Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Vài nét về nhà Lý (1010-1225) 3 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.11 KB, 6 trang )

Vài nét về nhà Lý (1010-1225)
3
V. Nhân vật tiêu biểu
Ngoài những ông vua lỗi lạc của nhà Lý như Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh
Tông, Lý Nhân Tông, nước Việt thời Lý còn có những nhân vật nổi tiếng như Lê
Phụng Hiểu, Lý Đạo Thành, Lê Văn Thịnh đặc biệt có Lý Thường Kiệt, một nhà
quân sự tài ba và ỷ Lan Nguyên phi, một người phụ nữ đã phát huy được khả năng
trong việc cai trị đất nước.
ỷ Lan nguyên phi
ỷ Lan quê ở làng Thổ Lỗi (Thuận Thành, Hà Bắc). Năm 1062 vua Lý Thánh Tông
đã 40 tuổi mà không có con nên thường đi các nơi để cầu tự. Một hôm vua qua
làng Thổ Lỗi, trong khi mọi người đổ ra đường xem xa giá thì bà đang hái dâu, chỉ
đứng dựa cây lan mà nhìn. Vua thấy thế làm lạ, cho gọi đến để hỏi. Thấy bà xinh
đẹp, đối đáp dịu dàng lại thông minh sắc sảo, vua đưa về cung và phong làm ỷ Lan
phu nhân. Năm 1066 bà sinh Thái tử Càn Đức và được phong là Nguyên phi.
Lúc bấy giờ giữa Đại Việt và Champa đang xảy ra chiến tranh biên giới. Vua Lý
Thánh Tông phải thân chinh đi đánh (1069). Vua giao cho bà quyền giám quốc.
Sau nhiều trận không thành công, Lý Thánh Tông rút quân về nước. Trên đường
về kinh đô, nghe báo là bà ỷ Lan thay vua trị nước được yên vui, Thánh Tông
nghĩ: "Người đàn bà trị nước còn được như thế, ta đi đánh Chiêm Thành không
thành công, thế ra đàn ông hèn lắm à! Vua đem quân trở lại và lần này chiến
thắng.
Năm 1072, Lý Thánh Tông mất, Thái tử Càn Đức mới bảy tuổi lên nối ngôi. Bà
được phong làm Thái phi. Có tài liệu ghi rằng lúc bấy giờ Thái hậu họ Dương
buông rèm lo việc triều chính. ỷ Lan lên làm Hoàng Thái Hậu (tức Linh Nhân Thái
Hậu) giúp vua trị nước. Trước họa nhà Tống lăm le xâm lăng Đại Việt, bà đã nghe
theo lời Lý Thường Kiệt gọi Lý Đạo Thành trở lại giữ chức Thái phó Bình
Chương quân quốc trọng sự để lo việc triều chính. Đây là lúc triều đình nhà Lý tổ
chức thắng lợi cuộc kháng chiến chống quân Tống. Lý Thường Kiệt đã đem quân
đánh sang tận Ung Châu, Liêm Châu, năm sau chận đứng quân xâm lăng ở sông
Như Nguyệt buộc chúng phải rút về nước. Trong việc trị nước, Thái hậu coi trọng


