kéo theo số
bán giảm của các mặt hàng tiêu thụ dài hạn ví dụ các sản phẩm gia
dụng.Diễn biến thị trường thép và oto cũng không mấy sáng sủa.Số lượng xe
bán nội địa cũng thu nhỏ hơn so với năm trước.Giá một số kiểu xe đã bị giảm
một nửa so với năm ngoái.Giá bán các sản phẩm từ thép giảm mạnh.
Lĩnh vực tiền tệ:các NHTM có tới 65% tiền vay nợ là các khoản thế
chấp bất động sảm.Đáng chú ý là không phải người Trung Quốc vay tiền
ngân hàng với lý do mua nhà mà thực ra họ dùng tiền để mua xe ơto hoặc
chứng khốn.Như vậy hiện nay nợ của Trung Quốc được tài trợ bằng tín
dụng bất động sản dưới chuẩn rất nguy hiểm.Cũng giống như Mĩ khi thị
trường bất động sản suy sụp làm cho thị trường tiền tệ suy sụp hệ lụy tới nền
kinh tế thực trong bối cảnh nền kinh tế thực đang trì trệ.Một cuộc khủng
hoảng kinh tế thực tồn cầu có thể diễn ra bất cứ lúc nào.Điều này là rất
nguy hiểm.
Đứng trước tình hình đó chính phủ Trung Quốc có kế hoạch kích
thích nền kinh tế đang kiệt quệ bằng gói kích cầu 586 tỉ USD.Gói kích cầu
này tập trung vào cơ sở hạ tầng nhà ở nông nghiệp tiêu thụ nội địa và an sinh
xã hội.Tuy nhiên phân nửa tổng số tiền lại được tập trung cho kế hoạch kích
cầu vào hệ thống giao thong ,cơ sở hạ tầng chỉ cịn lại số ít là chi mới cho an
sinh xã hội,tiêu thụ nội địa.Cơ cấu chi phí kiểu này khơng có gì mới tại Trung
Quốc.Năm 2007 chi phí nhà nước cho y tế,bảo hiểm xây dựng phụ cấp thất
nghiệp tổng cộng 88 tỉ USD và bằng 2,4% GDP.Vậy thì tại sao người ta vẫn
chi mạnh cho phát triển cơ sở hạ tầng trong khi đó cơ sở hạ tầng Trung Quốc
15


giờ rất phát triển.Nguyên nhân chính là người trong chính phủ chỉ nhìn thấy
những cái làm trước mắt ,cái mà mình làm được trong nhiệm kì của mình thì
mới dễ được công nhận.


16


Phần 3 : tác động tới thị trường chứng khoán việt nam
Những tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 đến hệ
thống ngân hàng và thị trường chứng khoán Việt Nam:
Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ là tác động mang tính hai
chiều, song chủ yếu là tác động tiêu cực tới nền kinh tế toàn cầu cũng như
của Việt Nam. Do sự hội nhập ngày càng sâu và rộng của nền kinh tế Việt
Nam vào thế giới nên Việt Nam chịu những tác động nhất định, tuy không
trực tiếp.
Những tác động đến hệ thống ngân hàng:
Từ việc phân tích nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu xuất
phát từ nước Mỹ nêu trên, chúng ta có thể khẳng định là cuộc khủng hoảng
này sẽ khơng có tác động đáng kể đến hệ thống ngân hàng Việt Nam, bởi lẽ:
Thứ nhất, mức độ hội nhập của nền kinh tế Việt Nam nói chung và của hệ
thống ngân hàng nói riêng với nền kinh tế và hệ thống ngân hàng Mỹ và thế
giới chưa sâu. Các ngân hàng Việt Nam hiện nay chủ yếu làm cầu nối cung
cấp dịch vụ thanh toán, bảo lãnh và bao thanh toán cho các doanh nghiệp
xuất, nhập khẩu. Bên cạnh đó, lượng vốn của các ngân hàng Việt Nam vay
trên thị trường quốc tế là không lớn nên có thể loại trừ khả năng xuất hiện
hiệu ứng rút vốn ồ ạt gây nên rủi ro về thanh khoản của hệ thống ngân hàng.
Thứ hai, các ngân hàng và các tổ chức tài chính Việt Nam khơng sở hữu các
MBS của Mỹ, do vậy không phải gánh chịu những khoản lỗ phát sinh do công
cụ này giảm giá. Mặt khác, cấu trúc của hệ thống ngân hàng Việt Nam còn
khá đơn giản, các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng chưa phát triển, chưa có
sự liên thơng ở mức tinh vi giữa TTBĐS và TTCK thông qua các công cụ phái
sinh tương tự như MBS của Mỹ. Các ngân hàng Việt Nam đầu tư vào bất
động sản chủ yếu thơng qua hình thức trực tiếp là cho vay có đảm bảo bằng

