Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Tiểu luận: Vai trò của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở nước ta pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.5 KB, 30 trang )

Bài tiếu luận Nhóm 5 – Địa sử 14
Tiểu luận
Vai trò của kinh tế nhà
nước trong nền kinh tế
thị trường ở nước ta
1
Bài tiếu luận Nhóm 5 – Địa sử 14
Mục Lục
2
Bài tiếu luận Nhóm 5 – Địa sử 14
A. LỜI MỞ ĐẦU
Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh trình độ phát triển
cao của văn minh nhân loại. Từ trước đến nay nó tồn tại và phát triển chủ yếu ở các
nước chủ nghĩa tư bản, là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa
tư bản. Chủ nghĩa tư bản đã biết lợi dụng tối đa ưu thế của kinh tế thị trường để
phục vụ cho mục tiêu phát triển tiềm năng kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận, và một
cách khách quan nó thúc đẩy lực lượng sản xuất của xã hội phát triển mạnh mẽ.
Ngày nay, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã đạt tới giai đoạn phát triển khá
cao và phồn thịnh trong các nước tư bản phát triển. Vì thế kinh tế thị trường trong
giai đoạn hiện nay đã được các nước trên thế giới áp dụng một cách có hiệu quả
theo định hướng của mình, trong đó có Việt Nam.
Nước ta bắt đầu đổi mới nền kinh tế từ năm 1986, với đường lối chuyển
sang kinh tế thị trườngcó sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đại hội VI của Đảng đã đặt viên gạch đầu tiên cho sự phát triển. Trong đó
vai trò chủ đạo, dẫn dắt, điều tiết nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của kinh tế
Nhà nước luôn được Đảng quan tâm, coi trọng và đã đạt được những thành tựu
bước đầu rất khả quan cả trong lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, cả đường lối đối
nội và đối ngoại của đất nước.Để phát triển nền kinh tế theo định hướng XHCN
trong Nghị quyết Đại hội Đảng IX đã khẳng định chủ trương nhất phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần, các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật, cùng
phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh lành mạnh trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai


trò chủ đạo, kinh tế Nhà nước cùng kinh tế tập thể trở thành cơ sở vững chắc của
nền kinh tế quốc dân và một lần nữa nhấn mạnh nhiệm kinh tế Nhà nước để thực
hiện tốt vai trò chủ đạo nền kinh tế. Có như thế mới phát huy được đặc điểm của
kinh tế thị trường XHCN ở Việt Nam
Nhằm thể hiện rõ vai trò của thành phần kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi kinh tế Nhà nước phải đổi mới để
giữ vững vai trò chủ đạo, thúc đẩy các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Vì
vậy việc nghiên cứu những đặc trưng, nhiệm vụ, giải pháp để phát huy vai trò chủ
đạo của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam hiện nay là hết sức quan trọng. Để tìm hiểu đặc điểm cũng như vai trò
của kinh tế Nhà nước như thế nào, nhóm em đã chọn tiểu luận: “ Vai trò của kinh tế
Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở nước ta”.
3
Bài tiếu luận Nhóm 5 – Địa sử 14
B. NỘI DUNG
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG THEO ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.
1. Các khái niệm:
1.1 Khái niệm kinh tế:
Kinh tế là tổng hòa các mối quan hệ tương tác lẫn nhau của con người và xã
hội liên quan trực tiếp đến việc sản xuất, trao đổi, phân phối, tiêu dùng các loại sản
phẩm hàng hóa và dịch vụ, nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người
trong một xã hội với một nguồn lực có giới hạn.
Kinh tế là tổng thể các yếu tố sản xuất, các điều kiện sống của con người,
các mỗi quan hệ trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội
Nghĩa hẹp: kinh tế nghĩa là các hoạt động sản xuất và làm ăn của cá nhân
hay hộ gia đình.
Nghĩa rộng là nhằm chỉ "toàn bộ các hoạt động sản xuất, trao đổi, phân
phối, lưu thông" của cả một cộng đồng dân cư, một quốc gia trong một khoảng thời
gian.

1.2 Khái niệm kinh tế thị trường:
Kinh tế thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế phát triển cao của kinh tế
hàng hoá trong đó quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng đều được
thực hiện thông qua thị trường. Trong đó quan hệ hàng hóa-tiền tệ trở thành phổ
biến và bao quát hấu hết các lĩnh vực hoạt động kinh tế.
1.3 Khái niệm kinh tế thị trường định hướng XHCN:
Kinh tế thị trường định hướng XHCN là một hình thức tổ chức kinh tế vừa
dựa trên các quy luật của thị trường vừa dựa trên các nguyên tắc và bản chất của
CNXH, hai nhân tố đan xen tác động lẫn nhau, tồn tại trong nhau.
2. Thực trạng nền kinh tế nước ta trước đổi mới:
Có thể khái quát kinh tế nước ta trước đổi mới bằng công thức: công hữu, kế
hoạch hóa, phi thị trường, hay còn gọi đó là thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung
bao cấp của nền kinh tế.
- Các tư liệu sản xuất chủ yếu được công hữu hóa, với sự xác lập hai hình thức
sở hữu là toàn dân và tập thể, tương ứng với chúng là hai thành phần kinh tế quốc
doanh và tập thể.
4
Bài tiếu luận Nhóm 5 – Địa sử 14
- Kế hoạch hóa tập trung toàn bộ nền kinh tế quốc dân, Nhà nước trực tiếp điều
hành nền kinh tế thông qua các chỉ tiêu pháp lệnh theo hiện vật được áp đặt từ trên
xuống các đơn vị kinh tế cơ sở, hạch toán kinh tế chỉ là hình thức.
- Không thừa nhận quan hệ thị trường, quan hệ hàng hóa-tiền tệ chỉ tồn tại về
mặt danh nghĩa, mà thực chất đó là nền kinh tế hiện vật có trao đổi thông qua các
hợp đồng kinh tế giữa Nhà nước với các đơn vị sản xuất dưới hình thức cấp phát-
giao nộp.
Với nền kinh tế đó, Nhà nước nắm trực tiếp mọi khâu từ sản xuất, lưu thông đến
phân phối, mà bao cấp là một đặc trưng nổi bật:
+ Bao cấp giá với các yếu tố đầu vào sản xuất. Nhà nước quyết định giá trị tài
sản, thiết bị, vật tư, hàng hóa thấp hơn giá trị thực của chúng nhiều lần so với thị
trường. Điều này đã biến hạch toán kinh doanh trở thành hình thức. Các doanh

