Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.21 KB, 26 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát chung về Ngân hàng thương mại.
1.1.1. Khái niệm về Ngân hàng thương mại.
Ngân hàng là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa
dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng
tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
1.1.2. Chức năng của Ngân hàng.
a. Trung gian tài chính.
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết
kiệm thành đầu tư, đòi hỏi phải tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế:
(1) các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu
tư vượt qua thu nhập và vì thế họ là những người cần bổ sung vốn;(2) các cá nhân và tổ
chức khẳng định trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu
cho hàng hóa, dịch vụ và do vậy họ có tiền tiết kiệm.
b. Tạo phương tiện thanh toán.
Khi ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng
lên, khách hàng có thể dùng để mua hàng và dịch vụ. Do đó bằng việc cho vay (hay tạo tín
dụng) các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán (tham gia tạo ra M
1
).
Toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo ra phương tiện thanh toán khi các khoản tiền
gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay. Khi khách
hàng tại một ngân hàng sử dụng khoản tiền vay để chi trả thì sẽ tạo ra khoản thu (tức làm
tăng số dư tiền gửi) của một khách hàng khác tại một ngân hàng khác từ đó tạo ra các
khoản cho vay mới. Trong khi không một ngân hàng riêng lẻ nào có thể cho vay lớn hơn
dự trữ dư thừa toàn bộ hệ thống ngân hàng có thể tạo ra khối lượng tiền gửi (tạo phương
tiện thanh toán) gấp bội thông qua hoạt động cho vay (tạo tín dụng)
c. Trung gian thanh toán.
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia.
Thay mặt khách hàng, nhà nước, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hóa dịch vụ.


Để việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra cho
khách hàng nhiều hình thức thanh toán bằng séc, ủy nhiệm chi nhờ thu, các loại thẻ…
cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách
hàng cần. Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua ngân hàng
trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán. Công nghệ thanh toán qua ngân hàng
càng đạt hiệu quả cao khi quy mô sử dụng công nghệ đó càng được mở rộng. Vì vậy công
nghệ thanh toán hiện đại qua ngân hàng thường được các nhà quản lý tìm cách áp dụng
rộng rãi.
1.1.3. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại.
a. Hoạt dộng mua bán ngoại tệ.
Một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi (mua bán)
ngoại tế - một ngân hàng đứng ra mua bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và
hưởng phí dịch vụ. Trong thị trường tài chính ngày nay, mua bán ngoại tệ thường chỉ do
các ngân hàng lớn nhất thực hiện bởi vì những giao dịch như vậy có mức độ rủi ro cao,
đồng thời yêu cầu phải có trình độ chuyên môn cao.
b. Nhận tiền gửi.
Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân hàng đã tìm mọi cách
huy động được tiền. Một trong những nguồn quan trọng là các khoản tiền gửi (thanh toán
và tiết kiệm của khách hàng). Ngân hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi để bảo quản hộ người
có tiền với cam kết hoàn trả đúng hạn. Trong cuộc cạnh tranh để tìm và dành được các
khoản tiền gửi, các ngân hàng đã trả lãi cho tiền gửi như phần thưởng cho khách hàng về
việc sẵn sàng hi sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt và cho phép ngân hàng sử dụng tạm thời
để kinh doanh. Trong lịch sử đã có những kỷ lục về lãi suất, chẳng hạn ngân hàng Hy Lạp
đã trả lãi suất 16%năm để thu hút các khoản tiết kiệm nhằm mục đích cho vay đối với các
chủ tàu ở Địa Trung Hải với lãi suất gấp đôi hay lãi suất gấp 3 lãi suất tiết kiệm.
c. Cho vay.
-Cho vay thương mại: ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương
phiếu mà thực tế là cho vay đối với những người bán (người bán chuyển các khoản phải
thu cho ngân hàng để lấy tiền trước). Sau đó là bước chuyển từ chiết khấu thương phiếu
sang cho vay trực tiếp đối với các khách hàng, giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm

mở rộng sản xuất kinh doanh.