tài sản hoặc bằng chính bất động sản hình thành từ vốn vay nên khả năng tạo
hiệu ứng dây chuyền kiểu Mỹ khi bất động sản giảm giá là rất khó xảy ra.
Tuy nhiên, mặc dù hệ thống ngân hàng Việt Nam không chịu ảnh hưởng trực
tiếp từ cuộc khủng hoảng tài chính đang diễn ra nhưng khơng phải là khơng
có vấn đề. Những vấn đề mà hệ thống ngân hàng gặp phải chủ yếu phát sinh
từ những yếu tố nội tại.
17


Trước hết, là vấn đề mơ hình của hệ thống ngân hàng. Theo Khoản 2, Điều
20 của Luật các tổ chức tín dụng được Quốc hội ban hành năm 1997 và được
sửa đổi, bổ sung năm 2004 thì các loại hình ngân hàng ở Việt Nam bao gồm:
ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng
chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác. Nhưng dưới
gốc độ lập pháp thì cho đến nay, chúng ta vẫn chưa có sự phân biệt rõ ràng
về chức năng của từng loại ngân hàng. Đặc biệt, chưa có một văn bản pháp
quy nào được ban hành để điều chỉnh hoạt động của ngân hàng phát triển và
NHĐT – là những hoạt động kinh doanh ngân hàng có rủi ro cao nhất. Chính
sự mập mờ này đã tạo điều kiện cho các NHTM, các CTTC “lấn sân”. Và
trên thực tế, nhiều NHTM và các CTTC đã “không ngần ngại” đầu tư vào bất
động sản và chứng khốn đã mang lại khơng ít hệ lụy cho nền kinh tế, góp
phần khơng nhỏ vào việc đẩy nền kinh tế đi đến lạm phát thời gian đó.
Tiếp theo, là sự ra đời ồ ạt của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng phi
ngân hàng, đặc biệt là các CTTC. Cho đến thời điểm tháng 3/2009, chúng ta
đã có trên 80 ngân hàng thương mại và trên 20 cơng ty tài chính. Phần lớn
các CTTC đều có nguồn góc vốn góp từ các tập đồn kinh tế, các tổng cơng
ty nhà nước lớn. Với vai trị tạo vốn và điều hoà vốn giữa các thành viên
trong tập đoàn, tổng công ty, cho nên CTTC dễ dàng bỏ qua những chuẩn
mực cần thiết của hoạt động tín dụng trong việc tài trợ vốn cho các thành
viên, các dự án của tập đồn và tổng cơng ty. Điều này khơng những làm cho

rủi ro tín dụng tăng lên mà cịn làm tăng nguy cơ “hiệu ứng dây chuyền” khi
thị trường tiền tệ hoặc lĩnh vực kinh doanh chính của tập đồn, tổng cơng ty
có biến động mạnh. Việc có q nhiều ngân hàng (trong đó, có khoản 25%
ngân hàng có hiệu quả kinh doanh hạn chế) và các CTTC sẽ dẫn đến hai
nguy cơ lớn là khả năng huy động vốn để duy trì kinh doanh ổn định và khả
năng quản trị ngân hàng, đặc biệt trong giai đoạn khó khăn hiện nay.
Bên cạnh đó, tỷ lệ nợ xấu đang có xu hướng gia tăng do tăng trưởng tín dụng
khá cao cũng đặt hệ thống ngân hàng trước những thách thức không nhỏ.
Theo số liệu từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tổng dư nợ tín dụng cho vay
kinh doanh bất động sản hiện nay khoảng 115.500 tỷ đồng, chiếm 9,15% trên
tổng dư nợ toàn hệ thống. Riêng năm 2007, tỷ lệ tăng trưởng tín dụng của hệ
thống ngân hàng Việt Nam năm 2007 là 53% – một con số khá cao cộng với
khoảng 50% các khoảng dư nợ được thế chấp bằng bất động sản sẽ làm tăng
tỷ lệ nợ xấu trong những tháng cuối năm 2008 khi các khoản cho vay vào bất
động sản trước đây lúc thị trường này cịn hấp dẫn sẽ đáo hạn. Trong tình
hình TTBĐS vẫn chưa có dấu hiệu khởi sắc thì việc các ngân hàng phải đối
diện với khoản lỗ lớn là khó tránh khỏi.
18