nghiệp hoạt động trên cơ sở quyết định hành chính của các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Sản phẩm làm ra phải nộp cho nhà nước, Nhà nước chịu trách nhiệm
lưu thông, phân phối. Lãi Nhà nước hưởng, lỗ Nhà nước chịu.
+ Bao cấp giá với hàng hóa tiêu dùng bằng quy định phân phối vật phẩm tiêu
dùng cho cán bộ, công nhân, viên chức theo định mức qua hình thức tem phiếu/sổ
gạo đói với 6 mặt hàng thiết yếu: gạo, thịt lợn, nước mắm, đường, chất đốt (củi
hoặc than, cám hoặc dầu hỏa), xà phòng giặt, có thời kì còn bổ sung thêm mì
chính
+ Bao cấp vốn đối với các đơn vị kinh tế cơ sở nhưng không có chế tài ràng
buộc trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị được cấp vốn.
Vì vậy gọi đó là cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp. Để đảm bảo sự vận hành
của chế độ kinh tế hiện vật và bao cấp qua giá, trong bộ máy nhà nước đã hình
thành một hệ thống cơ quan chuyên trách quản lí vật tư, giá cả và cả guồng máy cơ
quan hành chính nhà nước rất bận rộn với việc đánh giá, nhất là trước sức ép khi
giá thị trường tự do tăng lên nhanh chống.
Thể chế kinh tế nêu trên hình thành ở nước ta có cả nguyên nhân bên trong
và bên ngoài. Nguyên nhân bên trong: Miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền
kinh tế hiện vật, tự cung tự cấp còn phổ biến, kinh tế hàng hóa phát triển còn sơ
khai, lại trải qua 9 năm kháng chiến chống Pháp đã hình thành một hệ thống phân
phối bằng hiện vật cho cán bộ. Nguyên nhân bên ngoài: đó là sự nhu nhập cơ chế
kế hoạch hóa tập trung bao cấp vốn được hình thành ở Liên Xô trước đây, rồi sau
đó được hệ thống trong toàn bộ xã hội chủ nghĩa. Nguyên nhân bên trong và bên
ngoài nêu trên đã tác động lẫn nhau, lại gặp bối cảnh đất nước có chiến tranh,
không ít mặt của cơ chế đó phù hợp với yêu cầu chỉ đạo kinh tế thời chiến, từ sản
xuất lưu thông đến phân phối. Sau ngày miền Nam được giải phóng, đất nước
thống nhất, việc duy trì quá lâu mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp đã
dẫn đến nhiều hệ lụy:
5
Bài tiếu luận Nhóm 5 – Địa sử 14
- Chế độ công hữu được thiết lập một cách nóng vội không những không tạo

được động lực, mà còn kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Sở hữu tư nhân
không được thừa nhận đã làm cho các mặt tích cực của các thành phần kinh tế gắn
với sở hữu tư nhân không được phát huy trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Cơ chế kế hoạch tập trung hóa bao cấp duy trì quá lâu đã tạo ra nhiều lực cản
đối với việc thực hiện cac mục tiêu kinh tế-xã hôi. Các cơ quan quản lí hành chính
nhà nước can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị sản xuất
nhưng lại không chịu trách nhiệm trước các quyết định của mình, vừa gây ra tình
trạng thiếu trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, vưa đẩy các đơn vị kinh tế cơ sở
vào tình trạng thụ động, mất quyền tự chủ đối với hoạt động sản xuất-kinh doanh.
Cơ chế đó không ràng buộc trách nhiêm của doanh nghiệp đối với hiệu quả sử dụng
vốn, tà sản, vật tư lao động, tách rời việc trả công với năng suất lao động và chất
lượn sản phẩm. Điều đó gây nên tình trạng lãng phí, thất thoát tài sản của nhà nước:
tạo tư tưởng ỷ lại, dựa dẫm, lười biếng của các đơn vị kinh tế cơ sở, triệt tiêu động
lực sáng tạo của người lao động.
- Không chú ý đầy đủ quan hệ hàng hóa - tiền tệ, vô hình chung đẩy đất nước
vào nền kinh tế hiện vật (có trao đổi không khai thác vai trò, sức mạnh của quan hệ
hàng hóa - tiền tệ để phát triển đất nước).
- Chế độ bình quân và bao cấp đã không gắn được kết quả sản xuất với năng
suất và hiệu quả lao động, triệt tiêu động lực của lao động. Chủ đích đặt ra của
phân phối bình quân qua bao cấp là nhằm đảm bảo công bằng trong khâu phân phối
kết quả sản xuất, nhưng việc tạo nên một hệ thống thương nghiệp nhà nước độc
quyền mua và bán, vô hình chung đã tạo nên những đặc quyền đặc lợi gắn liền với
những người nắm giữ hệ thống “thị trường có tổ chức”, gây bất bình đẳng trong
khâu phân phối. Phân phối hiện vật và bao cấp cũng tạo nên những nghịch lí trong
xã hội: người có nhu cầu chưa hẳn được phân phối, còn người được phân phối chưa
hẳn đã có nhu cầu, tự nhiên thúc đẩy hình thành “thị trường tự do” để cân đối lại
quan hệ cung cầu.
Khủng hoảng kinh tế - xã hội vào cuối thập niên 70, đặc biệt đầu thập niên
80 của thế hệ trước là hệ lụy của việc duy trì quá lâu mô hình kinh tế nêu trên. Do
đó, đổi mới kinh tế trở thành mệnh lệnh của cuộc sống, xuất phát từ cả nhu cầu

