Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

ĐÁNH GIÁ BỘ SINH PHẨM PLATELIA TM DENGUE NS1 AG ELISA potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.12 KB, 14 trang )

ĐÁNH GIÁ BỘ SINH PHẨM PLATELIA
TM
DENGUE NS1 AG ELISA


TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Sốt Dengue/sốt xuất huyết Dengue/hội chứng sốc Dengue là một bệnh
truyền nhiễm cấp tính lan truyền qua muỗi do một trong bốn týp huyết thanh của virút
dengue gây ra và trở nên một bệnh virút lan truyền qua côn trùng tiết túc hút máu
quan trọng nhất ở vùng nhiệt đới. Trong chương trình mục tiêu quốc gia phòng chống
sốt xuất huyết ở Việt Nam, các trường hợp dengue xác định bởi các xét nghiệm virút
học (bao gồm phân lập virút, RT-PCR) và/hoặc xét nghiệm huyết thanh học (MAC-
ELISA) từ mẫu máu cấp. Tuy nhiên, chiến lược này không hoàn toàn hữu ích để triển
khai phòng chống dịch.
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá bộ sinh phẩm Platelia
TM
Dengue NS1 Ag ELISA
trong chẩn đoán bệnh sốt dengue/sốt xuất huyết dengue.
Phương pháp nghiên cứu: Trong một nghiên cứu so sánh sử dụng bộ sinh phẩm
Platelia Dengue NS1 Ag ELISA để phát hiện kháng nguyên dengue NS1 trong mẫu
máu cấp, 98 huyết thanh cấp thu thập trong 3 ngày đầu sau khởi sốt từ bệnh nhân
dengue được xét nghiệm. Bộ sinh phẩm Platelia Dengue NS1 Ag ELISA cũng được
đánh giá trên 122 mẫu huyết thanh cấp từ bệnh nhân nghi nhiễm dengue.
Kết quả nghiên cứu: Căn cứ vào xét nghiệm phân lập virút như tiêu chuẩn vàng,
chúng tôi tìm thấy độ nhạy toàn bộ là 91,8% (với RT-PCR), 88,8% (với Platelia
Dengue NS1 Ag ELISA) và 11,2% (với MAC-ELISA). Trong 82 bệnh nhân dengue
xác định bằng phân lập virút và/hoặc kháng thể IgM, tổng độ nhạy là 60% (với
Platelia Dengue NS1 Ag ELISA) so với 48,8% (với phân lập virút), 47,6% (với RT-
PCR) và 46,3% (với MAC-ELISA). Trong 40 bệnh nhân nghi mắc dengue nhưng
không xác định được bằng phân lập virút hoặc kháng thể IgM, bộ sinh Platelia
Dengue NS1 Ag ELISA có thể phát hiện thêm 20% trường hợp so với 27,5% bằng


RT-PCR từ mẫu huyết thanh cấp.
Kết luận: Vì thế, sử dụng cả hai bộ sinh phẩm Dengue NS1 Ag ELISA và MAC-
ELISA đồng thời sẽ gia tăng sự phát hiện bệnh dengue đặc biệt từ huyết thanh đơn
cấp tính của bệnh nhân nghi mắc dengue trong vùng có mức độ tái nhiễm dengue cao
hơn như Việt Nam. Các xét nghiệm này sẽ giúp mở rộng khả năng xác định trường
hợp mắc dengue ở bệnh viện (để chẩn đoán) cũng như ở thực địa (để đáp ứng dịch
sớm).
ABSTRACT
EVALUATION OF THE PLATELIA
TM
DENGUE NS1 AG ELISA KIT IN
EARLY DIAGNOSIS OF DENGUE FEVER/DENGUE HEMORRHAGIC
FEVER
Vu Thi Que Huong, Ha Van Phuc, Huynh Thi Kim Loan, Cao Minh Thang,
Hoang Thi Nhu Dao,
Doan Thi Minh Tam, Tran Thi Ngoc Ha
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 - Supplement of No 1 - 2009: 262 - 267
Background: Dengue fever/Dengue haemorrhagic fever/Dengue shock syndrome is
an acute viral disease transmitted by mosquitoes and caused by one of four serotypes
of dengue virus and become the most important arthropod-borne human viral disease
in tropical regions. In Vietnamese national program for dengue control, dengue cases
are confirmed by virological tests (including viral isolation, RT-PCR) and/or
serological tests (MAC-ELISA) from acute samples. However, this strategy has not
been fully useful to implement the outbreak intervention
Objectives: To evaluate the Platelia
TM
Dengue NS1 Ag ELISA kit in early diagnosis
of Dengue fever/Dengue hemorrhagic fever.
Method: In a comparative study using Platelia Dengue NS1 Ag ELISA for detecting
the dengue NS1 antigen in acute samples, 98 acute sera collected during first three