Ngồi ra, nguy cơ về tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng vẫn đang còn
tiềm ẩn, mặc dù các giải pháp thắt chặt tiền tệ, ổn định kinh tế vĩ mơ, kìm chế
lạm phát của Chính phủ đã phát huy tác dụng. Đầu 2009: lãi suất cơ bản qua
bốn đợt cắt giảm trong một thời gian ngắn đã được hạ xuống còn 10%, tỷ lệ
dự trữ bắt buộc cũng được giảm xuống đáng kể đi kèm theo việc tăng lãi suất
trên tỷ lệ này, lãi suất cho vay trên thị trường liên ngân hàng và chiết khấu
giấy tờ có cũng giảm khá mạnh. Song song đó, NHNN đã mua lại tín phiếu
bắt buộc phát hành cho các ngân hàng trước thời gian đáo hạn trị giá 20,3
ngàn tỷ đồng. Những động thái trên là dấu hiệu “nới lỏng chính sách tiền tệ”
một cách linh hoạt của Chính phủ nhằm tăng tính thanh khoản cho hệ thống

ngân hàng, tạo điều kiện để ngân hàng hạ lãi suất cho vay để các doanh
nghiệp có thể tiếp cận nguồn vốn. Qua đó, kích thích sản xuất chống lại nguy
cơ giảm phát và duy trì mức tăng trưởng của nền kinh tế. Nhưng khi, lượng
tiền mặt trong hệ thống tăng lên và các ngân hàng đã giảm đáng kể lãi suất
cho vay tương đương với mức cuối năm 2007 thì các doanh nghiệp lại tỏ ra
không mấy mặn mà. Nguyên nhân chủ yếu được xác định là do ảnh hưởng
của đợt lạm phát trong nước khi đó và của cuộc khủng khoảng tài chính tồn
cầu đang diễn ra đã làm sức mua trong nước và trên thị trường các nước vốn
là nơi tiêu thụ truyền thống sản phẩm xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt
Nam giảm mạnh. Như vậy, hệ thống ngân hàng Việt Nam lại đối diện với một
thách thức mới. Đó là tìm đầu ra cho những đồng vốn của mình. Trong điều
kiện TTBĐS “đóng băng” và TTCK liên tục tuột dốc thì rõ ràng đây thật sự
là một bài tốn khó.
Những tác động đến thị trường chứng khốn (TTCK):
Các nghiên cứu cho thấy, cơn bão tài chính thế giới chưa có những tác động
lớn trực tiếp đến nền kinh tế nói chung và TTCK Việt Nam nói riêng. Cơ sở
của những kết luận trên là tính liên thơng và hội nhập của nền kinh tế Việt
Nam với nền kinh tế và thị trường tài chính thế giới chưa cao. Tuy nhiên, nếu
xem xét một cách thấu đáo có thể thấy rằng mặc dù không chịu ảnh hưởng
trực tiếp nhưng TTCK Việt Nam cũng đã chịu sự tác động nhất định từ cuộc
khủng hoảng tài chính tồn cầu. Sự tác động này biểu hiện trên các phương
diện sau đây:
Một là, khủng hoảng tài chính với sức lan tỏa nhanh chóng đã tác động đến
các quốc gia vốn là thị trường xuất khẩu hàng hoá của nhiều doanh nghiệp
niêm yết như Mỹ, Liên minh Châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc… Thị trường co
lại. Những đơn hàng chật vật kiếm được cũng chỉ đủ để doanh nghiệp (DN)
hoà vốn. Cơn bĩ cực của nền kinh tế đã ngấm sâu trong các nhà xưởng, trong
19