hoàn thiện mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa lẫn đòi hỏi thúc bách của quần chúng
3. Nhu cầu đổi mới cơ chế quản lí kinh tế của Đảng.
- Nhằm thoát khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội, chúng ta đã có những bước cải
tiến nền kinh tế theo định hướng thị trường. Ví dụ: Khoán sản phẩm trong nông
nghiệp theo chỉ thị số 100-CT/TW của Ban Bí thư TW khóa IV; bù giá và lương ở
Long An; Nghị quyết TW8 khóa 5, Nghị điịnh 25 và 26-CP là những căn cứ thực
tế đẻ Đảng đi đến quyết định thay đổi cơ chế quản lí kinh tế.
6
Bài tiếu luận Nhóm 5 – Địa sử 14
- Cơ chế quản lí tập trung quan liêu, bao cấp đã không tạo được động lực phát
triển, làm suy yếu kinh tế xã hội chủ nghĩa, gây rối loạn và đẻ ra nhiều tiêu cực
trong xã hội.
=> Do đó, việc đổi mới cơ chế quản lí kinh tế trở thành nhu cầu cấp bách.
4. Nền kinh tế nước ta sau khi tiến hành đổi mới – xây dựng nền KTTT định
hướng XHCN
Nền kinh tế nước ta sau khi đổi mới là nền kinh tế quốc dân với nhiều ngành
nghề nhiều quy mô, nhiều trình độ công nghệ với hai bộ phận chủ yếu là công
nghiệp và nông nghiệp kết hợp chặt chẽ với nhau.
Là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng XHCN nhằm phát huy sức
mạnh của các thành phần kinh tế và tạo ra sức mạnh cua nền kinh tế quốc dân nhiều
thành phần trong đó thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.

Công cuộc đổi mới đã đưa nước ta từng bước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng
kinh tế - xã hội kéo dài: Nước ta vốn đi lên từ một nền kinh tế nông nghiệp là chủ
yếu, lại chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh. Nền kinh tế mang nặng tính chất tự
cấp tự túc, công nghiệp nhỏ bé và lạc hậu, các ngành dịch vụ chưa phát triển. Chiến
tranh kéo dài làm tổn hao lớn về người và của ; nhiều cơ sở công nghiệp mới được
khôi phục và xây dựng đó bị tàn phá ; đường sá và các cơ sở hạ tầng kỹ thuật bị hư
hỏng nặng ; đời sống kinh tế - xã hội bị đảo lộn. Trước đây, đặc biệt là trong thời kì
chiến tranh, những cân đối lớn trong nền kinh tế của đất nước được đảm bảo bằng

viện trợ và vay nợ của nước ngoài. Vì thế, tuy có những năm mức tăng trưởng kinh
tế tương đối khá, nhưng tỉ lệ nhập siêu rất lớn. Từ sau khi đất nước thống nhất, các
nguồn viện trợ bị cắt giảm đột ngột, Hoa Kì lại duy trì chính sách cấm vận chống
Việt Nam trong nhiều năm. Các quan hệ kinh tế xuất nhập khẩu trước đây bị phá
vỡ. Nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng vào
cuối thập kỉ 70, nửa đầu thập kỉ 80 của thế kỷ XX. Công cuộc đổi mới được triển
khai từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đến nay đã đưa nước ta từng bước thoát
ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội. Lạm phát được đẩy lùi, tốc độ tăng
trưởng kinh tế khỏ, nền kinh tế đó bắt đầu cú tích luỹ nội bộ, tuy còn thấp. Đời
sống nhân dân được cải thiện.
Từ sau khi ti61n hành đổi mới thì nền kinh tế nước ta đã có sự chuyển dịch rõ
nét:
- Sự chuyển dịch cơ cấu theo ngành:
+ Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành thể hiện ở sự thay đổi cơ cấu tổng sản
phẩm trong nước (GDP). Tỉ trọng của nông – lâm – ngư nghiệp tăng dần đến năm
1988 rồi sau đó giảm dần. Tỉ trọng của công nghiệp giảm cho tới năm 1990 do
những xáo trộn trong quá trình sắp xếp lại cơ cấu, nay đang tăng dần, chuẩn bị cho
những bước tiến mới. Khu vực dịch vụ tăng khỏ nhanh, từ năm 1992 đó vượt qua tỉ
7
Bài tiếu luận Nhóm 5 – Địa sử 14
trọng của khu vực nông - lâm – ngư nghiệp.
+ Sự chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ các ngành kinh tế thể hiện rõ:
- Trong công nghiệp, trước đổi mới, công nghiệp nặng được chú trọng phát triển
nhưng do thiếu nguồn lực nên kém hiệu quả. Trong thời kì đầu đổi mới, các ngành
công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm được chú trọng phát triển để phục vụ
ba chương trình kinh tế lớn : lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất
khẩu. Hiện nay, trong cơ cấu ngành công nghiệp chiếm ưu thế là các ngành sử dụng
lợi thế tương đối về lao động (dệt, may, da giày, chế biến thực phẩm) và tài nguyên
(dầu khí, điện, xi măng…). Nhưng các ngành đòi hỏi hàm lượng kỹ thuật cao (kỹ
thuật điện và điện tử) sẽ được phát triển mạnh hơn trong thập kỷ tới.

