Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

GIỚI THIỆU VỀ CHƯƠNG TRÌNH MỸ THUẬT LỚP 1 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.82 KB, 19 trang )

GIỚI THIỆU VỀ CHƯƠNG TRÌNH MỸ THUẬT LỚP 1.
I. Những điểm mới của chương trình Mỹ thuật.
Chương trình Mỹ thuật ở Tiểu học năm 2002 có những điểm
mới:
1) Cấu trúc:
Chương trình chia làm hai giai đoạn.
Giai đoạn 1: Ở lớp 1, 2, 3 Mỹ thuật cùng Âm nhạc Thủ công
gọi là Nghệ thuật nhưng vẫn học riêng tuần 1 tiết.
Giai đoạn này HS không có SGK mà có Vở Tập vẽ, GV có sách
hướng dẫn giảng dạy (SGV).
Giai đoạn 2: Ở lớp 4, 5 Mỹ thuật là môn học độc lập 01 tuần
/tiết.
Giai đoạn này HS có SGK và Vỡ Tập vẽ, GV có sách hướng dẫn
giảng dạy (SGV).
2) Tên loại bài học:
- Thay tên một số loại bài học cho phù hợp và rõ nghĩa hơn.
- Xem tranh và giới thiệu mỹ thuật thành Thường thức mỹ
thuật.
- Vẽ tranh đề tài thành Vẽ tranh.
- Nặn và tạo dáng thành Tập nặn - tạo dáng tự do.
3) Thời lượng:
- Từ 33 tiết/năm lên 35 tiết/năm.
4) Nội dung:
a- Chú trọng hơn giáo dục thẩm mỹ: giáo dục cái đẹp và cảm
xúc trước cái đẹp.
b- Tăng cường thực hành, giảm lý thuyết, mở rộng ứng dụng cụ
thể:
+ Giảm lý thuyết về màu sắc, phương pháp tiến hành bài vẽ.
+ Các dạng bài tập gắn liền với sinh hoạt, học tập của học sinh
và sát với thực tế địa phương.
c- Giảm vẽ theo mẫu: giảm số tiết và số đồ vật ở mẫu vẽ.


d-Tăng Vẽ tranh và Tập nặn - tạo dáng tự do (xem phân phối
chương trình).
5. Đánh giá:
5.1. Xu thế:
Theo xu thế chung, môn MT ở tiểu học không đánh giá kết quả
học tập của học sinh bằng thang điểm 10 như trước vì những lí do như
sau:
- Mỹ thuật là môn học nghệ thuật, kết quả của nó là CẢM XÚC
CÁI ĐẸP (chứ không đơn giản là kỹ thuật). Muốn tạo ra cái đẹp, học
sinh phải có CẢM XÚC. Cảm xúc phải xuất phát từ sự rung động của
học sinh trước vẽ đẹp của đối tượng cùng với phương pháp giảng dạy
hấp dẫn, lôi cuốn của giáo viên. Cảm xúc của học sinh cũng rất khó
đánh giá. Trong thực tế cho thấy học sinh tiểu học rất thích học MT và
kết quả học tập của các em rất khả quan. Cụ thể là đa số học sinh rất hồ
hởi, phấn khởi học MT và vẽ, nặn đạt yêu cầu, một bộ phận vẽ, nặn
đẹp. Song cũng có một số học sinh rất khó thể hiện những cảm xúc,
những hiểu biết của mình ra sản phẩm (bài vẽ, bài nặn). Vì thế đánh giá
kết quả học MT bằng điểm số ở trên sẽ không khách quan, mới chỉ thấy
được phần nổi (những gì thấy ở sản phẩm), chưa thấy được phần chìm
(những gì mà học sinh cảm nhận và áp dụng vào sinh hoạt, học tập
hàng ngày yêu mến, trân trọng cái đẹp, ăn mặc gọn gàng, trình bày sách
vở đẹp…).
- Quan điểm về cái đẹp của giáo viên rất khác nhau, hơn nữa
nhận thức về nghệ thuật tuổi thơ của giáo viên còn hạn chế. Việc đánh
giá kết quả học tập của học sinh phần lớn là cảm tính của giáo viên,
không phản ánh thực lực của các em. Vì thế cho điểm thang bậc 10 ở
môn MT sẽ là không thoả đáng, sẽ ảnh hưởng đến tinh thần học tập của
học sinh.
5.2. Mức độ:
Đánh giá kết quả học MT của học sinh tiểu học chia làm hai mức