những hợp đồng xuất khẩu và trong doanh thu đang ngày một "khiêm tốn"
của các DN. Khủng hoảng tài chính làm sức mua của các thị trường trên
giảm sút nghiêm trọng ảnh hưởng đáng kể đến kế hoạch doanh thu và lợi
nhuận của các doanh nghiệp niêm yết làm giá cổ phiếu của các doanh nghiệp
này vốn đang sụt giảm lại khó có khả năng phục hồi.
Figra đến KCN Đài Tư,Long Biên, Hà Nội đã được 4 năm, hoạt động theo
hình thức tạm nhập tái xuất. Sản phẩm là những bộ bàn ghế xuất khẩu 100%
sang Nhật Bản. Cơn suy thối kinh tế tồn cầu đã khiến cho DN này không ký
được hợp đồng nào cho năm 2009, trong khi tiền nợ thuê mặt bằng, nhà
xưởng cứ gối đầu nhau tháng sau cộng dồn tháng trước. Đây cũng là DN đầu
tiên trong KCN Đài Tư buộc phải giải thể do khủng hoảng.
Một loạt những dây chuyền sản xuất linh kiện điện tử, máy tính… trong
những nhà máy lớn như Canon, Panasonic… đều phải dừng hoạt động vì
thiếu đơn hàng. Trong lúc này, chỉ những dây chuyền sản xuất đồ gia dụng
mới hoạt động bình thường. Kế hoạch sản xuất của những DN thương hiệu
lớn này được phân bổ từ Công ty mẹ đều ít đi và mang tính ngắn hạn. Các
DN đang phải chịu ứ đọng vốn đầu tư rất nhiều mà chưa thể hoạt động sinh
lời. Không chỉ thiệt hại cho DN mà cơ hội việc làm cho người lao động cũng
bị giảm bớt.
Giá cổ phiếu tại thị trường Việt Nam chỉ trong vòng 1 tháng (từ 18/7/200817/8/2008) đã giảm khoảng 11,2%.Mức giảm chung tại TTCK khu vực châu
Á từ ảnh hưởng của TTCK Mỹ là khoảng 15% (chỉ duy nhất Trung Quốc tăng
18,2% do nước này đã áp dụng biện pháp về kiểm soát vốn).
Hai là, khủng hoảng tài chính đã làm cho các nhà đầu tư nước ngồi bán
rịng cổ phiếu, trái phiếu. Huy động vốn gián tiếp vào thị trường cổ phiếu
Việt Nam rất khó khăn do các nhà đầu tư sẽ hướng tới các kênh đầu tư an
toàn (flight to quality). Việc bán tháo chứng khốn khỏi thị trường Việt Nam
là có thể, mặc dù xác suất khơng cao do tính thanh khoản và quy mô của thị
trường.
Điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường chứng khốn và q trình cổ
phần hóa các doanh nghiệp nhà nước lớn trong các năm tới. Việc huy động

vốn thơng qua thị trường vốn khó khăn trong khi thị trường tín dụng thắt chặt
sẽ chặn dịng vốn và đẩy chi phí tài chính của các doanh nghiệp lên cao. Một
khía cạnh khác của đầu tư gián tiếp là các giao dịch chênh lệch lãi suất
(carry trade) nhằm hưởng chênh lệch lãi suất giữa 2 đồng tiền trong khi tỷ