- Trong nông nghiệp, nhờ giải quyết tốt hơn lương thực cho người và thức ăn cho
gia súc mà ngành chăn nuôi đã phát triển khá, đạt hiệu quả cao. Ngành thuỷ sản
được chú trọng phát triển, góp phần quan trọng vào việc cải thiện bữa ăn cho nhân
dân và tạo nguồn hàng xuất khẩu.
- Các ngành thuộc kết cấu hạ tầng được chú trọng ưu tiên đầu tư, đặc biệt là thông
qua con đường hợp tác đầu tư với nước ngoài. Ngành bưu điện, thông tin liên lạc
đó được phát triển tăng tốc, đi trước một bước so với nhiều ngành khác.
-Sự chuyển dịch cơ cấu theo lãnh thổ:
+Cơ cấu lãnh thổ nền kinh tế đang chuyển dịch tương ứng với sự chuyển dịch cơ
cấu ngành. Trong nông nghiệp đang hình thành và phát triển các vùng nông nghiệp
sản xuất hàng hoá (Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và miền núi, trung du phía Bắc
chuyên môn hoá về trồng và chế biến cây công nghiệp ; đồng bằng sông Cửu Long
và đồng bằng sông Hồng chuyên môn hoá về lương thực - thực phẩm). Trong công
nghiệp đang phát triển các khu công nghiệp tập trung, các khu chế xuất ở các tỉnh,
thành phố có lợi thế về vị trí địa lí, tài nguyên thiên nhiên, các công trình kết cấu hạ
tầng, nguồn lao động kỹ thuật. Các trung tâm công nghiệp mới đang hình thành.
+Trong cả nước đang nổi lên các vùng kinh tế phát triển năng động: Đông Nam Bộ,
đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long. Các vùng này, cũng như các
thành phố lớn trong vùng (đặc biệt là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh) có vị trí
cực kì quan trọng trong cơ cấu lãnh thổ kinh tế của đất nước.
- Hiện nay đã hình thành ba vùng kinh tế trọng điểm ở ba miền Bắc, Trung, Nam
+ Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ: Hà Nội – Hưng Yên - Hải Dương - Hải Phòng
- Quảng Ninh – Vĩnh Phúc – Hà Tây - Bắc Ninh
8
Bài tiếu luận Nhóm 5 – Địa sử 14
+ Vựng kinh tế trọng điểm miền Trung: Thừa Thiên - Huế - Đà Nẵng - Quảng Nam
- Quảng Ngãi – Bình Định
+ Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam: Thành phố Hồ Chí Minh – Bình Dương -
Đồng Nai – Bà Rịa – Vũng Tàu – Bình Phước – Tây Ninh – Long An.
II. CÁC THÀNH PHẦN CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRUỜNG Ở VIỆT NAM,

VAI TRÒ CỦA NỀN KINH TẾ NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG THEO ĐỊNH HƯỚNG XHCN
1. Các thành phần của nền kinh tế thị trường
Qua thực tiễn 20 năm đổi mới, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Đảng ta đã xác định nền kinh tế nước ta có năm thành phần đố là: Kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân ( Cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư
bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
1.1 Kinh tế Nhà nước
Kinh tế Nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu toàn dân về tư
liệu sản xuất. Kinh tế Nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, ngân hàng
nhà nước, các quỹ dữ trự quốc gia, các quỹ bảo hiểm nhà nước và các tài nguyên
quốc gia, các tài sản khác thuộc sở hữu nhà nước có thể dựa vào vòng chu chuyển
kinh tế.
Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Vai trò đó được thể hiện như sau:
- Một là, doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt ở những ngành, lĩnh
vực kinh tế và địa bàn quan trọng của đất nước, các doanh nghiệp nhà nước đi đầu
trong ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nâng cao năng suất lao động, chất
lượng hiệ quả kinh tế và chấp hành pháp luật.
- Hai là, kinh tế nhà nước là lực lượng quan trọng và công cụ để nhà nước thực
hiện chức năng điều tiết, quản lí ivx mô nền kinh tế theo định hướng xã hôi chủ
nghĩa, nó mở đường, hướng dẫn hổ trợ và lôi cuốn các thành phần kinh tế khác
cung phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Ba là, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng
vững chắc của nền kinh tế quốc dân, xã hội và chấp hành pháp luật.
1.2 Kinh tế tập thể
Kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, mà nồng cốt là hợp tác xã,
dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những người
lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc các
thành phần kinh tế, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn, phân phối theo lao

9
Bài tiếu luận Nhóm 5 – Địa sử 14
đông, vốn góp và mức độ tham gia dịch vụ, hoạt động theo nguyên tắc: hợp tác tự
nguyện, dân chủ, bình đẳng và công khai, tự chủ, tự phát triển cộng đồng.
Kinh tế tập thể lấy lợi ích kinh tế làm chính, bao gồm lợi ích của các thành viên
và lợi ích tập thể, đồng thời coi trọng lợi ích xã hội của các thành viên, góp phần
xóa đói, giảm nghèo, tiến lên làm giàu cho các thành viên, phát triển cộng đồng.
Đánh giá hiệu quả kinh tế tập thể phải trên cơ sở quan điểm toàn diện, cả kinh tế-
chính trị - xã hội, cả hiệu quả của tập thể và của các thành viên.
Phát triển kinh tế tập thể theo phương châm tích cực, vững chắc xuất phát từ
nhu cầu thực tiễn đi từ thấp lên cao, đạt hiệu quả thiết thực, và sự phát triển của sản
xuất. Nhà nước giúp đở hợp tác xã đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học công nghệ,
mở rộng thị trường xây dựng quỹ hỗ trở hợp tác, chịu trác nhiêm và cùng có lợi.
1.3 Kinh tế tư nhân
Kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất, là bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân
là chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã
hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng trong thực tiễn thắng lợi nhiêm vụ trung tâm là
phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao nội lực đất nước trong
hội nhập kinh tế quốc tế.
Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một tronh những động lực của nền kinh
tế
1.4 Kinh tế tư bản nhà nước
- Kinh tế tư bản nhà nước dựa trên hình thức sở hữu hỗn hợp về vốn giữa kinh tế
nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước dưới các hình thức
hợp tác liên doanh. Kinh tế nhà nước có khae năng to lớn trong việc huy động vốn,
công nghệ, khả năng tổ chức quản lí tiên tiến vì lợi ích bản thân kinh tế tư bản tư
nhân và phát triển kinh tế của đất nước.
- Kinh tế tư bản nhà nước có vai trò đáng kể trong giải quết việc làm và tăng
trưởng kinh tế. Sự tồn tại thành phần kinh tế này là rất cần thiết, cần phát triển

mạnh mẽ nó trong thời kì quá độ ở nước ta.
1.5 Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế
- xã hội của nước ta thông qua bổ sung nguồn vốn đầu tư, chuyển giao và phát triển
công nghệ, nâng cao năng lực quản lí, tạo việc làm.
Kinh tế có vốn đầu tế nước ngoài góp phần rất lớn vào tăng trưởng kinh tế,
chuyển dịch cơ cấu kinh theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và thúc đẩy tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
10
Bài tiếu luận Nhóm 5 – Địa sử 14
2. Đặc trưng, đặc điểm chủ yếu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta
2.1 Đặc trưng
- Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là phát triển lực
lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH,
nâng cao đời sống vật chất tinh thần của người dân. Phát triển lực lượng sản xuất
hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu,
quản lí và phân phối.
- Về sở hữu: kinh tế thị trường định hướng XHCN có nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế khác nhau trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ
đạo.
- Về phân phối: kinh tế thị trường định hướng XHCN thực hiện phân phối
chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức
đóng góp vấn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc
lợi xã hội
- Về cơ chế vận hành: cơ chế thị trường có sự quản lí vĩ mô của nhà nước
XHCN.
- Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường nước ta còn
thể hiện ở chỗ tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hoá, giáo dục, xây
dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