days after the onset of fever from dengue patients were tested. The Platelia Dengue
NS1 Ag ELISA was also evaluated in 122 acute serum samples from dengue
suspected patients.
Results: Using virus isolation test as the gold standard, we have found an overall
sensitivity of 91.8% by RT-PCR, 88.8% by Platelia Dengue NS1 Ag ELISA and
11.2% by MAC-ELISA. Of 82 dengue patients confirmed by virus isolation and/or
IgM antibody, the overall sensitivity of 60.0% by Platelia Dengue NS1 Ag ELISA
compared to 48.8% by virus isolation, 47.6% by RT-PCR and 46.3% by MAC-
ELISA. Of 40 dengue suspected patients which were neither confirmed by virus
isolation or IgM antibody, Platelia Dengue NS1 Ag ELISA could detect 20% more
cases compared to 27.5% by RT-PCR from acute serum samples.
Conclusion: Therefore, using both Dengue NS1 Ag ELISA and MAC-ELISA
together would increase detection of dengue especially from dengue suspected
patients’ acute single sera in areas with higher levels of secondary infections as
Vietnam. These assays will help to extend the dengue case confirmation in hospitals
(for diagnosis) as well as in the field (for early outbreak response).
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sốt Dengue/sốt xuất huyết Dengue/hội chứng sốc Dengue (SD/SXHD/HCSD) là một
bệnh nhiễm virút cấp tính lây truyền qua muỗi Aedes, do một trong bốn týp huyết
thanh của virút dengue (dengue-1, -2, -3 và -4) và trở nên bệnh nhiễm virút ở người
lan truyền qua côn trùng tiết túc hút máu quan trọng nhất ở những nước nhiệt đới và
cận nhiệt đới. Ở Việt Nam, từ khi bệnh nhiễm dengue đầu tiên xảy ra năm 1958, hiện
trở thành một căn nguyên quan trọng gây tỷ lệ mắt và chết trung bình hàng năm là
75.693 ca mắc và 173 ca tử vong do 4 týp huyết thanh virút dengue đồng lưu hành
gây ra
(Error! Reference source not found.)
. Năm 1987, 1991 và 1998, các vụ dịch lớn xảy ra, vì
thế chương trình mục tiêu quốc gia phòng chống sốt xuất huyết dengue được thành
lập năm 1999.
Hiện nay, các xét nghiệm chẩn đoán sử dụng trong giám sát quốc gia là phân lập virút

và/hoặc RT-PCR đối với huyết thanh cấp thu thập từ ngày sốt thứ 1 đến thứ 4, thực
hiện ở các phòng thí nghiệm khu vực và MAC-ELISA đối với huyết thanh bệnh nhân
thu thập sau ngày sốt thứ 5 được tiến hành ở các bệnh viện và Trung tâm Y tế dự
phòng tỉnh. Tuy nhiên, các xét nghiệm xác định bệnh dengue này không hoàn toàn
hữu ích cho việc phòng chống dịch vì nhiều hạn chế của chúng
(Error! Reference source not
found.,Error! Reference source not found.)
.
Gần đây, một bộ sinh phẩm phát hiện kháng nguyên virút mới dựa trên thử nghiệm
miễn dịch enzym tập trung trên glycoprotein không cấu trúc (NS1) của các flavivirút
được triển khai và mang lại cơ hội mới cho chẩn đoán sớm bệnh nhiễm dengue.
Trong nghiên cứu này, bộ sinh phẩm dengue NS1 Ag ELISA được đánh giá trong
phát hiện sớm bệnh nhiễm dengue từ bệnh nhân đến khám tại một bệnh viện huyện
của quốc gia.
Mục tiêu nghiên cứu
- Xác định độ nhạy, độ đặc hiệu của bộ bộ sinh phẩm dengue NS1 Ag ELISA.
- Đánh giá khả năng chẩn đoán sớm của bộ sinh phẩm dengue NS1 Ag ELISA.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Mẫu lâm sàng
Các mẫu huyết thanh giai đoạn cấp (thu thập trong 3 ngày đầu sau khi khởi sốt) từ
bệnh nhân nghi mắc dengue thu thập như một phần của giám sát virút học trong
chương trình mục tiêu quốc gia phòng chống sốt xuất huyết, lưu trữ ở phòng thí
nghiệm Arbovirút của viện Pasteur Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam, được sử
dụng cho nghiên cứu này.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Trong nghiên cứu so sánh, 98 huyết thanh giai đoạn cấp của bệnh nhân dengue xác
định bằng phân lập virút được xét nghiệm với dengue RT-PCR, dengue MAC-ELISA
tại chỗ và bộ sinh phẩm Platelia