20


giá ổn định. Các giao dịch này thường mang tính đầu cơ ngắn hạn cao. Với
lãi suất toàn cầu sụt giảm và chính sách tỷ giá neo VND vào USD của Việt
Nam trong khi lãi suất VND vẫn ở mức cao, có thể dịng vốn này sẽ chảy vào
trong một số giai đoạn nhất định nhằm khai thác cơ hội chênh lệch. Trong
những trường hợp thối vốn, dịng vốn này có thể tạo áp lực tỷ giá cho VND.
Việc phát hành chứng khoán huy động vốn trên thị trường quốc tế cũng sẽ
khó khăn và chi phí tăng cao.
Tính từ đầu tháng 8/2008 đến đầu tháng 10/2008 các nhà đầu tư nước ngồi
đã liên tục bán rịng cổ phiếu với tổng giá trị lên 1.278 tỷ đồng và khoảng
13,5 ngàn tỷ đồng đối với trái phiếu. Với giá trị bán ra khổng lồ này đã góp
phần khơng nhỏ vào sự sụt giảm của chỉ số VN-Index và Hastc-Index thời
gian đó. Trước đó, nhiều ý kiến đã “trấn an” các nhà đầu tư là sẽ khơng có
chuyện các nhà đầu tư ngoại rút vốn vì phần lớn các quỹ đầu tư nước ngồi
tại Việt Nam là các quỹ đóng. xét về bản chất thì các quỹ đóng khơng mua
lại chứng chỉ đã phát hành cho nhà đầu tư nhưng họ hoàn tồn có thể thực
hiện tái cấu trúc danh mục đầu tư của mình, trong đó có việc bán chứng
khốn ở thời điểm này để mua vào thời điểm khác hoặc bán ở thị trường này
để đầu tư vào thị trường khác hoặc đầu tư vào thị trường ngoại hối. Thực tế
cho thấy, đồng nội tệ của nhiều quốc gia bị ảnh hưởng nặng bởi lạm phát đã
mất giá so với đồng USD vài chục phần trăm trong khi sự giảm giá của đồng
Việt Nam so với đồng USD và các ngoại tệ mạnh khác là không đáng kể. Khả
năng nhà đầu tư nước ngoài đã nhận định rằng đồng Việt Nam sẽ tiếp tục

mất giá cũng như các đồng tiền khác nên đã bán chứng khoán để mua ngoại
tệ nhằm kiếm lời là rất có thể. Nếu kịch bản diễn ra đúng như họ dự đốn thì
khi đó họ sẽ bán ngoại tệ để tiếp tục đầu tư vào chứng khoán.
Thứ ba, tác động rõ nét nhất của cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu đến
TTCK Việt Nam là ở yếu tố tâm lý. Thật ra, yếu tố tâm lý trên TTCK thì ở
quốc gia nào cũng có, đặc biệt là các quốc gia có thị trường này mới hình
thành. Yếu tố tâm lý đã làm cho TTCK Việt Nam bao phen lâm vào tình trạng
mất cân đối cung cầu: khi giá chứng khốn lên thì mua khơng được, ngược
lại khi giá rớt thì chỉ tồn lệnh bán mà khơng có lệnh mua. Sở dĩ có hiện
tượng này là do phần nhiều các nhà đầu tư Việt Nam chưa chuẩn bị kiến thức
và bản lĩnh cũng như kinh nghiệm cần thiết để tham gia mua bán chứng
khốn, mặt khác mơi trường thông tin chưa thật sự đảm bảo cho thông tin
đến với tất cả các nhà đầu tư cùng một lúc và chuẩn xác. Việc đầu tư theo
đám đông đã gây khó khăn trong việc hoạch định chính sách và điều tiết thị
trường của cơ quan quản lý và trở thành mảnh đất màu mỡ cho các hành vi
21


làm giá, giao dịch nội gián, tung tin đồn thất thiệt…để trục lợi. Tâm lý mua
bán theo đám đông lại trở nên nặng nề hơn khi nền kinh tế bị lạm phát. Mỗi
khi các thông tin về việc tăng giá xăng dầu, NHNN tăng lãi suất cơ bản hoặc
chỉ số giá tiêu dùng được công bố đều nhận được phản ứng tức thời từ
TTCK. Trong giai đoạn này, các nhà đầu tư nước ngoài được xem là nhân tố
dẫn dắt thị trường. Động thái mua vào hoặc bán ra của họ cũng sẽ làm cho
giá chứng khoán tăng hoặc giảm theo. Nhưng từ cuối tháng 9/2008 đến
những tháng đầu 2009, rất nhiều thông tin tốt về nền kinh tế được phát đi như
lãi suất cơ bản và giá xăng liên tục giảm, chỉ số giá tiêu dùng giảm đáng kể
đã khơng nhận được những phản ứng tích cực nào từ thị trường và chỉ số
chứng khoán cả 2 sàn Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội đều giảm. Điều đó
cho thấy nhà đầu tư Việt Nam đã khơng cịn quan tâm đến các thông tin tốt từ

