Đâu là năng lực tài chính thực sự của ngân hàng?
Trần Phương Minh
Trong những năm qua, hệ thống ngân hàng thế giới nhiều lần
chao đảo bởi một số vụ “bê bối tài chính” của các ngân hàng lớn
như Citi Bank của Mỹ, NAB của Australia. Tất cả những vụ việc
trên đã dấy lên hồi chuông cảnh báo về năng lực tài chính của
các ngân hàng.
Chỉ khi các ngân hàng có năng lực tài chính vững mạnh thì mới
đảm bảo hoạt động kinh doanh ổn định, từ đó nền kinh tế cũng sẽ
tăng trưởng vững chắc.
Yếu tố tài chính quan trọng nhất của ngân hàng thương mại là
vốn, bao gồm vốn pháp định và quỹ dự trữ. Vốn ngân hàng là
điều kiện cơ bản đảm bảo tiền gởi của khách hàng, một khi gặp
rủi ro trong kinh doanh, như nợ khó đòi, lỗ trong nghiệp vụ
chứng khoán thì vốn của ngân hàng là khoản bù đắp rủi ro đó và
tạo khả năng thanh toán các khoản nợ của khách hàng.
Vốn pháp định là vốn riêng của ngân hàng do các chủ sở hữu
đóng góp nếu là ngân hàng quốc doanh thì chủ sở hữu vốn là nhà
nước, nếu là ngân hàng cổ phần thì chính là các cổ đông đóng
góp. Vốn pháp định của ngân hàng được ghi trong giấy phép
hoạt động và điều lệ của ngân hàng, nó phải lớn hơn mức tối
thiểu của nhà nước quy định.
- Các quỹ dự trữ thì bao gồm:
+ Quỹ dự trữ: là vốn được trích từ lợi nhuận hàng năm để bổ
sung vốn pháp định. Luật của Việt Nam qui định hàng năm phải
tính 5% lợi nhuận ròng để lập quỹ này, còn mức tối đa do Ngân
hàng Trung ương quy định.
+ Quỹ dự trữ đặc biệt: cũng là loại vốn được tính từ lợi nhuận để
bù đắp rủi ro trong quá trình hoạt động. Hàng năm, ngân hàng
phải trích 10% trên lợi nhuận ròng cho đến khi bằng vốn pháp
định.
+ Ngoài ra ngân hàng còn có lợi nhuận chưa chia hết cho cổ
đông hoặc các quỹ đặc biệt khác chưa sử dụng.
Từ những năm 1930 các nhà kinh tế đã đưa ra qui tắc "ngón tay
cái" tức là quy tắc 10% vốn ngân hàng so với tài sản có. Ngoài ra
người ta còn đưa ra một tỷ lệ liên quan giữa vốn ngân hàng so
với tài sản rủi ro (Tài sản có trừ đi các ngân quỹ và trái phiếu
kho bạc). Trong thực tế qui tắc 10% ít được ngân hàng thực hiện.
Nhưng việc xác định mối liên quan giữa vốn ngân hàng và tài
sản có được các cấp quản lý ngân hàng quan tâm và tỉ lệ này
được coi là một bộ phận của chính sách quản lý. Năm 1985 hệ
thống dự trữ Liên bang Hoa kỳ đã đưa ra tỉ lệ này là 6% cho các
ngân hàng lớn (trước đây chỉ 3%).
Nhiều nước đã qui định quan hệ giữa vốn ngân hàng và khối
lượng tiền huy động như sau: Các ngân hàng không được phép
huy động quá 20 lần so với vốn.
Mặc dù vốn là yếu tố cơ bản để đánh giá về mặt tài chính của
ngân hàng, nhưng ngoài yếu tố vốn ta cần phải tính đến hàng loạt
các yếu tố khác như: thanh khoản của ngân hàng, cấu trúc rũi ro
tích sản, tính chất biến động của các loại tiền gởi và chất lượng
quản lý ngân hàng.