Dengue NS1 Ag ELISA.
Trong nghiên cứu giám sát bệnh dengue, 122 huyết thanh giai đoạn cấp của bệnh
nhân nghi mắc dengue dựa trên các biểu hiện lâm sàng được xét nghiệm phân lập
virút, dengue RT-PCR, dengue MAC-ELISA tại chỗ và bộ sinh phẩm Platelia

Dengue
NS1 Ag ELISA.
Phương pháp xét nghiệm
Phân lập virút và định danh. Đối với phân lập virút, máu không pha loãng (0,05 ml
mỗi ống) được cấy vào hai ống tế bào C6/36 (Aedes albopictus) và ủ ở 28°C trong 7 –
14 ngày. Nuôi tế bào nhiễm được gặt và xét nghiệm tìm kháng nguyên virút dengue
bằng xét nghiệm với kháng thể huỳnh quang trực tiếp và gián tiếp với IgG kháng
flavivirút gắn fluorescein isothiocyanate, và các kháng thể đơn dòng đặc hiệu týp
huyết thanh virút dengue 1 Hawaii 15F3-1-15 và D2-1F1-3; dengue 2 NGC 3H5-1-
21; dengue 3 H87 5D4-11-24, và dengue 4 H241 1H10-6-7, do Trung tâm kiểm soát
bệnh tật (CDC), Colorado, Hoa Kỳ cung cấp
(4)
.
Dengue RT-PCR tại chỗ (Reverse Transcriptase – Polymerase Chain Reaction). RNA
được chiết xuất từ 140 µl mẫu huyết thanh và ly trích trong 60 µl bằng bộ sinh phẩm
QIAgen viral RNA mini kit (Qiagen) theo bản chỉ dẫn của nhà sản xuất, và bảo quản
ở -70
0
C. Phản ứng RT-PCR bán tổ hai bước được thực hiện như mô tả của Lanciotti
và cs.
Error! Reference source not found.
. 5 µl sản phẩm phản ứng được khảo sát trên thạch
agarose 1,5% sau khi nhuộm ethidium bromide.
Dengue MAC-ELISA tại chỗ (IgM-capture enzyme-linked immunoassay) (cải tiến từ