-Cho vay tiêu dùng: trong giai đoạn đầu các ngân hàng không tích cự cho vay đối
với các cá nhân và hộ gia đình vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng rủi ro vỡ nợ
tương đối cao. Sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh trong cho vay đã
buộc các ngân hàng phải hướng tới người tiêu dùng như một khách hàng tiềm năng. Sau
chiến tranh thế giới thứ hai, tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín
dụng tăng trưởng nhanh nhất ở các nước có nền kinh tế phát triển.
-Tài trợ cho dự án bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn, các ngân hàng
ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ cho xây dựng nhà máy đặc biệt là trong các
ngành công nghệ cao. Do rủi ro trong loại hình tín dụng này nói chung là cao, song lãi lại lớn.
Một số ngân hàng còn cho vay để đầu tư vào đất.
d. Bảo quản vật có giá.
Các ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng và các vật có giá khác cho khách hàng
trong kho bảo quản. Ngân hàng giữ vàng và giao cho khách hàng tờ biên nhận (giấy chứng
nhận do ngân hàng phát hành). Do khả năng chi trả bất cứ lúc nào cho giấy chứng nhận nên
giấy chứng nhận được sử dụng như tiền – dùng để thanh toán các khoản nợ trong phạm vi
ảnh hưởng của ngân hàng phát hành.
e. Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán.
Các tiện ích của thanh toán không dùng tiền mặt (an toàn, nhanh chóng, chính xác,
tiết kiệm chi phí) đã góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và nâng cao thu nhập cho các
doanh nhân. Khi ngân hàng mở chi nhánh, thanh toán qua ngân hàng được mở rộng phạm
vi, càng tạo nhiều tiện ích cho các doanh nhân. Điều này đã khuyến khích các doanh nhân
gửi tiền vào ngân hàng để nhờ ngân hàng thanh toán hộ. Như vậy, một dịch vụ mới, quan
trọng nhất được phát triển đó là tài khoản tiền gửi giao dịch (demand deposit), cho phép
người gửi tiền viết séc thanh toán cho việc mua hàng hóa và dịch vụ. Việc đưa ra loại tài
khoản tiền gửi mới này được xem là một trong những bước đi quan trọng nhất trong công
nghiệp ngân hàng. Cùng vói sự phát triển của công nghệ thông tin, nhiều thể thức thanh
toán được phát triển như ủy nhiệm chi, nhờ thu, thanh toán bằng điện, thẻ, L/C…
f. Quản lý ngân quỹ.
Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp và nhiều cá

nhân. Nhờ đó, ngân hàng thường có mối liên hệ chặt chẽ với nhiều khách hàng. Do có kinh
nghiệm trong quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc thu ngân, nhiều ngân hàng đã cung
cấp cho khách dịch vụ quản lý ngân quỹ, trong đó ngân hàng đồng ý quản lý việc thu và
chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào
các chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để
thanh toán.
g. Tài trợ các hoạt động của Chính phủ.
Chính phủ thường dùng một số đặc quyền trao đổi lấy khoản vay của những ngân
hàng lớn. Khi ngân hàng trung ương thành lập, Chính phủ đều tìm cách tham dự, hoặc trực
tiếp can thiệp để có được các khoản tín dụng lớn. Ngày nay, Chính phủ giành quyền cấp
phép hoạt động và kiểm soát các ngân hàng. Các ngân hàng được cấp giấy phép thành lập
với điều kiện là họ phải cam kết thực hiện với mức độ nào đó các chính sách của Chính
phủ và tài trợ cho Chính phủ. Các ngân hàng phải mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ
nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng huy động được, hoặc phải cho vay với các
điều kiện ưu đãi cho các doanh nghiệp của Chính phủ.
h. Bảo lãnh.
Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho một khách hàng rất lớn và do ngân hàng
nắm giữ tiền gửi của các khách hàng, nên ngân hàng có uy tín trong bảo lãnh cho khách
hàng. Trong những năm gần đây, nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng đa dạng và phát triển
mạnh. Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu hàng hóa và trang
thiết bị, phát hành chứng khoán, vay vốn của tổ chức tín dụng khác …
i. Cho thuê thiết bị trung và dài hạn (leasing).
Nhằm để bán được các thiết bị, đặc biệt là các thiết bị có giá trị lớn, nhiều hãng sản
xuất và thương mại đã cho thuê (thay vì bán) các thiết bị. Cuối hợp đồng thuê, khách hàng
có thể mua (do vậy còn gọi là hợp đồng thuê mua). Rất nhiều ngân hàng tích cực cho
khách hàng kinh doanh quyền lựa chọn thuê các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp
đồng thuê mua, trong đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê. Hợp đồng cho
thuê thường phải đảm bảo yêu cầu khách hàng phải trả tới hơn 2/3 giá trị của tài sản cho
thuê. Do vậy, cho thuê của ngân hàng cũng có nhiều điểm giống như cho vay và được xếp
vào tín dụng trung và dài hạn

j. Cung cấp dịch vụ ủy thác và tư vấn.
Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính các ngân hàng có rất nhiều chuyên gia về
quản lý tài chính. Vì vậy, nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã nhờ ngân hàng quản lý tài sản
và quản lý hoạt động tài chính hộ. Dịch vụ ủy thác phát triển sang cả ủy thác vay hộ, ủy
thác cho vay hộ, ủy thác phát hành, ủy thác đầu tư… Thậm chí các ngân hàng đóng vai trò
là người được ủy thác trong di chúc, quản lý tài sản cho khách hàng đã qua đời bằng cách
công bố tài sản, bảo quản các tài sản có giá.
k. Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán.
Nhiều ngân hàng đang phấn đấu cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho phép khách
hàng thỏa mãn mọi nhu cầu. Đây là một trong những lý do chính khiến các ngân hàng bắt
đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu,
trái phiếu và các chứng khoán khác mà không phải nhờ đến người kinh doanh chứng
khoán. Trong một vài trường hợp, các ngân hàng tổ chức ra công ty chứng khoán hoặc
công ty môi giới chứng khoán.
l. Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm.
Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng, điều đó bảo đảm việc
hoàn trả trong trường hợp khách hàng bị chết, bị tàn phế hay gặp rủi ro trong hoạt động,
mất khả năng thanh toán.
m. Cung cấp các dịch vụ đại lý.
Nhiều ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi nhánh hoặc văn phòng
ở khắp mọi nơi. Nhiều ngân hàng (thường ngân hàng lớn) cung cấp dịch vụ ngân hàng đại
lý cho các ngân hàng khác như thanh toán hộ, phát hành hộ chứng chỉ tiền gửi, làm ngân
hàng đầu mối trong đồng tài trợ.
1.2. Thẩm định tài chính dự án của NHTM.
1.2.1. Khái niệm thẩm định dự án và thẩm định TCDA.
Khá niệm thẩm định dự án:
Vấn đề về rủi ro đạo đức và thông tin không cân xứng thường xuyên xảy ra trước,
trong và sau khi dự án đươc hoàn thành. Vì vậy để khẳng định một cách chắc chắn mức độ
hợp lý và hiệu quả, tính khả thi của dự án cũng như quyết định đầu tư thực hiện dự án, cần
phải xem xét, kiểm tra lại dự án một cách độc lập với quá trình chuẩn bị, soạn thảo dự án,

hay nói cách khác là cần phải thẩm định dự án. Trên phương diện tài trợ vốn cho dự án, các
Ngân hàng thương mại hoặc các tổ chức tài chính – tín dụng cũng đặc biệt quan tâm đến
vấn đề này, qua thẩm định dự án sẽ khẳng định được tính hiệu quả và tính an toàn của công
cuộc đầu tư. Nhờ đó mà các tổ chức tài chính – tín dụng có được cơ sở vững chắc trong
quá trình ra quyết định tài trợ vốn.
