Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Sinh không đau bằng gây tê và những biến chứng doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.84 KB, 17 trang )

Sinh không đau bằng gây tê và
những biến chứng

- Sinh không đau bằng vô cảm nói chung, và gây tê
ngoài màng cứng tủy sống, sản phụ có thể gặp những biến
chứng như đau lưng, nhức đầu, hạ huyết áp, tổn thương
thần kinh gây yếu, mất cảm giác, hoặc liệt



Ngày càng nhiều phương pháp giúp sản
phụ không phải chịu đựng stress tâm lý
do cơn đau chuyển dạ: sinh ngả âm đạo
có dụng cụ, mổ lấy thai với gây tê tủy
sống, sinh không đau nhờ gây tê ngoài
màng cứng (Ảnh minh họa: Hương Cát)


Từ năm 1988 đến hết 6/2008, tại BV Hùng Vương, 35.000 lượt
sản phụ áp dụng gây tê ngoài màng cứng tuỷ sống để đẻ không
đau. Sản phụ nằm trong độ tuổi 21-30 chiếm tỷ lệ cao nhất,
50,35%. Tỷ lệ thai phụ sanh con so sử dụng phương pháp đẻ
không đau là 54,61%.


Tuỷ sống là trung tâm điều hòa dẫn truyền xung động đau. Giảm
đau ngoài màng cứng tuỷ sống bắt đầu cách đây khoảng 100
năm. Sản phụ thường được gây tê với một lượng thuốc tê có
nồng độ thấp. Phương pháp này được thực hiện cho những sản
phụ có yêu cầu, và đặc biệt đối với những sản phụ có bệnh lý đi
kèm (bệnh tim mạch, suyễn, ). Đồng thời, các sản phụ cũng


giảm được stress tâm lý do những cơn đau gây ra.


Chuyển dạ được
mô tả "từ thống khổ
cho đến tột cùng
hạnh phúc". Nhiều
yếu tố có thể ảnh
hưởng dự cảm
nhận đau đẻ, bao
gồm, thời lượng
chuyển dạ, số lần
sinh nở, tham gia
các lớp chuẩn bị
sinh con/tiền sản,
sợ hãi và lo lắng về
chuyện sinh con,
thái độ và trải
nghiệm đau, và các
cơ chế đối phó
Đau âm ỉ, vọp bẻ
(chuột rút), đi kèm
với những cơn co
bóp tử cung, ngày
càng nhiều. Cơn
đau này xuất phát
từ cổ tử cung và cơ
tử cung. Sau đó,
cơn đau đẻ bắt đầu
chuyển lên thành

bụng, vùng thắt
lưng cùng, vùng
mông và đùi. Trong
giai đoạn chuyển
ti
ếp giữa cổ tử cung
mở trọn và sổ thai,
cơn đau chủ yếu có
nguồn gốc từ âm
đạo, đi kèm với thai
di chuyển trong ống
sinh.
Phụ nữ có chuyển
dạ khó khăn (ví dụ
con to và khung
chậu nhỏ) tăng
nguy cơ sinh mổ
cũng như phải chịu
đau nhiều h
ơn trong
khi chuyển dạ.
Những phụ nữ này
có thể sẽ yêu cầu
giảm đau chuyển

Ưu điểm của giảm đau ngoài màng cứng là:
Kiểm soát đau tốt hơn, giảm buồn nôn hoặc
ói mửa, đỡ lo âu, khả năng đi lại và di chuyển sớm hơn sau mổ,
tỉnh táo và ý thức hơn về môi trường chung quanh, chức năng hô
hấp bình thường trở lại nhanh hơn



Tuy nhiên, tại một hội thảo chuyên đề về gây mê hồi sức trong
lĩnh vực sản phụ khoa lần thứ V do BV Từ Dũ cùng với Hội Gây
mê hồi sức TP.HCM tổ chức đầu tháng 9 vừa qua, các chuyên
dạ, ví dụ như giảm
đau ngoài màng
cứng.
gia về sản phụ khoa cảnh báo, phương pháp này cũng có thể
đem đến đủ loại biến chứng.
Theo BS. Mark Rosen - ĐH Y Sanfrancisco, California, Mỹ, cảnh
báo ngoài nguy cơ không đạt được phong bế đau đầy đủ, bệnh
nhân có thể bị hạ huyết áp, nhức đầu, đau lưng, xuất huyết (tụ
máu), nhiễm trùng, và tổn thương thần kinh có thể gây yếu, mất
cảm giác, hoặc liệt.
Không phong bế hoàn toàn
Vô cảm tuỷ sống tạo ra vô cảm nhanh, dự đoán được và các bác
sĩ có thể kiểm soát được. Nhưng đôi khi bị thất bại vì những lý do
không rõ. Phong bế một phần hoặc không đủ có thể do di lệch
kim trong khi tiêm.
Trong khi đó, gây mê ngoài màng cứng tuỷ sống, các khả năng
dẫn đến thất bại còn vô số hơn. Đó có thể là do sự bám dính của
dây chằng, mô xơ từ phẫu thuật cột sống trước đây, hoặc đặt
nhầm dây dẫn truyền (catête). Catête đặt nhầm có thể vào tĩnh
mạch, cạnh đốt sống
Nhức đầu
Nhức đầu sau chọc rách màng cứng là một biến chứng tương đối
phổ biến của phương pháp sinh không đau trong sản khoa. Khả
năng của các triệu chứng liên quan đến kích cỡ và hình dạng của
kim đâm thủng màng cứng.