2.2 Đặc điểm
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có ba đặc điểm cơ
bản sau:
- Lấy chế độ công hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu làm nền tảng.
- Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo nền kinh tế quốc dân.
- Kết hợp nhiều hình thức phân phối, trong đó phân phối chủ yếu theo kết quả
lao động và hiệu quả kinh tế, thực hiện tốt các chính sách xã hội; Nhà nước xã hội
chủ nghĩa là Nhà nước của dân, do dân, vì dân thực hiện chức năng quản lý nền
kinh tế thị trường dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Các đặc điểm đó được thể hiện ở các điểm sau:
- Thứ nhất, chế độ đa sở hữu và đa thành phần kinh tế. Cốt lõi của kinh tế
thị trường là sản xuất hàng hóa, trao đổi mua bán hàng hóa, dịch vụ trên thị
trường theo quy luật thị trường. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN dựa trên
nhiều hình thức sở hữu, như: sở hữu toàn dân mà nhà nước là đại diện chủ sở hữu,
sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp.
11
Bài tiếu luận Nhóm 5 – Địa sử 14
- Thứ hai, kết hợp nhiều hình thức phân phối, trong đó phân phối theo kết
quả lao động và hiệu quả kinh tế là chính; thực hiện tốt các chính sách xã hội.
Muốn cho nền kinh tế thị trường không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, bảo
đảm tốt các vấn đề xã hội và thực hiện công bằng xã hội, thì Nhà nước phải chủ
động thực hiện và điều tiết các quan hệ phân phối, cụ thể như:
- Kết hợp vấn đề lợi nhuận với vấn đề xã hội
- Kết hợp chặt chẽ những nguyên tắc phân phối của CNXH và nguyên tắc của
kinh tế thị trường, như: phân phối theo lao động, theo vốn, theo tài năng, phân phối
qua quỹ phúc lợi xã hội… trong đó quan hệ phân phối theo lao động đóng vai trò
chủ đạo.
- Nhà nước chủ động điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư. Một mặt, Nhà
nước phải có chính sách để giảm bớt khoảng cách chênh lệch giữa lớp người giàu
và lớp người nghèo không để diễn ra sự chênh lệch quá mức giữa các vùng, miền,

các dân tộc và các tầng lớp dân cư, thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội.
- Thứ ba, Nhà nước XHCN là Nhà nước của dân, do dân, vì dân thực hiện
chức năng quản lý nền kinh tế thị trường dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Cơ chế quản lý và vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Nhà nước có chức năng:
- Tạo môi trường pháp lý, kinh tế – xã hội ổn định, thuận lợi cho các chủ thể
kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường.
- Định hướng và hướng dẫn sự phát triển kinh tế – xã hội bằng việc soạn thảo,
ban hành các kế hoạch, quy hoạch, các chương trình phát triển kinh tế – xã hội và
các chính sách .
- Tổ chức quản lý về kinh tế bao gồm: Nhà nước sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị
kinh tế, đặc biệt là sắp xếp, củng cố các doanh nghiệp nhà nước; phân phối các khu
công nghiệp tập trung, các vùng kinh tế nhằm tạo ra cơ cấu kinh tế hợp lý, phù hợp
với nền kinh tế thị trường; tổ chức lại hệ thống quản lý, sắp xếp lại các cơ quan
quản lý nhà nước về kinh tế…
- Điều tiết kinh tế, điều hành vĩ mô nền kinh tế.
- Nhà nước thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát nhằm thiết lập kỷ cương
trong hoạt động kinh tế, phát hiện và ngăn chặn các hiện tượng vi phạm pháp luật
và làm sai chính sách, bảo vệ tài sản quốc gia và lợi ích của nhân dân, góp phần
tăng trưởng kinh tế và từng bước thực hiện công bằng xã hội.
12
Bài tiếu luận Nhóm 5 – Địa sử 14
3.Vai trò của nền kinh tế nhà nước trong việc phát triển kinh tế thị trường
theo định hướng XHCN
3.1. Nội dung của thành phần kinh tế nhà nuớc
- Cơ sở để xem xét một thành phần kinh tế với tư cách là quan hệ sản xuất,
trong đó quan hệ sở hữu đóng vai trò quyết định còn quan hệ tổ chức quản lí và
quan hệ phân phối có vai trò tác dộng tích cực. Trong nền kimh tế nhiều thành phần
thì các quan hệ sở hữu không tồn tại dưới dạng thuần khiết cô lập mà đan xen lẫn