độ:
a) Hoàn thành.
- Những bài đạt trung bình (theo mục tiêu bài học đề ra).
- Những bài đạt khá, giỏi (vượt yêu cầu).
b) Chưa hoàn thành.
- Những bài dưới trung bình: yếu, kém.
Trọng tâm và những điểm khó của chương trình MT lớp 1.
1) Trọng tâm.
Trọng tâm của chương trình MT nói chung, lớp 1 nói riêng luôn
là giáo dục thẩm mỹ cho HS. Như vậy dạy MT ở trường phổ thông là
dạy cảm thụ - cảm thụ cái đẹp mới là chủ yếu, không đơn giản chỉ là
dạy kỹ thuật (kỹ thuật vẽ). Qua môn MT, HS yêu thích cái đẹp, tập tạo
ra cái đẹp theo ý mình và áp dụng cái đẹp vào sinh hoạt, học tập hàng
ngày. Cái đẹp rất cần cho cuộc sống con người, nhưng để hiểu biết cái
đẹp phải được giáo dục từ tuổi còn thơ. Dạy MT ở trường phổ thông là
góp phần tạo dựng môi trường thẩm mỹ cho xã hội.
2) Những điểm khó:
2.1. Quan niệm, nhận thức chưa rõ, chưa đúng về:
- Vị trí, mục đích, nhiệm vụ của môn MT ở trường phổ thông.
- Khả năng thể hiện và nghệ thuật trẻ thơ.
Vì thế quản lí, chỉ đạo cũng như giảng dạy còn gặp khó khăn,
chưa phản ánh đúng năng lực học tập và hoạt động của học sinh đối với
môn MT.
2.2. Khả năng chuyên môn, nghiệp vụ của giáo viên còn hạn chế.
- Chưa hiểu đầy đủ đặc điểm của môn MT và các khái niệm,
thuật ngữ của nó. Vì vậy giáo viên thường dạy kỹ thuật vẽ nhiều hơn là
dạy cảm thụ.
- Chưa tìm ra phương pháp đặc thù của môn MT nên giáo viên
thường gò ép theo khuôn mẫu, chưa chú ý đến khả năng suy nghĩ, tìm
tòi, sáng tạo của học sinh.

2.3. Thiết bị phục vụ cho dạy học MT còn nghèo nàn.
- Thiếu mẫu vẽ theo quy chuẩn để vẽ, tranh đẹp để học sinh
tham khảo.
- Thiếu hình ảnh hướng dẫn học sinh suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo.
- Thiếu tài liệu đọc thêm….
Những khó khăn nêu trên không thuộc về chương trình và học
sinh, mà thuộc về cách nhìn nhận môn MT ở trường phổ thông chưa
đúng. Đó là nguyên nhân của “những điểm khó” cho việc dạy học MT
ở trường phổ thông từ nhiều năm nay.
3) Từ cách xác định trọng tâm và những điểm khó như trên, giáo
viên cần lưu ý:
3.1. Về nhận thức:
Nhận thức đúng đắn hơn:
- Vị trí: môn MT là môn học độc lập trong hệ thống giáo dục phổ
thông, góp phần giáo dục nhiều mặt cho học sinh.
- Mục tiêu: môn MT ở trường phổ thông không đào tạo hoạ sĩ
hay những người chuyên làm nghề MT mà lấy giáo dục thẩm mỹ cho
học sinh làm cái đích, nói cách khác là đào tạo những người thường
thức cái hay, cái đẹp cho xã hội (không có ý định đào tạo người làm ra
cái đẹp).
- Nhiệm vụ của giáo viên tiểu học: dạy tất cả các môn, không
xem thường môn nào vì các môn học trong chương trình có sự móc nối,
liên kết, bổ sung cho nhau, tạo cho nhận thức của học sinh phong phú
hơn.
3.2. Về kiến thức:
Cần thường xuyên bổ sung kiến thức MT cả về lí thuyết và thực
hành.
- Nhận thức đúng đắn về đặc điểm của MT: tạo ra cái đẹp nhiều
hình, nhiều vẻ mới là chủ yếu. Vì thế cần suy nghĩ, tìm tòi, khám phá
để có cái mới của riêng mình.