Nói tóm lại: Thẩm định dự án là rà soát, kiểm tra lại một cách khoa học khách
quan và toàn diện mọi nội dung của dự án và liên quan đế dự án nhằm khẳng định
tính hiệu quả cũng như tính khả thi của dự án trước khi quyết định đầu tư. Trong quá
trình thẩm định dự án, nhiều khi phải tính toán, phân tích lại dự án.
Khái niệm thẩm định TCDA:
Thẩm định tài chính dự án là rà soát, đánh giá một cách khoa học và toàn diện mọi
khía cạnh tài chính của dự án trên giác độ của nhà đầu tư: doanh nghiệp, các tổ chức kinh
tế khác, các cá nhân. Thẩm định dự án là nội dung quan trọng trong thẩm định dự án. Cùng
với thẩm định kinh tế, thẩm định tài chính giúp các nhà đầu tư có những thông tin cần thiết
để đưa ra quyết định đầu tư đúng đắn.
1.2.2. Cơ sở của việc thẩm định TCDA.
Ngân hàng là nhà tài trợ cho dự án, nên để thẩm định tốt và hiệu quả thì quá trình
tiến hành dự án dựa trên các cơ sở nhất định đó là thu thập số liệu và xử lý thông tin.
Trong quá trình thu thập số liệu, những tài liệu cần quan tâm gồm:
-Hồ sơ đơn vị.
-Hồ sơ dự án.
-Tài liệu tham khảo.
Các văn bản luật đầu tư, luật công ty, luật đất đai…. Và các tài liệu liên quan đến dự
án.
Trong quá trình xử lý thông tin cần làm những bước tiếp theo:
Sau khi thu thập thông tin, tiến hành xắp xếp lại các loại thông tin, áp dụng các
phương pháp đối chiếu so sánh để xử lý.
1.2.3. Nội dung thẩm định TCDA.
Thẩm định TCDA, đối với NHTM, ngoài mục tiêu đánh giá hiệu quả của dự án còn
nhằm đảm bảo sự an toàn cho các nguồn vốn mà Ngân hàng tài trợ cho dự án. Đó là việc

phân tích, xem xét, đánh giá về mặt tài chính của dự án đầu tư bao gồm một loạt các
phương pháp đánh giá hiệu quả tài chính và các chỉ tiêu phân tích dự án đầu tư. Qua đó đi
đến kết luận có đầu tư cho dự án hay không.
Trong công tác thẩm định TCDA, giá trị thời gian của tiền là một trong các nguyên
tắc cơ bản của việc tính toán các chỉ tiêu khác, việc thẩm định chi phí và lợi ích của dự án
phải được quy về thời điểm gốc để tiện cho việc so sánh. Thẩm định TCDA ở các NHTM
thường tiến hành với các nội dung sau:
a. Thẩm định vốn đầu tư cho dự án.
Khi một dự án đầu tư mang đến Ngân hàng vay vốn thì dự án đầu tư đó đã được nhiều cấp
ngành phê duyệt. Tổng vốn đầu tư được xác định. Tuy nhiên, Ngân hàng vẫn tiến hành xem xét lại
trên cơ sở những kết quả thẩm định khác của Ngân hàng. Điều này rất quan trọng vì vốn đầu tư sẽ
giúp cho các dự án thực hiện một cách thuận lợi, nâng cao hiệu quả dự án đầu tư. Vốn đầu tư thiếu
sẽ gây khó khăn cho hoạt động đầu tư. Ngược lại thừa vốn đầu tư sẽ gây lãng phí vốn làm giảm
hiệu quả của dự án. Tổng vốn đầu tư được xác định trên tổng các chi phí.
Hiện nay, tổng mức vốn đầu tư cho một dự án được chia thành ba thành phần: là
vốn cố định, vốn lưu động ban đầu cho dự án và vốn đầu tư dự phòng.