Ở Mỹ muốn đánh giá một ngân hàng người ta sử dụng 5 chỉ tiêu:
- Tỉ lệ vốn
- Chất lượng tài sản có
- Chất lượng quản lý
- Tiền lãi
- Thanh khoản
Các cơ quan ngân hàng căn cứ vào các điều trên để chấm điểm
và phân loại ngân hàng tốt, khá, yếu
Tài sản có:
Trong quản lý tài sản có một mặc Ngân hàng thương mại phải
tôn trọng các tỷ lệ dự trữ bắt buộc, mặc khác phải tránh các rủi
ro để tồn tại và kinh doanh có lãi.
Trong cơ chế thị trường các ngân hàng hoạt động trong môi
trường đầy rủi ro và không chắc chắn, cũng như lãi suất tương lai
và giá cả các loại chứng khoán sẽ ra sao là những điều khó lường
trước. Vì thế, những nhà quản lý ngân hàng phải có tầm nhìn xa
hơn những lý do kiếm lời đơn thuần.
Để duy trì khả năng thanh toán, một mặc Ngân hàng thương mại
phải đảm bảo toàn bộ giá trị tài sản có phải lớn hơn các khoản nợ
phải thanh toán ở mọi thời điểm. Nếu trong kinh doanh vốn cho
vay không có khả năng thu hồi và lỗ trong nghiệp vụ chứng
khoán sẽ làm cho giá trị tài sản có xuống thấp hơn tài sản nợ và
như vậy sẽ dẩn đến ngân hàng mất khả năng thanh toán, có thể
phải đóng cửa hoặc phải bán tài sản cho ngân hàng khác. Thế
nhưng, nếu xét về khối lượng tài sản có đủ trang trải tài sản nợ
thì cũng chưa đủ để nói lên khả năng thanh toán của ngân hàng,
mà còn phải tính đến thanh khoản tức là các tài sản có khả năng
chuyển thành tiền ngay với khối lượng đủ để đáp ứng nhu cầu rút
tiền mặt, hết số thiếu trong thanh toán bù trừ hoặc những nhu cầu
vay mượn chính đáng của các ngân hàng thân thuộc, đồng thời
vẫn giữ được tỉ lệ dự trữ pháp định. Như vậy có thể xảy ra một
ngân hàng có đủ khả năng trừ nợ nhưng lại thiếu thanh khoản để
trang trải các nợ tức thời, cũng coi như ngân hàng đó thiếu khả
năng thanh toán và có nguy cơ dẫn đến phá sản.
Trong kinh doanh muốn đứng vững và cạnh tranh được thì ngân
hàng phải giữ rủi ro trong giới hạn nhất định, phải đẫm bảo thanh
khoản theo mức độ cần thiết trong kết cấu tài sản có và mức độ
sinh lãi có thể chấp nhận được. Nếu quá chú trọng đến yếu tố
này hoặc yếu tố khác thì sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả kinh
doanh. Giả sử một ngân hàng chấp nhận rủi ro cao, thanh khoản
thấp để mở rộng các nghiệp vụ sinh lời thì sẽ có nguy cơ mất khả
năng thanh toán. Ngược lại nếu thận trọng về rủi ro, nâng cao
quá mức về thanh khoản thì sẽ dẩn đến lợi nhuận giảm và cái
nguy hại hơn là làm cho khách hàng xa lánh, mất tin tưởng, bỏ đi
nơi khác. Tất cả những điều này ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả
tài chính của ngân hàng.
Trong quản lý kết cấu tài sản có các ngân hàng thường tính toán
và sắp xếp thứ tự ưu tiên như sau:
- Dự trữ sơ cấp
- Dự trữ thứ cấp
- Các khoản cho vay
- Đầu tư dài hạn.
Dự trữ sơ cấp là các khoản mục về ngân quỹ tiền mặt, tiền gởi ở
Ngân hàng Trung ương, tiền gởi các ngân hàng khác. Các khoản
dự trữ này được sử dụng để dự trữ theo quy định của Ngân hàng
Trung ương và đáp ứng nhu cầu bất thường về tiền mặt cho
khách hàng hoặc để thực hiện các khoản thanh toán cho ngân
hàng khác trong việc thanh toán giữa các ngân hàng.
Dự trữ thứ cấp bao gồm các loại chứng khoán có khả năng
chuyển thành tiền dể dàng như: trái phiếu kho bạc, giấy chấp
nhận trả tiền của ngân hàng Dự trữ thứ cấp được dùng để hổ
trợ cho dự trữ sơ cấp về các nhu cầu rút tiền, thanh toán giữa các
ngân hàng và vay mượn của khách hàng đã được dự kiến trước.