nhau. Người ta dễ dàng nhận thấy trong một tổ chức kinh tế có nhiều quan hệ sở
hữu khác nhau như sở hữu nhà nước , sở hửu tư nhân, sở hữu tập thể v.v Do đó
thành phần kinh tế dù chỉ được biểu hiện ra dưới các hình thức tổ chức tổ chức sản
xuất kinh doanh cụ thể , song lại không trùng khớp với một hình thức tổ chức sản
xuất kinh doanh xác định nào đó. Để xem tổ chức kinh tế thuộc thành phần kinh tế
nào, cần phải xét cụ thể xem lực lượng kinh tế nào kiểm soát và chi phối chúng.
Chính phải dựa trên cơ sở xem xét khoa học như thế, chúng ta mới có thể hiểu
được tại sao cùng là các công ty cổ phần mà công ty này thì thuộc thành phần kinh
tế tư nhân còn công ty này thì thuộc thành phần kinh tế nhà nước.
- Thành phần kinh tế nhà nước dựa trên cơ sở quan trọng là sở hữu của nhà
nước về tư liệu sản xuất. Nhà nước chính là một lực lượng kinh tế , kiểm soát nền
kinh tế theo nguyên tắc của thị trường với nhà nước là một lực lượng chính trị với
các phương tiện vật chất đảm bảo cho sự thống nhất chính trị đó. Thành phần kinh tế
nhà nước bao gồm các yếu tố sau cấu thành như sau:
+ Yếu tố thứ nhất: là hệ thống các doanh nghiệp nhà nước. Đây là các tổ
chức kinh tế mà sở hửu nhà nước có thể là 100% hay chỉ là cổ phần khống chế, cổ
phần đặc biệt có quyền phủ quyết. Các doanh nghiệp nhà nước có thể hoạt động
theo luật riêng như hiện nay, cũng có thể hoạt động theo luật doanh nghiệp chung
như nhiều ý kiến đề nghị, nhưng điểm cốt lõi của nhà nước thông qua các đại diện
sở hữu của mình tiến hành kiểm soát, chi phối được hoạt động của doanh nghiệp
nhằm lấy đó can thiệp tích cực vào nền kinh tế, định hướng những cân đối lớn và
hiệu quả chung.
+ Yếu tố thứ hai là hệ thống tài chính của nhà nước. Ngày nay khi mà xu
hướng mở rộng phân phối qua ngân sách nhà nước đã trở thành phổ biến ở các
quốc gia, thì ở nước ta, nhà nước có vai trò to lớn trong đảm bảo công bằng , nên
tài chính nhà nước trở thành lực lượng kinh tế đáng kể. Từ ngân sách nhà nước có
thể hình thành các luồng tài chính khác nhau như đầu tư vào các doanh nghiệp
không phải doanh nghiệp nhà nước dể sinh lãi, trợ cấp cho các đối tượng chính
sách xã hội, cho vay tín dụng v.v…Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường hiện đại,
khi vốn trở thành những nguồn lực sản xuất chủ yếu thì một thành phần tài chính

nhà nước, kể cả chi tiêu ngân sách thường xuyên trở thành lực lượng kinh tế lớn.
13
Bài tiếu luận Nhóm 5 – Địa sử 14
+ Yếu tố thứ ba hệ thống dự trữ, tài nguyên, đất đai , vùng biển thuộc sở hữu
nhà nước. Do đặc thù xã hội chủ nghĩa nên ở nước ta toàn bộ đất đai mặt biển,
không phận đều thuộc sở hữu nhà nước. Có bộ phận đất đai do nhà nước giao cho
dân sử dụng lâu dài. Cũng có bộ nhà nước cho thuê và có thu nhập. thu nhập có thể
tái đầu tư , cũng có thể cho vay hoặc chuyển giao cho công nhân dưới hình thức
nào đó. Dù mục đích sử dụng có thể khác nhau, song không phủ nhận rằng sở hữu
đất đai mặt biển, bầu trời cùng với dự trữ quốc gia đã làm cho nhà nước thật sự là
chủ thể kinh tế mạnh không chỉ có khả năng tham gia vào các quá trình kinh tế mà
còn có thể đóng vai trò điều tiết kinh tế, và kiểm soát các quá trình kinh tế đó.
+ Yếu tố thứ tư là hệ thống dịch vụ nhà nước, kể cả dịch vụ thu phí và không
thu phí. Những dịch vụ nhà nước như dịch vụ ngân hàng nhà nước, dịch vụ hải
quan, dịch vụ thủ tục hành chính cho hoạt động kinh tế như kiểm soát thị trường
tiền, thị trường chứng khoán, thị trường vốn …Với việc cung cấp các dịch vụ này ,
nhà nước có thể tác động vào thị trường và qua thị trường tác động đến nền kinh tế.
Yếu tố này làm cho tiềm lực kinh tế của nhà nước được nhân bội lên.
Như vậy thành phần kinh tế nhà nước được hiểu theo nghĩa rộng rãi hơn
nhiều so với quan diểm cùa một số nhà kinh tế cho rằng chỉ nên giới hạn thành
phần kinh tế nhà nước ở hệ thống các doanh nghiệp nhà nước .Chỉ với cách hiểu
đầy đủ như vậy chúng ta mới có cơ sở để tìm tòi các hình thức tổ chức kinh doanh
hợp lý để một mặt tái sản xuất được quan hệ sở hữu nhà nước trong quá trình tái
sản xuất xã hội, mặt khác thông qua sự lớn mạnh của nó mà giữ vững được định
hướng XHCN và dần dần cải tổ nền kinh tế trên cơ sở tiềm lực kinh tế nhà nước
vững chắc.
3.2 Bản chất XHCN của thành phần kinh tế nhà nước:
Trong các kì Đại hội Đảng từ năm 1986 đến nay, thay cho cụm “xây nền
kinh tế XHCN”, Đảng ta đã sử dụng cụm từ “định hướng XHCN” với hàm ý rằng
nước ta còn ở giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ lên CNXH. Đương nhiên đặc trưng

của thời kỳ quá độ, như Lênin đã chỉ ra là thời kỳ mà nhiều thành phần cùng tồn
tại, trong đó có cả thành phần đại diện cho phương thức sản xuất cũ chưa thể bị
thay thế, các thành phần đại diện cho phương thức mới chưa đủ sức khẳng định cho
vai trò thống trị của mình. Chính ở giai đoạn này, nhà nước chính là bà đỡ cho sự ra
đời của phương thức sản xuất mới có vai trò đặc biệt quan trọng thể hiện ở chính
sách tạo môi trường thuận lợi cho thành phần kinh tế mới nảy sinh, phát triển và
tiến đến thắng lợi. Lịch sử đã chứng minh mọi phương thức sản xuất mới đều hình
thành như thế.
Vấn đề khác biệt đối với thành phần kinh tế nhà nước ở nước ta là ở chỗ:
Nếu như các phương thức sản xuất khác thực hiện sự bóc lột đối với quảng đại
quần chúng nhân dân thì phương thức sản xuất XHCN mà chúng ta hướng tới sẽ là
sự giải phóng quảng đại quần chúng nhân dân lao động khỏi ách áp bức bóc lột do
đó nhà nước và thành phần kinh tế nhà nước đại diện cho lợi ích của nhân dân lao
14
Bài tiếu luận Nhóm 5 – Địa sử 14
động. Cũng chính từ bản chất vì số đông, vì quảng đại nhân dân lao động nên thành
phần kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác buộc phải lựa chọn và tìm tòi bước đi để
có thể tiến tới hình thành nền tảng của chế độ mới không giống sự thống trị đi đến
bành trướng như thành phần kinh tế phong kiến hay thành phần kinh tế TBCN
trước kia.
Nếu như sự thống trị của các thành phần kinh tế đó chủ yếu dựa trên sự
chuyển giao quyền chiếm hữu do đó quyền kiểm soát kinh tế từ giai cấp này sang
giai cấp khác thì thành phần kinh tế XHCN chỉ có thể xuất hiện khi đa số nhân dân
lao động giành được quyền chiếm hữu dưới hình thái nhà nước, chứ không phải
dưới hình thái một giai cấp và từ sự chiếm hữu dưới hình thái nhà nước đó thông
qua nhà nước XHCN do dân và vì dân mà nhân dân lao động tiến hành kiểm soát
các quá trình tổ chức quản lý và phân phối của nền kinh tế. Có nghĩa là ẩn dấu đằng
sau hình thái sở hữu nhà nước, thành phần kinh tế nhà nước ở nước ta vẫn ở chế độ
sở hữu toàn dân chế độ sở hữu XHCN. Đây là đặc trưng cần phải nhận thức rõ và
quán triệt trong cán bộ quản lý và nhân dân lao động, nhất là người lao động trong