- Hiểu rõ hơn các khái niệm, thuật ngữ chuyên môn: vẽ theo
mẫu, vẽ trang trí, vẽ tranh, thường thức mỹ thuật, bố cục hài hoà, hình
tượng… để có thể dạy đúng, dạy tốt môn MT.
- Tăng cường thực hành: để hiểu sâu hơn về vẻ đẹp của bố cục
đường nét, hình mảng, màu sắc, vì đó là ngôn ngữ của MT, là cơ sở để
đánh giá cái đẹp bài vẽ, đồng thời giáo viên có thể minh hoạ cho bài
dạy, hướng dẫn cho học sinh dễ dàng có sức thuyết phục hơn.
- Tìm hiểu ngôn ngữ tạo hình của học sinh: để biết khả năng thể
hiện, cách biểu cảm của trẻ, từ đó mà hướng dẫn, động viên, khích lệ
các em suy nghĩ, sáng tạo.
3.3. Về nghiệp vụ sư phạm.
Đây là khâu còn yếu vì những lý do sau:
- Dạy học MT ở trường phổ thông còn thiếu kinh nghiệm (về
quản lý, tổ chức, dạy học và đánh giá).
- Đào tạo giáo viên ở các trường THSP chưa chú ý nhiều về
nghiệp vụ giảng dạy MT.
- GV tiểu học dạy tất cả các môn, do đó bị các môn chính chi
phối cả chuyên môn, nghiệp vụ, ít chú ý đến đặc trưng của môn MT,
thường dạy học MT như dạy các môn học khác, vì thế chưa mang lại
hiệu quả, chưa gây hứng thú cho học sinh. Giáo viên dạy MT lớp 1 cần
lưu ý:
+ Dạy học MT nhẹ nhàng, hấp dẫn, lôi cuốn học sinh.
+ Liên hệ bài học với thực tiễn cuộc sống làm cho kiến thức
phong phú hơn.
+ Tạo điều kiện cho học sinh tham gia vào quá trình nhận
thức, tránh lý thuyết nhiều và chung chung.
3.4. Về đánh giá.
Giáo viên cần nhận rõ mục đích, yêu cầu của đánh giá kết quả
học tập MT của học sinh.
- Đánh giá để động viên, khích lệ học sinh học tập là chủ yếu.

- Đánh giá kết quả học tập MT cần dựa vào:
+ Thái độ: Sắp xếp hình rõ nội dung, vừa với khổ giấy, hình
vẽ rõ, ngộ nghĩnh, nét vẽ thoải mái, tự nhiên, màu sắc tươi tắn (không
quá lệ thuộc vào cái thực đúng, chính xác về hình, về màu).
+ Mức độ: theo yêu cầu đã đề ra cho mỗi bài, cho từng thời kì,
lấy yêu cầu trung bình - đa số học sinh đạt được làm thước đo, từ đó
suy ra các mức độ khá, giỏi hay yếu kém.
+ Sự tiến bộ của học sinh: Khách quan, không định kiến (vì
có học sinh khá ở lại bài này nhưng lại yếu kém ở loại bài khác, hoặc
do hứng thú học tập mà có bài vẽ khá và ngược lại).
GIỚI THIỆU VỀ SÁCH MỸ THUẬT LỚP 1.
I. Đặc điểm chung của sách Mỹ thuật lớp 1.
1) Vở tập vẽ: (VTV).
1.1. Cấu trúc.
Vở tập vẽ có cấu trúc như sau:
- Hình ảnh minh hoạ: (Hình vẽ, ảnh, tranh) để:
+ Giới thiệu bài học: Ví dụ
 Nét thẳng, nét cong, hoặc hình vuông…
 Màu đỏ, màu vàng hoặc đường diềm.
 Quả chuối, con gà hoặc cây, nhà…
+ Giới thiệu cách vẽ, cách nặn cách xé dán….
+ Giới thiệu các bài tham khảo.
- Bài tập thực hành:
- Bài tập gồm có các dạng sau:
+ Hình vẽ sẵn để học sinh vẽ màu.
+ Hình vẽ (chưa hoàn thành) để học sinh vẽ tiếp & vẽ màu.
+ Học sinh tự vẽ hình theo yêu cầu của bài tập và vẽ màu tự
do vào phần giấy quy định bên phải.
1.2. Nội dung:
Nội dung vở tập vẽ bao gồm:

a) Vẽ nét, vẽ hình.
+ Vẽ nét thẳng, nét cong.
+ Vẽ hình đơn giản: Hình tứ giác, hình tam giác.
+ Vẽ nặn xé dán hình quả, cây…
+ Vẽ nặn xé dán một vài con vật quen biết.
b) Vẽ trang trí.
+ Tập vẽ hoạ tiết trang trí đơn giản.
+ Tập trang trí hình đơn giản (Hình vuông, đường diềm…).
+ Tập tô màu vào hình vẽ sẵn.
c) Tập xem tranh.
Xem tranh của thiếu nhi vẽ về các đề tài gần gũi, quen thuộc:
+ Tranh phong cảnh.
+ Tranh sinh hoạt.
+ Tranh các con vật.
1.3. Phương pháp biên soạn VTV lớp 1.
- Các hình minh hoạ ở Vở tập vẽ chỉ là gợi ý:
+ Gợi ý nội dung.
+ Gợi ý cách vẽ.
+ Gợi ý một phương án của bài tập (tranh minh hoạ) không
yêu cầu HS chép hoặc vẽ “na ná” sang bài vẽ của mình (trừ các bài vẽ
tiếp ở trang trí). Từ những gợi ý, HS có thể vẽ, nặn theo ý thích và vẽ
màu tự do. Ví dụ: Bài vẽ con gà, HS có thể vẽ:
 Một con gà
 Hai, ba con gà.
 Đàn gà (như tranh của A.Bơt)
- Học sinh vẽ xé dán hình vừa với phần giấy quy định, tránh vẽ
hình nhỏ hay to quá hoặc xô lệch.
- Hình vẽ của HS lột tả được đặc điểm (nhận ra hình vẽ gì, hao
hao, ngộ nghĩnh), không đòi hỏi thật thẳng (không dùng thước để kẻ).
HS vẽ màu theo ý thích, không yêu cầu các em vẽ màu như thực. HS vẽ