Dự trữ thứ cấp đã đã đáp ứng nhu cầu về thời vụ và chu kỳ đã dự
kiến trước. Như ngân hàng hoạt động ở nông thôn đến vụ mùa có
nhu cầu lớn về tín dụng và sau thời vụ thì giảm mạnh. Sau thời
vụ nhu cầu tiền mặt để mua lúa rất lớn. Các ngân hàng hoạt động
ở đô thị thì nhu cầu hoạt động dự trữ hàng hoá tăng mạnh trước
tết. Về công chúng thì vào lễ tết thì cần rút tiền để chi xài. Ngoài
ra dự trữ thứ cấp còn được sử dụng để đáp ứng nhu cầu mang
tính chu kỳ như trong thời kỳ kinh tế tăng trưởng, công việc làm
ăn phát đạt nhu cầu tín dụng tăng, ngược lại trong thời kỳ suy
thoái tín dụng thu hẹp.
Ngoài việc đáp ứng nhu cầu thời vụ và chu kỳ, dự trữ thứ cấp
còn là nguồn bổ sung quan trọng để giải quyết những nhu cầu
đột xuất về rút tiền, các khoản thanh toán lớn mà ngân hàng
không thể dự kiến được.
Sau khi đã thực hiện đầy đủ các dự trữ sơ cấp và thứ cấp thì ngân
hàng ưu tiên các nghiệp vụ sinh lời an toàn như công trái, thực
hiện các khoản tín dụng ngắn hạn.
Trong nghiệp vụ tín dụng và đầu tư dài hạn ngân hàng phải thận
trọng và phải tính đến nguồn vốn đáp ứng. Nếu như tỉ trọng các
nguồn vốn dài hạn thấp trong lúc đó lại cấp tín dụng và đầu tư tín
dụng với tỉ trọng cao thì sẽ gia tăng mức độ rũi ro. Vì vậy cần
phải tính tỉ lệ hợp lý giữa cho vay và đầu tư dài hạn trong mối
tương quan với các khoản xét theo thời hạn của tài sản nợ.
Tài sản nợ:
Theo cổ điển thì các ngân hàng xem bên nợ của bảng tổng kết tài
sản là các nghiệp vụ đương nhiên không cần phải quản lý và
kiểm soát mà chỉ cần sử dụng cái có sẳn đó cho thích hợp là đủ,
có nghĩa là chỉ cần quản lý tài sản có. Tuy vậy, ngày nay các nhà
ngân hàng đã bắt đầu quan tâm nhiều đến tài sản nợ và coi việc
quản lý tài sản nợ như là một yếu tố để nâng cao hiệu quả quản
lý, cũng như tăng nguồn bổ sung đối với khả năng thanh toán của
ngân hàng.
Quản lý tài sản nợ tức là sử dụng các nghiệp vụ bên nợ của bảng
tổng kết tài sản để mở rộng các quỹ nhằm đáp ứng nhu cầu thanh
toán như bù đắp các khoản dự trữ, hoặc điều tiết những nhu cầu
mới về tín dụng. Như vậy, việc quản lý tài sản nợ là việc thu hút
nhanh chóng các khoản tiền tệ trên thị trường để tạo khả năng
thanh toán cho ngân hàng.
Các nước phát triển việc quản lý tài sản nợ được thực hiện thông
qua việc mua bán chứng chỉ tiền gởi, các nguồn từ ngân hàng
trung ương và từ các nguồn khác.
Kỹ thuật quản lý tài sản nợ là nhằm khai thác các nguồn bổ sung
quan trọng về khả năng thanh toán của ngân hàng. Tuy nhiên,
việc quản lý này chỉ là bổ sung, chứ nó không thay thế cho việc
quản lý cho tài sản có. Nếu như chú trọng quá đến việc khai thác
các nguồn bổ sung mà xem thường các khoản dự trữ thuộc tài
sản có sẽ có hậu quả xấu trong hoạt động của ngân hàng, có thể
dẩn đến khủng hoảng trầm trọng.