thường quy của CDC)
Error! Reference source not found.
. Các giếng của phiến nhựa vi chuẩn độ
đáy phẳng Immulon II được gắn 100 µl/giếng IgG dê kháng IgM người (chuỗi µ) pha
loãng trong dung dịch đệm carbonate (pH 9,6) và để khô hoặc ủ qua đêm ở 4
0
C hoặc
1 giờ ở 37
0
C. Sau đó, rửa và phủ với 300 µl PBS, 5% sữa không béo, 0,5 % Tween
20 trong 1 giờ ở 37°C, và rửa 3 lầm với dung dịch rửa (PBS chứa 0,05% Tween 20).
Huyết thanh xét nghiệm pha loãng 1:100 trong dung dịch pha loãng (PBS chứa 1%
sữa không béo) được cho vào hai giếng và ủ 1 giờ ở 37°C. Sau khi rửa 3 lần, kháng
nguyên phối hợp 4 týp huyết thanh virút dengue pha loãng được cho vào và ủ 2 giờ ở
37°C hoặc qua đêm ở 4°C và sau đó rửa 3 lần nữa. Cộng hợp kháng thể kháng
flavivirút (Mab-6B6C) gắn horseradish peroxydase pha loãng trong dung dịch đệm
muối phốt-phát chứa 1% sữa không béo được cho vào và các phiến nhựa được ủ
trong 1 giờ ở 37°C, và rửa 7 lần nữa. Sau đó, TMB/H
2
O
2
(cơ chất
tetramethylbenzidine) được cho vào, và sau khi ủ đúng 10 phút ở nhiệt độ phòng
trong tối, phản ứng được ngừng với 50 µl/giếng 1N H
2
SO
4
. Phiến nhựa được đọc ở
bước song kép 450/620 nm. Những mẫu huyết thanh với độ hấp phụ ≥ trung bình 4
chứng âm × 2,3 được xem là dương tính.

Xét nghiệm Platelia Dengue NS1 Ag (từ Phòng thí nghiệm Bio-Rad). Đây là một xét
nghiệm miễn dịch enzym vi chuẩn độ kiểu kẹp chả một bước để phát hiện kháng
nguyên virút dengue trong huyết thanh hoặc huyết tương người. Xét nghiệm sử dụng
kháng thể đơn dòng chuột để thu bắt và phát hiện. Các xét nghiệm được thực hiện
trên mẫu của bệnh nhân và chứng theo khuyến cáo của nhà sản xuất. Tóm lại, 50 µl
huyết thanh mẫu hoặc chứng được ủ trực tiếp và đồng thời với 50 µl dung dịch pha
loãng và 100 µl cộng hợp pha loãng trong 90 phút ở 37
0
C trong các giếng của phiến
nhựa vi chuẩn độ đã gắn kháng thể đơn dòng kháng NS1. Phiến nhựa được rửa, và
các phức hợp miễn dịch được phát hiện bằng phản ứng hiện màu. Sau 30 phút ủ ở
nhiệt độ phòng, phản ứng enzym được ngừng bằng dung dịch a-xít sulfuric. Mật độ
quang (OD) được xác định ở bước sóng kép 450/620 nm và tương ứng với lượng
kháng nguyên NS1 hiện diện hoặc vắng mặt trong một mẫu riêng biệt căn cứ trên sự
so sánh OD của huyết thanh mẫu với huyết thanh chứng ngưỡng.
Giá trị ngưỡng (CO) tương ứng với giá trị OD trung bình của hai chứng ngưỡng
cung cấp trong bộ sinh phẩm. Kết quả mẫu được biểu hiện như một tỷ lệ, theo
công thức sau: tỷ lệ mẫu = S/CO, trong đó S là OD mẫu. Tất cả huyết thanh được
xét nghiệm trong hai giếng. Theo khuyến cáo của nhà sản xuất, mẫu được xem là
(i) không phản ứng với kháng nguyên NS1 virút dengue nếu tỷ lệ này nhỏ hơn 0,5,
(ii) nghi ngờ với kháng nguyên NS1 virút dengue nếu tỷ lệ này từ 0,5 đến 1,0, và
(iii) phản ứng với kháng nguyên NS1 virút dengue nếu tỷ lệ này từ 1,0 trở lên.
Phân tích dữ liệu
Tất cả dữ liệu được biểu diễn như tần suất và tỷ lệ. Sự khác biệt trong dữ liệu phòng
xét nghiệm giữa các xét nghiệm khác nhau căn cứ vào thử nghiệm chi bình phương.
Giá trị p nhỏ hơn 0,05 được coi là có ý nghĩa.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong khuôn khổ chương trình mục tiêu quốc gia phòng chống sốt xuất huyết ở Việt
Nam, giám sát virút học bệnh dengue được thực hiện thường xuyên trên các bệnh
phẩm thu thập từ bệnh nhân trẻ em và người lớn nhập bệnh viện tỉnh và huyện trong