nền kinh tế trong nước nữa. Cái mà họ quan tâm là diễn biến tình hình giao
dịch ở các TTCK Mỹ, Anh, Nhật Bản…thế nào và sẽ có hành vi đầu tư tương
tự. Trong những tháng đầu 2009, diễn biến của các chỉ số chứng khốn Việt
Nam ln cùng chiều với chỉ số của các thị trường trên. Vậy là cuộc khủng
hoảng tài chính tồn cầu đã chuyển hướng tâm lý đầu tư của các nhà đầu tư
Việt Nam: từ đầu tư theo nhà đầu tư nước ngoài ở trong nước sang đầu tư
theo các “nhà đầu tư ngoài nước”. Tâm lý này trở thành một rào cản không
nhỏ cho các nỗ lực của Chính phủ nhằm vực dậy TTCK. Nhiều chuyên gia đã
chỉ ra rằng, khi thị trường tài chính có biến động mạnh ở một hoặc nhiều
nước phát triển, các TTCK tồn cầu có độ liên thơng lớn hơn rất nhiều so với
thời kỳ ổn định và Việt Nam cũng không nằm ngồi quy luật đó.
Thứ tư, tâm lý giá xuống đã làm méo mó vai trị là “phong vũ biểu” phản ánh
“sức khỏe” nền kinh tế và đe dọa tính thanh khoản của thị trường. Đó là khi,
giá chứng khốn xuống q thấp thì người bán lại khơng muốn bán nhưng
người mua cũng sẽ khơng dám mua do vẫn cịn lo sợ chứng khốn sẽ tiếp tục
giảm nữa. Khi đó từ “khủng hoảng niềm tin” thị trường sẽ chuyển sang một
cuộc khủng hoảng khác nguy hiểm hơn nhiều: khủng hoảng về tính thanh
khoản.
Thứ năm, mặc dù khơng phải phát sinh mới đây do cuộc khủng hoảng tài
chính tồn cầu nhưng TTCK Việt Nam vẫn còn tồn tại rất nhiều những vấn đề
khác như các vấn đề về khung pháp lý, vai trị quản lý, giám sát của Nhà
nước, tính minh bạch của thị trường:
Vẫn có những hoạt động làm giá, thao túng cổ phiếu, thao túng thị trường
khiến cho nhà đầu tư (NĐT) bất an, họ rất ngại trong việc đầu tư giá trị, mà
dần dần chuyển sang lướt sóng nhiều hơn..
22


Còn nhiều quy định như T cộng (T+), giao dịch chỉ một chiều, vẫn còn các
lệnh ATO, ATC; mỗi NĐT chỉ được mở 1 tài khoản giao dịch, còn thiếu các

công cụ phái sinh để thêm nhiều sản phẩm cho thị trường và phòng chống rủi
ro..
Giải pháp cho hệ thống ngân hàng và thị trường chứng khoán:
Đối với hệ thống ngân hàng
Hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay đứng trước ba vấn đề lớn là: mơ hình
và cấu trúc của hệ thống ngân hàng, vấn đề kiểm soát rủi ro và tính thanh
khoản. Để nâng cao tính hiệu quả trong hoạt động ngân hàng đồng thời
tránh được “vết xe đổ” của hệ thống ngân hàng Mỹ thì chúng ta cần có
những giải pháp kiên quyết và đồng bộ theo hướng cái cấu trúc lại hệ thống
ngân hàng cho hiệu quả hơn, tăng cường kiểm soát rủi ro và nâng cao tính
thanh khoản của hệ thống ngân hàng. Cụ thể là:
- Tiến hành rà soát lại hệ thống văn bản điều chỉnh hoạt động ngân hàng,
bao gồm Luật ngân hàng Nhà nước năm 1997 (sửa đổi, bổ sung năm 2003)
và Luật các tổ chức tín dụng dụng năm 1997 (sửa đổi, bổ sung năm 2004) và
các văn bản dưới luật về ngân hàng. Hai Luật này mặc dù đã góp phần rất
lớn vào việc điều chỉnh hoạt động và sự phát triển của hệ thống ngân hàng
thời gian qua nhưng được ban hành và sửa đổi khi mức độ hội nhập kinh tế
và những thay đổi trong các quan hệ kinh tế thị trường ở Việt Nam diễn ra
chưa mạnh mẽ nay đã bộc lộ những khiếm khuyết và bất cập nhất định. Các
văn bản dưới luật thì được ban hành khá tản mạn, không tập trung và bất cân
xứng, chủ yếu điều chỉnh các hoạt động của NHTM cổ phần mà chưa có sự
quan tâm đúng mức về hoạt động của các tổ chức tín dụng khác như hoạt
động của NHĐT, NHTM Nhà nước, các tổ chức tín dụng phi ngân hàng. Vai
trị và tính độc lập của NHNN được quy định trong hai Luật này không cao,
chưa đủ để có thể thực hiện chức quản lý và điều hành chính sách tiền tệ
quốc gia một cách linh hoạt. NHNN “khơng có chức năng hoạch định mà chỉ
là cơ quan chấp hành trong việc điều hành chính sách tiền tệ. Các văn bản
dưới luật thường được ban hành để xử lý vấn đề mang tính chất vụ việc nhiều
hơn là những vấn đề mang tính chất chiến lược. Việc hoàn thiện hệ thống
pháp luật về ngân hàng phải được tiến hành theo hướng nâng cao tính độc

