Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Nhân vật, di tích tiêu biểu thời Trần 1 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.16 KB, 5 trang )

Nhân vật, di tích tiêu biểu thời Trần
1
Nhà Trần đã để lại một dấu ấn lớn trong lịch sử Việt Nam với sự nở rộ đáng kể về
số lượng danh nhân. Ta có thể phân biệt các danh nhân dưới triều Trần ra làm hai:
Danh nhân thuộc họ Trần và danh nhân ngoài dòng họ Trần. Trong họ Trần, đó là
Trần Thái Tông (Trần Cảnh, 1218-1277), Trần Thánh Tông (Trần Hoảng, 1240-
1290), Trần Nhân Tông (Trần Khâm, 1258-1308), Trần Hưng Đạo (12??-1300),
Trần Quang Khải (1241-1294), Trần Khánh Dư (?-1285), Trần Thủ Độ (1194-
1264), Trần Huyền Trân, Trần Khát Chân (?-1399), Trần Quốc Toản Những
danh nhân ngoài dòng họ Trần có thể kể như sau: Lê Văn Hưu (1230-1322),
Nguyễn Thuyên, Chu An (1292-1370), Mạc Đĩnh Chi (1272-1346), Phạm Ngũ
Lão (1255-1320), Yết Kiêu, Dã Tượng, Nguyễn Hiền, Trương Hán Siêu (?-1354),
Phạm Sư Mạnh, Hồ Tông Thốc Trong số các danh nhân ấy, xin giới thiệu một
người trong dòng họ Trần là thiếu niên anh hùng Trần Quốc Toản và một nhân vật
ngoài dòng họ Trần là Lê Văn Hưu, sử gia đầu tiên của đất nước.
Trần Quốc Toản (1266-?)
Hội nghị Bình Than là một hội nghị giữa nhà vua cùng các vương hầu, quan lại,
tướng soái cao cấp của nhà Trần để bàn sách lược chống lại sự xâm lăng của
Nguyên Mông. Trong không khí bừng bừng ấy, một thiếu niên tôn thất nhà Trần là
Trần Quốc Toản có theo đến nhưng vì còn nhỏ (16 tuổi) nên không được dự bàn.
Quốc Toản uất ức, tay đương cầm quả cam bóp bẹp ra lúc nào không biết. Khi tan
hội, các vương hầu ai nấy ra về, lo việc sắm sửa binh thuyền để cự địch. Trần
Quốc Toản cũng thế, về nhà cho may một lá cờ to với sáu chữ "Phá cường địch,
báo hoàng ân" (phá giặc mạnh, báo ơn vua). Ông tụ họp được hơn nghìn người
thân thuộc, cùng nhau chuẩn bị vũ khí để chống giặc. Đến khi xuất trận, Quốc
Toản luôn đi trước, khí thế dũng mãnh, đánh chỗ nào quân địch cũng phải lùi.
Trong hai cuộc chiến thắng chống quân Nguyên (1284-1288), Trần Quốc Toản
đều lập được công lớn. Trong trận Hàm Tử (1284), Quốc Toản được cử làm phó
tướng cho Trần Nhật Duật, thắng trận, Quốc Toản được hân hạnh là người đưa tin
về cho Trần Hưng Đạo. Đến trận Chương Dương, Quốc Toản đã cùng Trần Quang
Khải, Phạm Ngũ Lão đốc quân tử Thanh Hóa đi vòng đường bể đến tấn công bất