vòng 4 ngày sau khi khởi sốt. Tất cả mẫu từ khu vực phía Nam Việt Nam được gởi
trực tiếp về Phòng thí nghiệm Arbovirút của viện Pasteur Thành phố Hồ Chí Minh để
phân lập virút và bảo quản ở -70
0
C.
Căn cứ vào phương pháp phân lập virút như một chuẩn vàng, độ nhạy của ba xét
nghiệm chẩn đoán dengue khác thực hiện trên 98 mẫu huyết thanh cấp tính đã xác
định bằng các chủng virút dengue phân lập được trình bày trong hình 1.
Hình 1. Tỷ lệ phát hiện toàn bộ của bộ sinh phẩm Platelia
TM
dengue NS1 Ag ELISA
trong huyết thanh cấp của bệnh nhân dengue so với các phương pháp chẩn đoán
khác.
(Abbr. Pos = positive = dương tính; RT-PCR = Reverse Transcriptase-Polymerase
Chain Reaction = Phản ứng chuỗi gien-sao chép ngược; NS1 = non-structural protein
1= protein không cấu trúc 1; Ag = Antigen = kháng nguyên; IgM = immunoglobulin
M = globulin miễn dịch M; Virus isolation = phân lập virút).
Căn cứ vào những ca dengue xác định bằng các xét nghiệm virút và huyết thanh học,
độ nhạy cảm của ba xét nghiệm chẩn đoán virút học trên mẫu huyết thanh người giai
đoạn cấp tính được trình bày trong hình 2.

(Ghi chú: Day 1 = Ngày 1 = ngày theo dõi sau khi khởi sốt)
Hình 2. Tỷ lệ phát hiện toàn bộ của ba xét nghiệm virút học theo ngày sốt.
Bảng 1. Kết quả so sánh các xét nghiệm thực hiện trên huyết thanh đơn cấp tính
của bệnh nhân nghi mắc dengue.
T
ổng HT
đơn c
ấp
tính XN

Dengue RT-
PCR dương
(%)
Dengue NS1-
Ag ELISA
dương (%)
Phân l
ập
virút
dương (%)

Dengue
MAC-ELISA
dương (%)
PLVR dương
và/ho
ặc dengue
MAC-ELISA dương

82 39 (47,6) 49 (60,0) 40 (48,8) 38 (46,3)
PLVR âm và dengue
MAC-ELISA âm
40 11 (27,5) 8 (20,0) 0 0
Tổng cộng 122 50 (41,0) 57 (46,7) 40 (32,8) 38 (31,1)
Để cải thiện hệ thống giám sát bệnh dengue và giúp hệ thống giám sát này hữu ích
hơn cho đáp ứng dịch ở nước chúng tôi, những mẫu huyết thanh cấp thu thập trong
3 ngày sốt đầu tiên từ bệnh nhân nghi mắc dengue nhập viện ở một bệnh viện
huyện xa thành phố năm 2005 được gửi trực tiếp đến Phòng thí nghiệm Arbovirút
của viện Pasteur Thành phố Hồ Chí Minh và bảo quản ở -70
0

C cho đến khi xét
nghiệm.
Kết quả xác định ca dengue trên huyết thanh đơn giai đoạn cấp của bệnh nhân sốt
được tóm tắt trong bảng 1.
BÀN LUẬN
Nghiên cứu này xác định sức mạnh của xét nghiệm Platelia Dengue NS1 Ag trong
chẩn đoán sớm bệnh nhiễm dengue tập trung trên mẫu thu thập trong ba ngày sốt đầu
tiên. Glycoprotein không cấu trúc NS1 của flavivirút là thiết yếu cho khả năng sống
của virút. Việc phát hiện kháng nguyên NS1 bằng ELISA đã được chứng minh trong
huyết thanh bệnh nhân nhiễm virút dengue trong giai đoạn lâm sàng sớm của
bệnh
(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.)
.
Dussart và cs. đã đánh giá độ nhạy của xét nghiệm Platelia NS1 Ag là 88,7% trên
huyết thanh xét nghiệm dương tính bằng RT-PCR và/hoặc phân lập virút ở Guyana
Pháp
Error! Reference source not found.
. Kết quả chúng tôi cho thấy độ nhạy toàn bộ tương tự
với xét nghiệm thực hiện trên huyết thanh dương tính với phân lập virút như xét
nghiệm chuẩn vàng đối với bệnh nhiễm dengue.
Việc kết hợp Dengue NS1 Ag ELISA trên huyết thanh giai đoạn cấp và MAC-
ELISA trên huyết thanh giai đoạn hồi phục sớm giúp gia tăng độ nhạy từ 88,7 đến
91,9%
Error! Reference source not found.
. Kết quả chúng tôi cho thấy việc kết hợp hai xét
nghiệm nói trên đối với huyết thanh giai đoạn cấp, đặc biệt thu thập trong 3 ngày
sốt đầu tiên, có thể bao phủ toàn bộ các trường hợp nhiễm dengue nhập viện
(100%).
Để cải thiện giám sát dengue, nghiên cứu của chúng tôi chỉ tập trung trên huyết thanh
thu thập từ bệnh nhân nội trú hoặc ngoại trú của một bệnh viện huyện trong ba ngày