Tính toán về vốn cố định:
Vốn cố định bao gồm toàn bộ chi phí có liên quan đến việc hình thành tài sản cố
định từ giai đoạn chuẩn bị đầu tư đến giai đoạn thực hiện đầu tư và giai đoạn kết thúc xây
dựng dự án vào sử dụng, cụ thể:
-Chi phí chuẩn bị: Những chi phí dùng để soạn thảo nghiên cứu lập hồ sơ dự án đầu
tư, chi phí ban đầu về mặt đất, mặt nước. Đối với loại chi phí này cần phải có sự xác nhận
của cơ quan có thẩm quyền và phải lập bằng văn bản cụ thể. Các chi phí này phải phù hợp
với quy định của Bộ tài chính về tiền thu mặt đất, mặt nước để có được khoản chi hợp lý.
-Gía trị nhà xưởng và kết cấu hạ tầng sẵn có được sử dụng cho dự án.
-Chi phí xây dựng mới hoặc cải tạo nhà xươởn cũng như các kết cấu hạ tầng.
-Chi phí mua máy móc thiết bị, dụng cụ sản xuất, phương tiện vận tải.
-Chi phí chuyển giao công nghệ.
-Chi phí đào tạo cán bộ.
-Các chi phí khác.

Tính toán vốn lưu động:
Vốn lưu động là số vốn tối thiểu cần thiết để đảm bảo cho việc dự trữ các tài sản
lưu động nhằm đáp ứng cho nhu cầu hoạt động của dự án. Chỉ có vốn lưu động ban đầu
mới được quyền tính vào vốn đầu tư gồm:
-Vốn sản xuất: Chi phí nguyên vật liệu, điện, nước, phụ tùng, bao, bì, tiền lương…
-Vốn lưu thông: Sản phẩm dở dang, tồn kho, thành phẩm tồn kho, hàng hoá bán
chịu, vốn bằng tiền, chi phí tiếp thị…
Dự phòng vốn đầu tư:
Với nền kinh tế thị trường như hiện nay thì nhân tố giá cả nguyên vật liệu xây dựng,
giá thuê nhân công, máy thi công thường xuyên có sự biến động mạnh cùng với những
biến động trên thị trường thế giới. Bên cạnh đó, trong quá trình thi công công trình có thể
gặp phải những rủi ro về kỹ thuật hoặc nảy sinh các chi phí bất thường… Chính vì vậy, cần
phải dự trù một khoản dự phòng vốn đầu tư sẵn sàng ứng phó với những bất trắc có thể xảy
ra.
Khi thẩm định về tổng vốn đầu tư cho dự án, ngân hàng cần xem xét:
-Đối với vốn xây lắp: Khi tính toán thường được ước tính trên cơ sở khối lượng xây dựng
phải thực hiện và đơn giá xây lắp tổng hợp. Khi kiểm tra cần lưu ý:
*Kiểm tra những công việc có tính chất trùng lắp.
*Những khối lượng công việc không nằm trong thành phần chi phí xây lắp.
*Kiểm tra sự đúng đắn và tính hiện hành của các định mức, đơn giá sử dụng
trong dự án.
-Đối với vốn thiết bị: Đây là loại vốn chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong các công
trình sản xuất công nghiệp. Thông thường phải chiếm tới 60-70% tổng mức vốn đầu tư.
*Kiểm tra lại danh mục thiết bị, số lượng, chủng loại, công suất và các chỉ tiêu kỹ
thuật đảm bảo đúng nội dung đầu tư cho thiết bị đã được tính toán trong phần kỹ thuật.
*Kiểm tra lại giá mua, chi phí vận chuyển, bốc dỡ, bảo quản. Tuỳ theo từng loại
thiết bị mà giá mua có thể sử dụng là giá thị trường hay giá do nhà nước quy định.
Riêng đối với Ngân hàng, việc xác định tiến độ bỏ vốn cho dự án giúp cho
quá trình điều hành vốn của Ngân hàng được thuận lợi trong khâu lập kế hoạch
nguồn vốn và sử dụng vốn đồng thời còn giúp cho ngân hàng theo dõi tốt hơn các

hoạt động của chủ đầu tư, từ đó đánh giá mức độ hiệu quả của những đồng vốn bỏ
ra.