hình, vẽ màu theo khả năng và cảm nhận riêng. Như vậy tuy cùng một
nội dung nhưng các bài vẽ sẽ không giống mẫu, không giống nhau về
cách sắp xếp (bố cục), về hình vẽ và màu sắc.
2) Sách giáo viên (SGV):
2.1. Cấu trúc và nội dung:
Sách giáo viên MT lớp 1 có 2 phần:
a) Phần thứ nhất:Những vấn đề chung về dạy MT lớp 1.
Phần thứ nhất gồm có:
- Mục tiêu.
- Nội dung.
- Phương pháp giảng dạy.
+ Phương pháp thường vận dụng.
+ Các hoạt động dạy học chủ yếu.
+ Chú ý.
b) Phần thứ hai - Hướng dẫn cụ thể.
Phần này hướng dẫn dạy từng bài. Các bài đều theo cấu trúc
chung như sau:
- Mục tiêu (những gì cần đạt được sau bài dạy).
- Đồ dùng dạy học (của giáo viên và học sinh).
+ Hình ảnh minh hoạ (tranh, ảnh, vật thực).
+ Phương tiện cần cho dạy học (giấy, màu…).
- Các hoạt động dạy học chủ yếu.
Các hoạt động dạy học gồm có:
+ Giới thiệu bài học.
 Vào bài
 Hướng dẫn HS quan sát, nhận xét, tìm hiểu bài học.
+ Hướng dẫn HS cách làm bài: cách vẽ hình, cách nặn, cách
vẽ màu (Cách tiến hành làm một bài sao cho có hiệu quả cao hơn).
+ Thực hành: HS làm bài theo yêu cầu đề ra và bằng khả năng
của mình. GV gợi ý, giúp đỡ HS làm bài.

+ Nhận xét, đánh giá: HS tự do nhận xét, đánh giá bài vẽ (đẹp
hay chưa đẹp, thích hay không thích) bằng cảm nhận riêng theo sự gợi
ý của giáo viên.
+ Dặn dò HS: quan sát, nhận xét mọi vật xung quanh; sưu tầm
hình ảnh (vật thực, ảnh, tranh) nhằm củng cố bài học và chuẩn bị cho
bài sau. Làm hoặc làm tiếp bài (chưa hoàn thành).
2.2. Phương pháp biên soạn SGV Mỹ thuật lớp 1.
a) Phần thứ nhất.
- Giới thiệu những vấn đề chung nhất của chương trình: Mục
tiêu; Nội dung; Phương pháp giảng dạy… Trên cơ sở đó, GV nắm được
tinh thần cơ bản và vận dụng vào từng hoàn cảnh, từng bài dạy, từng
đối tượng cụ thể.
b) Phần thứ hai.
Hướng dẫn cụ thể từng bài theo trình tự chung. Phần này, GV
nghiên cứu và soạn thành bài dạy của mình sao cho có hiệu quả: phù
hợp với thực tế địa phương (cơ sở vật chất, khả năng HS), với từng loại
bài học (vẽ theo mẫu, vẽ trang trí, vẽ tranh…).
II. Hướng dẫn cách sử dụng SGV và VTV Mỹ thuật lớp 1.
Để có thể dạy học tốt MT lớp 1, cần lưu ý:
1) Giáo viên.
1.1. Giáo viên cần nghiên cứu SGV, VTV.
- Mục tiêu của MT ở lớp 1.
Khi nghiên cứu mục tiêu, GV cần chú ý đến các cụm từ:
+ Kiến thức ban đầu.
+ Các kỹ năng cần thiết… Các cụm từ này muốn nói đến mức
độ (mới chỉ là bước đầu và thật cần thiết…) đối với lớp 1, GV cần biết
lựa chọn kiến thức, cách dạy (cách đặt vấn đề, cách diễn đạt…) cho phù
hợp.
+ Giáo dục thẩm mĩ (Thế nào là giáo dục thẩm mỹ? Giáo dục
thẩm mỹ qua dạy vẽ, dạy nặn như thế nào?).