việc phát triển nông nghiệp, bảo vệ trâu bò dùng làm sức kéo. Thương những phụ
nữ nghèo khổ phải đem thân thế nợ, không thể lập gia đình, bà cho xuất tiền chuộc
họ và tìm người gả chồng cho. Thái hậu cũng chú ý mở mang đạo Phật. Tương
truyền bà đã cho xây dựng đến 100 ngôi chùa để mong chuộc lại lỗi đã bức tử
Dương Thái Hậu cùng các cung nữ trước kia.
Lý Thường Kiệt
Lý Thường Kiệt vốn tên là Ngô Tuấn, tự là Thường Kiệt, quê ở làng An Xá, huyện
Quảng Đức (Cơ Xá, Gia Lâm, Hà Nội). Từ nhỏ ông đã ham chuộng cả văn lẫn võ,
thích đọc sách và tập luyện võ nghệ. Năm 20 tuổi, ông được bổ làm một chức
quan nhỏ trong đội kỵ binh. Sau theo lời khuyên của vua Lý Thái Tông, ông tự
hoạn để vào làm quan trong cung. Ông được thăng dần lên đến chức Đô tri nội thị
sảnh, trông coi mọi việc trong cung vua. Đến năm 1069, ông được cử làm Đại
tướng theo vua Lý Thánh Tông tiến công Champa. Lý Thường Kiệt bắt được Chế
Củ trong dịp này khi tiến quân đến tận biên giới Chân Lạp (vùng Phan Rang, Phan
Thiết ngày nay). Chiến thắng trở về, ông được phong làm Phụ quốc Thái phó, tước
Khai quốc công và được vua Lý nhận làm con nuôi, vì thế ông đổi sang họ Lý và
có tên là Lý Thường Kiệt.
Năm 1072, Lý Thánh Tông mất, Thái tử Càn Đức (7 tuổi, con của ỷ Lan Nguyên
phi) lên nối ngôi, tức là Lý Nhân Tông, Thái hậu Thượng Dương cùng Thái sư Lý
Đạo Thành là phụ chính nhưng Lý Thường Kiệt giúp ỷ Lan (đã trở thành Linh
Nhân Thái hậu) truất quyền phụ chính của Thái hậu Thượng Dương, giáng Lý Đạo
Thành xuống làm Tả gián nghị Đại phu và đổi đi trấn nhậm ở Nghệ An. ỷ Lan lên
làm Phụ chính còn Lý Thường Kiệt làm Tể tướng.
Lúc bấy giờ ở Trung Quốc, nhà Tống đang gặp khó khăn về mọi mặt. Tể tưởng
của nhà Tống là Vương An Thạch đưa ra Tân pháp để giải quyết những bế tắc của
Trung Quốc. Một trong những biện pháp của Tân pháp Vương An Thạch là phải
tạo nên uy danh cho nhà Tống bằng cách bành trướng xuống phía Nam, xâm lăng
Đại Việt. Do vậy nhà Tống cho tích trữ lương thảo, quân dụng tại các thành Ung
Châu (Quảng Tây), Khâm Châu và Liêm Châu (Quảng Đông) để chuẩn bị cho
cuộc xâm lăng. Trước tình thế đó Lý Thường Kiệt chủ trương như sau: "Ngồi yên

đợi giặc không bằng đem quân ra đánh trước để chặn mũi nhọn của giặc". Trước
hết để củng cố nội bộ, ông đề nghị cùng ỷ Lan mời Lý Đạo Thành về lại triều đình
giữ chức Thái phó trông coi việc triều chính. Trước họa nước, Lý Đạo Thành hợp
lực cùng Lý Thường Kiệt tích cực chuẩn bị việc đối phó.
Cuối năm 1075, Lý Thường Kiệt đem 10 vạn quân tiến sang đất Tống đánh vào
Khâm Châu, Liêm Châu và Ung Châu. Sau 42 ngày vây hãm quân Việt chiếm
được thành Ung Châu. Sau khi phá hủy phần lớn căn cứ hậu cần của quân Tống,
tháng 4.1076, Lý Thường Kiệt cho rút quân về. Cuối năm ấy, nhà Tống cử tướng
Quách Quỳ đem 30 vạn quân theo hai đường thủy bộ sang xâm lược Đại Việt. Lý
Thường Kiệt cho lập phòng tuyến kiên cố dọc theo sông Như Nguyệt để chặn
địch. Đồng thời ông cũng cho quân đón đánh thủy binh địch và đã ngăn được hai
cánh quân thủy bộ của địch phối hợp với nhau. Trên phòng tuyến Như Nguyệt,
chiến trận diễn ra ác liệt. Để cổ vũ quân sĩ, ông làm nên bài thơ và cho người đêm
khuya vào đền thờ Trương Hát ở bờ Nam sông Như Nguyệt giả thần nhân đọc
vang lên:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
(Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận ở sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời)
Nhờ thế tinh thần quân sĩ thêm hăng hái. Sau hơn ba tháng đánh không thắng lực
lượng bộ binh, không thể sang sông vì thiếu thủy binh hỗ trợ, quân Tống bị chết
mất quá nửa lại thêm bệnh tật đe dọa, Quách Quỳ lâm vào thế quẫn bách. Lý
Thường Kiệt chủ động đề nghị hòa để mở lối thoát cho quân địch nhằm sớm chấm
dứt chiến tranh. Đến tháng ba năm 1077 Quách Quỳ rút quân về nước. Từ đấy
quân Tống từ bỏ ý định xâm lược Đại Việt.

×