sốt đầu tiên. Giai đoạn này đã gây nhiều khó khăn cho nhà lâm sàng trong chẩn đoán
bệnh dengue ở bệnh viện huyện là nơi có cơ hội tiếp nhận bệnh nhân mắc dengue rất
sớm trong khi bệnh nhân thường nhập viện quá trễ ở bệnh viện trung tâm. Xét nghiệm
Platelia Dengue NS1 Ag đã chứng minh rất hữu ích không chỉ đối với phòng thí
nghiệm bệnh viện để chẩn đoán và điều trị bệnh nhân sớm mà còn đối với hệ thống
giám sát bệnh dengue để phát hiện sớm những trường hợp mắc dengue ở thực địa và
tiến hành phòng chống dịch đúng thời điểm.
Hơn nữa, điểm yếu và khó khăn của giám sát dengue trong Chương trình mục tiêu
quốc gia phòng chống sốt xuất huyết là chỉ thu thập dữ liệu lâm sàng từ những trường
hợp nghi mắc dengue. Vì thế, những trường hợp sốt được chẩn đoán là sốt không rõ
nguyên nhân hoặc nhiễm siêu vi sẽ không được báo cáo cho hệ thống giám sát ca
dengue. Kết quả chúng tôi cho thấy rằng có thấp hơn ít nhất 30% ca dengue có triệu
chứng, không kể trường hợp không triệu chứng ở thực địa. Vấn đề này sẽ giải thích
cho chúng ta tại sao nhiều hoạt động phòng chống véc-tơ không hiệu quả đối với đáp
ứng dịch dengue ở nước chúng tôi.
Nhược điểm của xét nghiệm này là không thể xác định týp huyết thanh virút dengue
cho đến nay. Như vậy, phòng thí nghiệm tham khảo nên duy trì phân lập virút và
dengue RT-PCR để giám sát sự lan truyền týp huyết thanh virút dengue trong nước và
xác định những trường hợp nhiễm dengue mà không có Dengue NS1 Ag ELISA âm
tính.
KẾT LUẬN
Platelia
TM
dengue NS1 Ag ELISA và Dengue RT-PCR hữu ích trong chẩn đoán
sớm bệnh nhiễm dengue. Độ nhạy toàn bộ cao của các xét nghiệm trên (trên 89%) khi
xét nghiệm huyết thanh cấp tính của bệnh nhân dengue thu thập trong 3 ngày sốt đầu
tiên so với hai xét nghiệm sử dụng thường xuyên trong chương trình mục tiêu quốc
gia phòng chống sốt xuất ở Việt Nam (chẳng hạn phân lập virút & Dengue MAC-
ELISA).
Hơn nữa, sử dụng cả hai xét nghiệm ELISA-kháng nguyên NS1 & IgM Dengue

đồng thời sẽ gia tăng sự phát hiện bệnh nhiễm dengue đặc biệt từ huyết thanh đơn
cấp tính của bệnh nhân nghi mắc dengue ở những vùng có mức độ tái nhiễm cao
như Việt Nam. Những xét nghiệm này sẽ giúp mở rộng việc xác định trường hợp
nhiễm dengue ở bệnh viện (về chẩn đoán) cũng như ở thực địa (về đáp ứng dịch
sớm).

×