- Nội dung:
+ Khi tìm hiểu nội dung MT lớp 1, GV cần chú ý các thuật
ngữ.
 Về mô phỏng.
 Cảm nhận (vẽ bằng cách nhìn, cách nghĩ, cách cảm của
HS không sao chép rập khuôn như mẫu).
 Sắp xếp.
 Cân đối…. Và mức độ của yêu cầu, nội dung.
 Làm quen
 Nhận biết
 Tập vẽ hình, tập nặn, tập vẽ màu, tập nhận xét…
GV cần hiểu rõ nội dung các khái niệm, thuật ngữ và các mức độ
nội dung mới có thể dạy MT một cách dễ dàng, thoải mái và có hiệu
quả.
+ Khi tìm hiểu nội dung MT lớp 1, GV tự đặt các câu hỏi và
suy nghĩ, trả lời:
 Mỹ thuật là gì?
 Thế nào là Vẽ theo mẫu. Vẽ trang trí, Vẽ tranh, Tập nặn
tạo dáng tự do và Thường thức MT?
Phương pháp dạy học .
GV cần nắm vững các hoạt động dạy học chủ yếu:
+ Hướng dẫn HS quan sát nhận xét.
+ Hướng dẫn HS cách vẽ, cách nặn, cách xem tranh.
+ Hướng dẫn HS làm bài.
+ Hướng dẫn HS nhận xét, đánh giá… đồng thời tìm hiểu về
quan hệ của các hoạt động trên.
+ Hoạt động có tính quyết định đến chất lượng bài tập của HS.
+ Nhiệm vụ của GV đối với các hoạt động trên.
1.2. Chuẩn bị cho bài dạy MT lớp 1:
- Chuẩn bị đồ dùng dạy học: Ngoài những hình ảnh có ở VTV, ở

bộ đồ dùng dạy học, GV cần nghiên cứu chuẩn bị, cụ thể là:
+ Sưu tầm thêm hình minh họa có khuôn khổ lớn, đẹp hơn.
+ Sưu tầm các hình ảnh, vật thực có ở địa phương cùng nội
dung (quả, cây, các con vật, phong cảnh…) để bài dạy có thực tế và
sinh động.
+ Tự làm một số đồ dùng dạy học theo cách suy nghĩ riêng
của mình.
- Chuẩn bị kế hoạch dạy học (bài soạn cụ thể).
Nghiên cứu SGV, VTV để chuẩn bị kế hoạch dạy học cho mỗi
bài. Ví dụ:
+ Mục tiêu: rõ, sát.
+ Đồ dùng dạy học: phong phú, đẹp.
+ Kiến thức: có trọng tâm.
+ Phương pháp: Phát huy tính tự giác, độc lập của HS trong suy
nghĩ, tìm tòi và tôn trọng sáng tạo của mỗi HS
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC MỸ THUẬT.
I. Phương pháp dạy học MT ở lớp 1.
1) Đặc điểm của lớp 1 và môn MT.
- Học sinh lớp 1 chưa ý thức được “tầm quan trọng” của các
môn học. Nhưng chắc chắn là các em thích vẽ, thích nặn, thích xem
tranh – thích cái đẹp. Đó là một thuận lợi cho dạy học MT ở đối tượng
này - đối tượng có nhu cầu thẩm mỹ.
- Giáo viên lớp 1.
+ Dạy nhiều môn, suy nghĩ về môn “chính”, môn “phụ” còn
nặng nề. Do đó chưa chú ý nhiều dạy học MT - hãy còn xem nhẹ.
+ Dạy học MT ở các trường THSP và CĐSP, chất lượng
chuyên môn và nghiệp vụ còn hạn chế. Vì thế kết quả dạy học MT của
GV còn gặp nhiều khó khăn, nhất là cách nhận xét, đánh giá kết quả
học tập của HS thiếu khách quan, chưa động viên được tinh thần học
tập của các em.