các doanh nghiệp nhà nước để mọi người thấy rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mình
trong sự nghiệp củng cố và phát triển vững mạnh thành phần kinh tế nhà nước. Cần
phải chú ý hai điểm sau đây:
- Thứ nhất thành phần kinh tế nhà nước được hiểu theo nội dung nêu trên là
giai đoạn thấp, khởi đầu của quan hệ sản xuất XHCN .
- Thứ hai: do trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần nhà nước không
chỉ đại diện cho lợi ích của nhân dân lao động mà còn đại diện cho lợi ích của quốc
gia. Về mặt kinh tế ,lợi ích của quốc gia biểu hiện trước hết ở khả năng giải phóng
sức sản xuất hiện có, ở việc sử dụng tốt các nguồn lực và ở việc đem kết quả của
việc sử dụng tốt các nguồn lực phục vụ cho các công dân nước mình. Do lực lượng
sản xuất của nước ta hiện nay đòi hỏi phải phát triên đa dạng các hình thức tổ chức
kinh doanh thích hợp với trình độ phát triển khác nhau của lực lượng sản xuất và
thực tế đổi mới những năm qua chứng tỏ rằng chỉ bằng cách đó ta mới thõa mãn
được nhu cầu người dân ở mức tốt nhất.
Cho nên nhà nước ta không những phải tạo điều kiện cho thành phần kinh tế
nhà nước và thành phần kinh tế hợp tác phát triển mà hơn lúc nào hết phải tạo điều
kiện và bảo vệ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển, một khi trong lòng
quan hệ sản xuất của nó, lực lượng sản xuất đang còn nhiều dư địa để phát triển.Do
vậy không thể nói đến sự chi phối của thành phần kinh tế nhà nước, bởi thực chất ta
không muốn nói đến một sự áp đặt kinh tế bằng bạo lực, bằng lấn át các thành phần
kinh tế khác .Quan điểm có tính nguyên tắc của chúng ta là tạo ra môi trường hoạt
động bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế nhằm khai thác hết nội lực, tiềm năng
và nhân tố hiệu quả của chúng , đồng thời cố gắng tìm tòi thể nghiệm trên cơ sở
tổng kết kinh nghiệm cũng như khái quát lý luận để tìm ra những phương thức tổ
chức kinh doanh có hiệu quả, trong đó không chỉ lực lượng sản xuất tìm thấy nguồn
15
Bài tiếu luận Nhóm 5 – Địa sử 14
động lực phát triển mạnh mẽ mà quan hệ sản xuất XHCN cũng không ngừng được
tái sinh và hoàn thiện. Và đây mới chính là nội dung cốt lõi nhất. Tư tưởng xuyên
suốt của đổi mới quản lý để thành phần kinh tế nhà nước giữ được vai trò chủ đạo.

3.3 Vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước:
3.3.1 Vai trò:
- Về mặt lý luận, vai trò chủ đạo do thành phần kinh tế đại diện cho phương
thức sản xuất mới đang dần thay thế phương thức sản xuất cũ đảm nhiệm.Trong
nền kinh tế nhiều thành phần dịnh hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, vai trò chủ
đạo đó tất yếu được đặt lên vai thành phần kinh tế nhà nước. Đại hội VIII đảng
cộng sản Việt Nam khẳng định: “Tiếp tục phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước
để làm tốt vai trò chủ đạo: Làm đòn bẩy đẩy nhanh kinh tế và giải quyết những
vấn đề xã hội; mở đường hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần khác cùng phát triển;
làm lực lượng vật chất để nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ
mô; tạo nền tảng cho xã hội chủ nghĩa mới” và tư tưởng này một lần nữa được
khẳng định ở hội nghị trung ương 4 ( khóa VIII) .
Tuy nhiên cho đến này vẫn không ít ý kiến cho rằng vai trò chủ đạo này nên
được đặt cho hệ thống doanh nghiệp nhà nước hơn là cho thành phần kinh tế với
nội dung đã được xác định như trên. Nếu chỉ riêng hệ thống doanh nghiệp nhà
nước thì bảo đảm vai trò chủ đạo bởi lẽ: thứ nhất hệ thống này khó chiến thắng
doanh nghiệp tư nhân trong diều kiện cạnh tranh thị trường thuần túy; thứ hai nó
khó lòng định hướng dẫn dắt và cải tạo các thành phần kinh tế tư bản nhà nước
nếu không có sự hỗ trợ của nhà nước với tư cách chủ thể kinh tế mạnh; thứ ba, bản
thân các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh của các doanh nghiêp nhà nước
chưa chứng tỏ bản chất xã hội chủ nghĩa của nó mà bản chất đó chỉ được khẳng
định bằng chính bản chất xã hội chủ nghĩa của nhà nước. như vậy không thể chối
cải được rằng với tổng thể tiềm lực kinh tế của mình, kinh tế nhà nước chưa đủ
sức để trở thành lực lượng đi tiên phong trong công nghiệp hóa hiện địa hóa nhằm
mở ra những phạm vi rộng lớn cho lực lượng sản xuất phát triển và do đó nó có ưu
thế hơn hẳn các thành phần kinh tế khác ở nước ta.
Mặt khác thông qua vai trò điều tiết, định hướng dẫn dắt thành phần kinh tế
nhà nước góp phần chi phối và biến đổi các thành phần kinh tế khác trong quỹ đạo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Như nguyên tổng bí thư Đỗ Mười nói trong hội nghị
trung ương khóa VIII : “ Chúng ta không thể để quan hệ sản xuất phát triển tự