lập và vai trò chủ động trong quản lý, điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ,
mở rộng thẩm quyền và tăng cường các công cụ kiểm tra, giám sát hoạt động
kinh doanh ngân hàng của NHNN. Song song đó, cần có sự tách bạch rõ ràng
giữa hoạt động của NHTM và NHĐT đồng thời nâng cao điều kiện cấp phép

23


thành lập và hoạt động của NHTM cổ phần và các CTTC. Các văn bản về
ngân hàng phải đặt nền tảng pháp lý để tạo ra môi trường kinh doanh ngân
hàng minh bạch và nâng cao tính cạnh tranh thơng qua việc đẩy mạnh cổ
phần hoá các NHTM Nhà nước và hình thành cơ sở pháp lý rõ ràng cho việc
sáp nhập, hợp nhất và phá sản ngân hàng.
– Tăng cường kiểm soát rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Trước hết, NHNN
cần đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra việc thực hiện các quy
định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng của các ngân
hàng và TCTD theo quy định Luật các tổ chức tín dụng và Quyết định số
457/2005 ngày 19/4/2005 quy định cụ thể các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong
hoạt động của TCTD và các văn bản khác. Đặc biệt, cần nghiên cứu xây
dựng và giám sát chặt chẽ hạn mức tín dụng đối với các lĩnh vực nhạy cảm
như cho vay kinh doanh, đầu tư chứng khoán, bất động sản…Về lâu dài,
NHNN cần xây dựng hệ thống quản trị rủi ro phù hợp với thông lệ quốc tế
theo tiêu chuẩn an toàn vốn của Basel, rà soát và xây dựng mới các quy định
về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phịng để xử lý rủi ro… Về phía
Chính phủ và Bộ Tài chính, cần quản lý và kiểm soát nguồn vốn Nhà nước
trong các CTTC Nhà nước, ngăn chặn tình trạng lạm dụng đầu tư tài chính
bằng nguồn Nhà nước của các tổ chức này như là một biện pháp loại trừ
nguyên nhân lạm phát và góp phần lành mạnh hố thị trường tiền tệ. Về phía
các NHTM, và các tổ chức tín dụng phải nâng cao năng lực quản lý, điều
hành, áp dụng các chuẩn mực quản trị ngân hàng hiện đại và tổ chức tốt hoạt