- Đặc trưng của MT là tạo ra cái đẹp:
+ Cái đẹp nhiều hình vẽ (không sao chép, không rập khuôn)
luôn có cái mới, lạ về sắp xếp, về hình vẽ, về màu.
+ Cái đẹp phù hợp với cách nhìn, cách nghĩ, cách cảm của mỗi
HS (các bài vẽ sẽ không giống nhau). Trẻ em có cách nhìn, cách nghĩ,
cách cảm riêng (phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi) không
giống cách nhìn, cách nghĩ, cách cảm của người lớn. Vì vậy HS nói
chung, lớp 1 nói riêng có cách vẽ, cách biểu cảm – có ngôn ngữ tạo
hình riêng của mình.
2) Phương pháp dạy học MT ở lớp 1.
2.1. Tư tưởng của phương pháp dạy học.
Từ những đặc điểm trên, phương pháp dạy MT lớp 1 cần lưu ý:
- Vận dụng phương pháp dạy học chung một cách linh hoạt.
- Dạy MT lớp 1 cần có phương pháp “mềm dẻo” hơn. Vì vậy tư
tưởng của phương pháp dạy học chung và dạy học MT là: Phát huy tính
độc lập, tích cực suy nghĩ, tìm tòi sáng tạo của HS.
a) Vì sao phải phát huy tính tích cực học tập của HS?
Dạy học là quá trình hoạt động của GV và HS: GV dạy – cung
cấp kiến thức. HS học - tiếp nhận kiến thức. GV dạy tốt, HS học tốt và
ngược lại.
Cuối cùng của dạy học là kiến thức của THẦY GIÁO phải “vào”
HỌC SINH một cách nhẹ nhàng, thoải mái, đầy đủ và phong phú. Từ
những kiến thức tiếp thu được, HS còn có khả năng mở rộng, phát triển
và vận dụng một cách linh hoạt để giải quyết các bài tập, cũng như
trong sinh hoạt thường ngày, trong những công việc cụ thể sau này. Vì
vậy việc chủ động lĩnh hội kiến thức phải thuộc về HS, nhất là HS tiểu
học - lứa tuổi mà ý thức học tập kiến thức phải thuộc về HS - lứa tuổi
mà ý thức học tập chưa được xác định một cách đầy đủ, đúng đắn. Các
em học đấy nhưng phải VUI MÀ HỌC - khi vui thích thì việc học tập
sẽ là tự nguyện, không bị gò ép, thúc bách khi HỌC NHƯ CHƠI thì

việc học sẽ trở nên nhẹ nhàng, thoải mái, học là một trong những nhu
cầu của học sinh .Song làm sao cho HS THÍCH HỌC mới là vấn đề cơ
bản của DẠY HỌC mà người GV phải lưu ý. Suy cho cùng, HS phải
tích cực HỌC TẬP thì DẠY HỌC mới có hiệu quả. Đến đây chúng ta
sẽ thấy vai trò chủ đạo thuộc về GV và vai trò chủ động thuộc về HS.
Khi tính tích cực học tập của HS được thể hiện thì các em sẽ chú ý lắng
nghe, hăng hái trả lời những câu hỏi của GV, nêu lên những thắc mắc
về những gì mình chưa rõ, chưa hiểu và chịu khó suy nghĩ, tìm tòi để
tạo ra cái mới, cái lạ cho bài vẽ bằng sự thích thú bằng khả năng và cảm
thụ của mình. Đây chính là yêu cầu của dạy học MT ở TH, và mầm
móng của sáng tạo, là một trong những phẩm chất cần có của người lao
động trong xã hội tương lai.
b) Thực tế dạy học MT hiện nay ở TH.
Qua khảo sát ở nhiều trường, nhiều địa phương chúng tôi nhận
thấy:
- Dạy MT ở TH vẫn có tình trạng GV thông báo kiến thức một
cách chung chung (như ở SGK), chưa chú ý đến yếu tố thẩm mỹ của
bài học, chưa quan tâm móc nối, liên hệ với những gì liên quan để mở
rộng tầm hiểu biết cho HS.
- Học MT của HS chưa thực sự thoải mái, các em vẽ thường gò
bó, công thức, đôi khi rập khuôn, sự suy nghĩ, tìm tòi chưa được giải
phóng, hiện tượng bắt chước, lập lại từ cách vẽ hình, vẽ màu, cách tìm
chủ đề cho đề tài vẫn còn chung chung, đơn điệu… là phổ biến. Trái
lại, HSTH thích học MT- thích vẽ, thích xem tranh. Phải chăng tính tích
cực học tập của HS chưa được đánh thức, vì thế sự suy nghĩ, tìm tòi của
các em chưa được khởi động?
c) Phát huy tính độc lập, tích cực suy nghĩ tìm tòi sáng tạo của HS với
dạy học MT.
Để phát huy tính độc lập, tích cực suy nghĩ tìm tòi, sáng tạo của HS,
GV cần lưu ý.