Giảm áp lực nội sọ và giãn mạch máu thứ phát dẫn đến triệu
chứng kinh điển của nhức đầu, có thể kèm theo co thắt và đau cơ
cột sống cổ. Mặc dù các triệu chứng này thường tự khỏi, nhưng
có thể dai dẳng. Và dù hầu hết là biến chứng lành tính, nhưng
nếu không được điều trị có thể dẫn đến bệnh lý thần kinh sọ hoặc
tụ máu ngoài màng cứng.
Liệt thần kinh sọ



Thần kinh vận nhãn ngoài là thần kinh sọ
thường bị ảnh hưởng nhất, bị kéo căng do
thất thoát dịch não tủy sau khi chọc rách
màng cứng. Khởi phát điển hình của triệu
chứng "song thị" là 3-10 ngày, sau khi tai
biến. Song thị có thể kéo dài hàng tháng. Thiếu máu cục bộ thần
kinh thị giác do co kéo hoặc hạ áp kéo dài có thể gây ám điểm
vĩnh viễn.


Kiểm tra một sản
phụ chuyển dạ sinh
thư
ờng tại BV Từ Dũ
(Ảnh: H.Cát)
Thần kinh tiền đình ốc tai có thể bị ảnh hưởng bởi vô cảm tủy
sống (ước tính khoảng 0,4-9,1%). Kiểm tra thính lực của sản phụ
sinh mổ với vô cảm tuỷ sống cho thấy 14% có giảm thị lực.
Liệt dây thần kinh sọ sau khi phong bế thần kinh trung ương
thường hiếm gặp và đa phần là lành tính, nhưng hay kéo dài

nhiều tháng sau sinh.
Đau lưng
Tần suất đau lưng dưới hậu sản, trong các nghiên cứu từ 10%
đến tận 70%, thậm chí cả khi sinh thường không dùng phương
pháp giảm đau. Nhiều yếu tố có thể gây đau lưng dưới hậu sản là
lên cân trong thai kỳ, trọng lượng thai, thay đổi ở dây chằng, đa
thai và sinh nhiều lần.
Sốt
Mặc dù gây tê tủy sống (vô cảm tủy sống) và gây tê ngoài màng
cứng (vô cảm ngoài màng cứng) điển hình có liên quan đến giảm
thân nhiệt do sự giãn mạch, tái phân bố nhiệt từ trung tâm ra
ngoại biên, và mất nhiệt vào môi trường, vô cảm ngoài màng
cứng chuyển dạ thường đi kèm với tăng thân nhiệt cao đến 38
o
C.
BS. Mark Rosen cho biết, theo một số nghiên cứu ngẫu nhiên,
15% phụ nữ được giảm đau ngoài màng cứng khi chuyển dạ bị
sốt so với 4% sản phụ khác không được giảm đau ngoài màng
cứng.
Điều đáng lo ngại là các bé sơ sinh có mẹ được giảm đau ngoài
màng cứng dễ có khả năng bị xét nghiệm tìm nguyên nhân gây
sốt và điều trị bằng kháng sinh. Cho dù những em bé này không
tăng nguy cơ nhiễm trùng huyết.
Tổn thương thần kinh
Tổn thương do catête hoặc tiêm thuốc tê vào thần kinh là các
biến chứng thần kinh đáng sợ nhất của phương pháp này trong
sản khoa. Tuỷ sống, chóp tuỷ, và các rễ thần kinh dễ bị tổn hại do
chấn thương trực tiếp. Các chấn thương này có thể do xác định
không chính xác chỗ đâm kim.
Theo các chuyên gia, nhiều trong số các bệnh thần kinh này có

thể phục hồi được, nhưng người phụ nữ đã bị tổn thương vĩnh
viễn do vô cảm ngoài màng cứng và tuỷ sống.

×