Xác định nguồn vốn và sự đảm bảo nguồn vốn tài trợ cho dự án.
Hiện nay, một dự án có thể hình thành từ nhiều nguồn vốn khác nhau:
-Nguồn vốn tự có của doanh nghiệp( bao gồm cả vốn do các bên tham gia đóng góp).
-Nguồn vốn từ Ngân sách Nhà nước.
-Nguồn vốn tín dụng ngân hàng.
-Nguồn vốn vay hoặc liên doanh với các nhà đầu tư nước ngoài.
-Nguồn vốn huy động trực tiếp thông qua con đường phát hành trái phiếu…
Thẩm định về doanh thu, chi phí và lợi nhuận hàng năm của dự án.
NHTM là nhà tài trợ cho vốn cho dự án đặc biệt quan tâm đến vấn đề về doanh thu,
chi phí và lợi nhuận, trên cơ sở có đầu tư vào dự án hay không. Chính vì vậy, thẩm định về
chi phí sản xuất, doanh thu và lợi nhuận hàng năm của dự án là việc làm không thể thiếu
trong thẩm định tài chính của dự án.
Trên cơ sở doanh thu và chi phí hàng năm sẽ tính được lợi nhuận ròng hàng năm
của dự án. Lợi nhuận ròng được tính theo công thức sau
Thu nhập Doanh Chi phí Thu nhập
chịu thuế = thu trong - hợp lý + khác trong
trong kỳ kỳ trong kỳ kỳ
Kỳ tính thuế ở đây là năm dương lịch hoặc năm tài chính.
Thuế thu nhập = Thu nhập chịu thuế trong kỳ ×thuế suất thuế thu nhập DN
Lợi nhuận ròng = Thu nhập chịu thuế - thuế thu nhập
Thẩm định tính chính xác, hợp lý, hợp lệ của bảng dự trù tài chính. Cơ sở để xem xét là
dựa trên nội dung của luận chứng tài chính kinh tế kỹ thuật, dựa trên các chỉ tiêu, định mức kinh tế
kỹ thuật của ngành đó do Nhà nước ban hành hoặc các cơ quan chức năng công bố và dựa trên các
kết quả thẩm định các mặt thị trường, kỹ thuật – công nghệ, tổ chức để Ngân hàng thẩm định tính
chính xác, hợp lỹ của bảng dự trù tài chính.
-Xem xét tính toán các bảng tài chính.
-Bảng dự trù chi phí sản xuất hàng năm.
-Bảng dự trù doanh thu, lãi lỗ.

-Bảng dự trù cân đôi.
-Bảng dự trù cân đối thu chi.
Sau khi thẩm định các khoản thu nhập và chi phí hàng năm của dự án, Ngân hàng
phải xác định dòng tiền ròng hàng năm của dự án (NCF
i
).
Phân tích tài chính và thẩm định các chỉ tiêu hiệu quả tài chính dự án.
Thẩm định các chỉ tiêu hiệu quả tài chính dự án đầu tư thường được dựa trên các
tiêu chuẩn cụ thể của việc phân tích TCDA. Hiệu quả tài chính cũng như các chỉ tiêu hiệu
quả khác, bản chất của nó không chỉ được thể hiện trên một mặt nào đó mà trên nhiều khía
cạnh khác nhau, do vậy hệ thống chỉ tiêu thẩm định TCDA phải có mối liên hệ với nhau để
phản ánh hiệu quả dự án đầu tư một cách hoàn thiện, chính xác. Hệ thống chỉ tiêu thẩm
định TCDA có thể chia thành hai nhóm: Nhóm thứ nhất là nhóm phản ánh khả năng sinh
lời, nhóm kia phản ánh độ rủi ro của dự án. Còn trên góc độ nhà thẩm định là NHTM thì
còn có thêm nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng hoàn vốn của dự án.
i. Những chỉ tiêu thẩm định TCDA đầu tư điển hình:

×