- Tạp không khí phấn khởi cho giờ học, thu hút sự chú ý, gây
tâm lý chờ đón, hồi hộp cho HS, không nên “đi ngay” vào nội dung. Có
thể nêu câu hỏi hay một mẩu chuyện nhỏ có liên quan đến nội dung bài
học.
- Cần đặt câu hỏi cho HS suy nghĩ trước về nội dung. Thí dụ: Vẽ
như thế nào? Tô màu như thế nào là đẹp? Vẽ hình ở chỗ nào?
- Gợi ý ở mẫu… từ bài vẽ để HS tự tìm ra cách vẽ, cách sửa
chữa hay điều chỉnh.
- Cung cấp thêm tư liệu xung quanh nội dung bài học giúp HS
hiểu biết hơn, dù là những chi tiết nhỏ? Thí dụ: Hình ảnh về con gà
trống: Chọi gà trong ngày hội, Hình ảnh anh bộ đội: các binh chủng,
màu trang phục, quân hàm, quân hiệu. Các loại cây: hình dáng, màu
sắc. Qua hình ảnh, qua hình tượng ở lời văn của GV, HS hiểu biết thêm
và vẽ khi hiểu biết bao giờ cũng mang lại hiệu quả.
Phương pháp này xuất phát từ mục đích của dạy học – HS phải
là người chủ động lĩnh hội tri thức. Đối với MT, HS phải hiểu và thích
thú mới biến cái chung thành cái riêng của mình được.
2.2-Các phương pháp thường vận dụng – phương pháp đặc
trưng của dạy học MT lớp 1.
2.2.1-Phương pháp trực quan
a) Ý nghĩa
Dạy học MT là dạy và học bằng trực quan. Kiến thức của MT là
đường nét, hình dáng, đậm nhạt, màu sắc, bố cục hiện diện ở trên đồ
dùng dạy học một cách rõ ràng, HS cần được nhìn, được ngắm và cảm
thụ.
Đồ dùng dạy học MT cần được đặc biệt chú ý, vì nó là nội dung
bài dạy.
b) Chuẩn bị
- Chuẩn bị đầy đủ đồ dùng dạy học theo yêu cầu của bài dạy.
Ngoài ra GV có thể tự làm và sưu tầm thêm theo cách suy nghĩ của

mình. Đồng thời vận động phụ huynh HS cùng đóng góp. Muốn vậy
GV cần nghiên cứu chương trình, bài dạy để có kế hoạch chuẩn bị
trước. Đồ dùng dạy học cần:
+ Có tính thẫm mĩ: đẹp về hình dạng, tỉ lệ đậm nhạt. Trình bày
(biểu bảng) rõ ràng, sáng sủa.
+ Có trọng tâm cho từng bài dạy
+ Có kích cỡ to vừa phải để HS nhìn rõ
- Phân loại đồ dùng dạy học sao cho phù hợp
+ Đồ dùng cho vẽ theo mẫu cần đảm bảo:
• Đường nét, hình khối, đậm nhạt rõ ràng
• Tương quan tỉ lệ, đậm nhạt đẹp
Nếu mẫu nhỏ có thể đặt thêm (2-3 mẫu) dạng tương đương (có ở
địa phương) cho HS vẽ theo nhóm.
+ Đồ dùng cho vẽ trang trí vẽ, tranh đề tài, thường thức MT có
thể là vật thực: đồ mỹ nghệ (đồ gốm, mây tre, vải, thổ cẩm…) là tranh
ảnh phiên bản (ảnh chụp) tranh, bài vẽ của HS, các biểu bảng hướng
dẫn.
+ Phân loại đồ dùng theo trọng tâm bài dạy:
 Đồ dùng phát huy năng lực quan sát
 Đồ dùng phát triển khả năng sáng tạo
 Đồ dùng minh họa cách vẽ hình, vẽ bóng, vẽ màu
 Đồ dùng minh họa tương quan: nét, hình, màu sắc, đậm, nhạt
trong bài vẽ.
 Đồ dùng nâng cao khả năng cảm thụ
 Đồ dùng minh họa các chi tiết
c) Sử dụng đồ dùng dạy học
Sử dụng đồ dùng dạy học hợp lí sẽ mang lại hiệu quả cao, ngược
lại sẽ làm cho nhận thức của HS không có trọng tâm. Khi sử dụng đồ
dùng dạy học cần chú ý.
- Trình bày khoa học: theo trình tự nội dung, treo, đặt nơi dễ

trông.
- Giới thiệu hay cất đồ dùng dạy học phải hợp lí. Có thể:
+ Giới thiệu xong “cất” đi ngay (từng đơn vị kiến thức) - các bài
minh họa cho cách vẽ mảng, vẽ hình, vẽ màu, bố cục, các phương án
khác nhau mhằm phát huy khả năng suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo cho HS.
+ Giới thiệu và để tất cả giúp HS có cách nhìn bao quát (thường
dùng cho giới thiệu tác phẩm MT).
- Lời giới thiệu nội dung hoặc các câu hỏi gợi ý HS suy nghĩ về
nội dung của GV phải “ăn khớp” – cùng thời điểm với sự xuất hiện đồ
dùng dạy học để nhận thức của HS thành mạch, liên tục, không bị “gián
đoạn".
- GV cần “chỉ vào” những nơi cần thiết ở đồ dùng dạy học để
nhấn mạnh trọng tâm của bài hoặc nhấn mạnh về nét, hình, bố cục…
Không chỉ giới thiệu chung bằng lời. Ở đây muốn nói đến sự cần thiết
phải kết hợp giữa lời giảng giải, phân tích với việc chỉ ra ở đồ dùng dạy
học để theo dõi của HS tập trung vào những điểm chính, không bị các
chi tiết lôi cuốn.
- Khi HS làm bài, GV cần chú ý:
+ Với bài vẽ theo mẫu : HS nhìn mẫu để vẽ. Lúc này cất các biểu
bảng và xóa các hình mình họa trên bảng.
+ Với các bài vẽ trang trí, vẽ tranh đề tài: Cất tất cả biểu bảng,
xóa hình minh họa. Học sinh nhớ lại những gì đã nghe, đã nhìn và suy
nghĩ, tìm tòi, vẽ theo ý mình.
+ Với bài giới thiệu MT: có thể để các tranh minh họa trong suốt
thời gian của giờ học.
2.2.2-Phương pháp luyện tập
Đối với môn MT, luyện tập chiếm hầu hết thời gian học, nhất là
TH Học sinh làm bài tập ở lớp và ở nhà. Khi làm bài HS nhớ lại những
gì đã nghe, đã thấy và suy nghĩ làm theo ý mình. Qua bài tập, nhận thức
của HS được bộc lộ rõ ràng nhất: về đường nét, hình vẽ, đậm nhạt, màu