động của bộ phận kiểm soát, kiểm tốn nội bộ tại trụ sở chính và các chi
nhánh.
– Đẩy mạnh các giải pháp nâng cao tính thanh khoản của hệ thống ngân
hàng. tính thanh khoản có vấn đề khơng những khi các ngân hàng gặp khó
khăn về khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn mà ngay cả khi họ gặp
khó khăn cho đầu ra của nguồn vốn của mình. Sau khi các biện pháp thắt
chặt tiền tệ của Chính phủ mang lại hiệu quả, NHNN đã 4 lần giảm lãi suất
cơ bản và các loại lãi suất khác, mua lại 20,3 ngàn tỷ tín phiếu bắt buộc thì
hệ thống ngân hàng đang sở hữu một nguồn vốn khá lớn và lãi suất cho vay
đã giảm xuống 13%/năm (so với 21% ở thời điểm đỉnh cao) nhưng các doanh
nghiệp vẫn chưa mặn mà tiếp cận. Nguyên nhân được xác định là sức mua
trong nước và thế giới giảm do cuộc khủng hoảng tài chính và lạm phát vừa
qua. Chính vì vậy mà Chính phủ đang triển khai 5 giải pháp quan trọng để
vực dậy nền kinh tế thơng qua kích cầu tiêu dùng và kích cầu vốn. Việc kích
cầu vốn trở nên hết sức khó khăn khi TTBĐS và TTCK đang đóng băng và
tuột dốc liên tục. Do đó, trước mắt cần tập trung kích cầu vốn đối với doanh
24


nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu và kích cầu tiêu dùng. Để các
giải pháp của Chính phủ sớm phát huy tác dụng, cần nghiên cứu áp dụng cơ
chế lãi suất linh hoạt theo hướng thỏa thuận và dựa vào mức độ đánh giá rủi
ro, hình thành các trung tâm bão lãnh tín dụng và khuyến khích cơ chế cho
vay tín chấp để các doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể tiếp cận được nguồn vốn.
Giải quyết được đầu ra cho nguồn vốn trong hệ thống ngân hàng hiện nay là
điều kiện cần thiết để ngăn chặn nguy cơ giảm phát đang dần dần lộ diện.
Đối với thị trường chứng khốn (TTCK):
Một khi diễn biến của tình hình giao dịch trên TTCK đã thoát khỏi sự tác
động của các yếu tố nội tại mà đã chuyển sang phụ thuộc vào những yếu tố từ
bên ngồi như các thơng tin về diễn biến của cuộc khủng hoảng tài chính hay

sự tăng, giảm của các chỉ số chứng khoán nước ngồi thì việc dự báo về tình
hình thị trường cũng như đề xuất các giải pháp là hết sức khó khăn. Tuy vậy,
từ cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu chúng ta cũng thấy rằng các nhà điều
hành và hoạch định chính sách phát triển TTCK Việt Nam có nhiều việc cần
làm và tập trung vào các vấn đề sau đây:
– Tiếp tục thực thi chiến lược phát triển TTCK Việt Nam đã được Chính phủ
phê chuẩn, trong đó việc liên thông, kết nối với thị trường các nước là cần
thiết, tuy nhiên phải được tiến hành cẩn trọng, có lộ trình để hạn chế đến
mức thấp nhất “các cơn địa chấn” có thể xảy ra như cuộc khủng hoảng tài
chính tồn cầu hiện nay. Đồng thời, tăng cường các hoạt động kiểm tra,
thanh tra và xử phạt đủ mạnh nhằm tạo ra mơi trường kinh doanh chứng
khốn minh bạch, cơng bằng và đúng pháp luật.
– Xây dựng lộ trình hợp lý cho việc áp dụng các công cụ, sản phẩm mới cho
thị trường như bán khống và giao dịch ký quỹ, đặc biệt là các công cụ phái
sinh. Các công cụ phái sinh chỉ nên áp dụng khi đã hình thành một khung
pháp lý đầy đủ để điều chỉnh việc phát hành và giao dịch các công cụ phức
tạp này trên cơ sở nhận thức đầy đủ những yếu tố tích cực và tiêu cực của nó
sau khi trình độ quản lý, điều hành thị trường đã được nâng lên một bước.
– Cần nghiên cứu và sớm triển khai các cơng cụ kích cầu trong đầu tư. Trước
hết, Chính phủ nên xem xét khả năng lùi thời gian thu thuế từ đầu tư chứng
khốn vì nguồn thu từ đầu tư chứng khốn khơng nhiều, nhưng nó sẽ là
nguồn động viên tinh thần giúp các thị trường có thể cải thiện phần nào niêm
tin cho các nhà đầu tư, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay. Ngồi ra, theo tín
hiệu thị trường cần sớm đưa vào áp dụng các giải phải giúp hỗ trợ tính thanh

25


×