ngờ vào quân Nguyên ở Chương Dương. Trong trận đuổi quân Thoát Hoan ra khỏi
thành Thăng Long, Quốc Toản cũng góp phần đáng kể.
Không rõ vị dũng tướng thiếu niên này hy sinh trong trận nào và vào năm nào. Chỉ
biết một chi tiết là khi Quốc Toản chết trận, vua Trần Nhân Tông thương khóc làm
bài văn tế có nội dung như sau:
Cờ đề sáu chữ giải hờn này
Lăn lóc muôn quân vẫn đánh say
Công thắng quân Nguyên đà chắc trước,
Từ khi cam nát ở trong tay (bản dịch)
Lê Văn Hưu (1230-1322)
Lê Văn Hưu là một học giả xuất sắc của đời Trần, và là người hậu thế xem là sử
gia đầu tiên của Việt Nam. Ông quê làng Phú Lý (thôn Phủ Lý Nam, xã Thiệu
Trung), huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ông nổi tiếng là người thông minh và
học giỏi từ nhỏ. Năm 1247 nhà Trần mở khoa thi đầu tiên lấy tam khôi (Trạng
nguyên, Bảng nhân, Thám hoa), Lê Văn Hưu đậu Bảng Nhãn, lúc đó ông mới 17
tuổi, Ông được bổ làm Kiểm pháp quan (một chức quan về hình luật), sau lại được
sung chức Hàn lâm viện Học sĩ kiêm Quốc sứ viện Tu giám. Thời gian này Lê
Văn Hưu được vua Trần Thái Tông sai soạn bộ "Đại Việt sử ký" viết về lịch sử
Việt Nam từ đời Triệu Đà (207 trước Công nguyên) đến đời Lý Chiêu Hoàng.
Không rõ Lê Văn Hưu soạn bộ này từ lúc nào, chỉ biết đến năm 1272 thì hoàn tất.
Bộ sử gồm tất cả ba mươi quyển, được đưa lên cho vua Trần Thánh Tông xem và
được nhà vua khen ngợi.
Lê Văn Hưu có thời gian làm đến Thượng Thư bộ binh và là phó của Thượng
tướng Trần Quang Khải, được phong tước Nhân Uyên hầu. Ông mất ngày 23.3
năm Nhâm Tuất (13322) thọ 92 tuổi, an táng tại xứ Mả Giòm, nay thuộc thôn Phủ
Lý Nam xã Triệu Trung, huyện Đông Sơn, Thanh Hóa.
Tác phẩm của Lê Văn Hưu được biết duy nhất chỉ có bộ "Đại Việt sử ký" nhưng
nay đã thất truyền. Tuy thế, chính từ cơ sở chủ yếu của bộ sử này mà Ngô Sĩ Liên,
một sử gia đời Lê đã soạn được bộ "Đại Việt sử ký toàn thư" có giá trị để người
đời sau hiểu về cội nguồn của dân tộc.

Chùa Phổ Minh
Chùa Phổ Minh tọa lạc trên quê hương của họ Trần ở thôn Tức Mặc, xã Lộc
Vượng, huyện Mỹ Lộc, cách thành phố Nam Định khoảng chừng 3 km về phía
Bắc.
Các vua nhà Trần, dù bận việc triều chính ở Thăng Long nhưng luôn hướng về quê
hương, và khi lên làm Thái Thượng hoàng thì thường về sống ở đấy. Vua Trần
Thái Tông, sau khi đuổi quân Mông Cổ ra khỏi đất nước, liền nhường ngôi cho
con (1258), về sống ở Tức Mặc, cho xây cung Trùng Quang ở đây và thăng làng
Tức Mặc lên làm phủ Thiên Trường. Chùa Phổ Minh được xây vào buổi đầu của
vương triều (1262) nên có quy mô khá to lớn. Chùa nằm về phía Tây của cung
Trùng Quang. Chùa Phổ Minh còn được gọi là chùa Tức Mặc hay chùa Tháp.
Không biết chùa được xây từ năm nào, nhưng kiến trúc quan trọng nhất của chùa
là chiếc tháp thì được hoàn thành vào năm 1305.
Cấu trúc của chùa dựa theo trục cân xứng từ cổng Tam Quan qua nhà bia, tháp và
đền toàn Tam Bảo. Trong toàn Tam Bảo có nhiều tượng đẹp và sinh động như
tượng "Phật nhập Niết Bàn", "Văn Thù Bồ Tát", "Phổ Hiền Bồ Tát".
Hiện vật tượng trưng cho nghệ thuật khắc gỗ của đời Trần còn lưu lại đáng chú ý
nhất là bốn cánh cửa bằng gỗ lim lớn (mỗi tấm cao 1m92, rộng 0m79) được lắp
ráp ở nhà Bái Đường, ngay ở lối đi vào chính giữa của chùa. Bốn cánh cửa này
hiện nay vẫn còn chắc chắn và nguyên vẹn dù đã trải qua 700 năm. Mỗi cánh cửa
được chạm rồng công phu và tinh xảo, con rồng uốn lượn theo hình lá đề rất uyển
chuyển. Tất cả hoa văn ấy được bố trí cân xứng nhau, cho nên khi đóng lại tạo nên
một không gian trang trí hoàn chỉnh. Ngoài bốn cánh cửa lim ấy ra thì chùa không
còn đồ gỗ nào khác của thế kỷ ấy.

×