sắc, bố cục cái được, chưa được, đẹp xấu hiện diện rất cụ thể ở bài vẽ
HS. Nhiệm vụ của GV và HS trong lúc này như thế
Nhiệm vụ của giáo viên
a) Với bài tập ở lớp
- Đối với cả lớp:
GV theo dõi, quán xuyến chung, điều chỉnh, bổ sung những gì
mà đa số HS chưa rõ hoặc còn lúng túng.
- Đối với cá nhân:
Theo dõi giúp HS kém, động viên khích lệ HS khá, cụ thể là:
+ Chỉ ra ở mẫu (vẽ theo mẫu) và đối chiếu với những thiếu sót ở
bài vẽ để HS quan sát, nhận xét và tự sửa chữa.
+ Nhắc lại hoặc gợi ý để HS nhớ lại những gì đã học, tìm ra
thiếu sót ở bài vẽ để HS tự điều chỉnh cho phù hợp với tương quan
chung trong từng trường hợp cụ thể (vẽ trang trí, vẽ tranh đề tài).
+ Gợi ý cách sửa, cách điều chỉnh cho HS, GV không làm thay
nhưng với HS kém thì gợi ý cụ thể rõ ràng hơn.
+ Động viên, khích lệ HS khá, giỏi tạo điều kiện cho các em đó
suy nghĩ tìm tòi thêm nâng cao hiệu quả của bài vẽ.
+ Tùy theo từng bài cụ thể mà bổ sung thêm kiến thức, mở rộng
tầm hiểu biết của HS.
b) Với bài tập về nhà
Giáo viên cần giải thích để HS rõ yêu cầu và cách thức làm bài.
Bài tập gồm có các dạng sau:
- Bài vẽ thêm
- Bài làm tiếp (ở lớp, chưa hoàn thành)
- Bài vẽ lại (nếu HS có nhu cầu và bài chưa đạt yêu cầu)
- Bài tập quan sát
- Bài tập sưu tầm (tranh, ảnh)
Nhiệm vụ của học sinh
- HS tự làm bài

+ Quan sát, nhận xét và vẽ (vẽ theo mẫu)
+ Nhớ lại, suy nghĩ và tìm tòi (vẽ trang trí, vẽ tranh đề tài)
+ Tìm ra cách sửa chữa, điều chỉnh theo sự gợi ý của GV phù
hợp với khả năng của mình.
+ Hoàn thành bài vẽ
Phương pháp luyện tập là phương pháp được vận dụng thường
xuyên trong suốt quá trình dạy học MT ở TH, là phương pháp làm việc
“tay đôi” giữa GV và HS Giáo viên là người phát hiện những sai sót
hoặc chỗ dựa hợp lí và chỉ ra cách khắc phục - người chỉ huy, người tổ
chức. Học sinh là người quan sát, nhận xét, nhận ra những chỗ sai
hoặc còn thiếu và tìm ra phương án điều chỉnh theo ý mình – người
lính tác chiến.
Giáo viên và học sinh làm tốt nhiệm vụ của mình ở giai đoạn
này – giai đoạn học sinh làm bài tập, nhất định hiệu quả bài vẽ và nhận
thức của HS sẽ được nâng lên rõ rệt. Bởi dạy học MT tốt nhất là dạy và
học trên thực trạng của mỗi bài vẽ, HS phải tự làm mới tìm thấy cái
hay, cái dở, GV trực tiếp tham gia mới thấy được cần dạy những gì và
dạy thế nào. Phải chăng đây mới là thực dạy, thực học?
Trên đây là một số phương pháp đặc trưng cho dạy học MT ở
TH – các phương pháp đưa lại hiệu quả cho nhận thức thẩm mĩ và kết
quả của bài vẽ.
II. Cách so n k ho ch bài ạ ế ạ daïy

×