phát. Nếu để tự phát thì nền sản xuất sẽ hằng ngày hằng giờ đi vào chủ nghĩa tư
bản”.Và hơn nữa chúng ta kì vọng vào sự tìm tòi thử nghiệm để sáng tạo ra những
hình thức tốt nhất, trong đó vừa duy trì và tái sản xuất được quan hệ sản xuất mới-
xã hội chủ nghĩa, vừa tạo ra những phạm vi rộng lớn cho sự tăng trưởng nhanh, có
hiệu quả lực lượng sản xuất. Chính đó là cốt lõi của luận đề: “ kinh tế nhà nước
đóng vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế hợp tác xã dần dần trở thành nền tảng”.
16
Bài tiếu luận Nhóm 5 – Địa sử 14
Tuy nhiên chúng ta cũng phải nhận thức rằng quá trình tìm tòi này không
phải dễ dàng. Trên con đường tìm tòi đó sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp nhà
nước hiện có, đa dạng hóa loại hình sở hữu ngay trong doanh nghiệp nhà nước, cổ
phần hóa một bộ phận doanh nghiệp nhà nước, chuyển doanh 100% vốn nhà nước
sang hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ. Công ty hóa doanh nghiệp
nhà nước, cải cách hành chính theo hướng giảm bớt các đầu mối quản lí, tìm hình
thức đại diện sở hữu nhà nước qua hội đồng quản trị, cải cách cơ chế điều tiết vĩ
mô, tách tài chính công ty ra khỏi tài chính doanh nghiệp…Tất cả những việc làm
đó chính là quá trình thử nghiệm tìm tòi, để tìm ra một mô hình tổ chức kinh tế
nhà nước tối ưu phản ánh được bản chất của quan hệ sản xuất xã hội chũ nghĩa. Sự
vật sẽ tự phát triển và dẫn đến những mô hình ngày càng hoàn thiện hơn. Đó là
quy luật của lịch sử, Không ai có thể nóng vội đốt cháy giai đoạn. Xong cũng có
những nguyên tắc không thể xa rời. Một là phải gìn giữ và thể hiện thực tế trên
bản chất xã hội chũ nghĩa của nhà nước.
Do vậy phải kiên định vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản và nâng tầm lãnh
đạo của Đảng cộng sản ngang mức thực tế đòi hỏi. Hai là, phải củng cố, phát triển
thành phần kinh tế nhà nước để nó thực sự ngày càng mạnh và thật sự có hiệu quả
hơn. Cải tổ khu vực kinh tế nhà nước nhất quyết không có nghĩa là thu hẹp vai trò
của thành phần kinh tế này. Ba là tăng cường sự kiểm tra, kiểm soát của nhân dân
đối với thành phần kinh tế nhà nước để hạn chế tối đa xu hướng quan liêu hóa,
tham ô, tham nhũng của cán bộ đại diện cho sở hữu nhà nước.
- Ngoài ra với khái niệm thành phần kinh tế nhà nước rộng như vậy thì kinh

tế nhà nước đã bao hàm cả phần vốn nhà nước liên doanh với tư bản tư nhân, do
vậy khái niệm “thành phần kinh tế tư bản nhà nước” là không còn cần thiết và
thích hợp với phạm trù “thành phần”, mà nên quy nó về các hình thức tổ chức sản
xuất kinh doanh hỗn hợp. Tiến tới Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam, Đại hội
vạch ra chiến lược phát triển cho dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XXI, chúng ta tin
rằng những vấn đề trên đây sẽ được làm sáng tỏ hơn.
Kinh tế nhà nước cần và có thể giữ vai trò chủ đạo vì những lí do sau đây:
- Một là, kinh tế nhà nước dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, là
chế độ sở hữu phù hợp với xu hướng xã hội hóa lực lượng sản xuất. Nhà nước-đại
diện cho toàn dân-là chủ sở hữu của toàn dân.
- Hai là, kinh tế nhà nước nắm giữ những vị trí then chốt, yết hầu, xương
sống của nền kinh tế, do đó có khả năng chi phối hoạt động của các thành phần
kinh tế khác, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo hướng đã định.
- Ba là, kinh tế nhà nước là lực lượng đảm bảo cho sự phát triển ổn định của
nền kinh tế, là lực lượng có khả năng can thiệp, điều tiết, hướng dẫn giúp đỡ và
liên kết, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế cùng phát triển
17
Bài tiếu luận Nhóm 5 – Địa sử 14
- Bốn là, kinh tế nhà nước có thể tác động tới các thành phần kinh tế khác
không chỉ bằng các công cụ và đòn bẩy kinh tế, mà còn bằng con đường gián tiếp,
thông qua những thiết chế, hoạt động của kiến trúc xã hội chủ nghĩa.
- Năm là, kinh tế nhà nước dẫn đầu trong việc ứng dụng khoa học công nghệ
hiện đại, tiên tiến; do đó nó có nhịp độ phát triển nhanh, đóng góp phần lớn cho
ngân sách nhà nước và tự tích tụ để có thể không ngừng tái sản xuất mở rộng.
- Sáu là, kinh tế nhà nước là lực lượng nòng cốt hình thành các trung tâm
kinh tế, đô thị mới; là lực lượng có khả năng đầu tư vào những vị trí quan trọng
sống còn mà ít thành phần kinh tế nào dám đầu tư vì đòi hỏi vốn lớn mà thời gian
thu hồi chậm.
3.3.2. Thành tựu:
Hơn 20 năm qua, kể từ khi Việt Nam bước vào thực hiện mô hình kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều kết
quả và thành tựu đáng kể, làm thay đổi khá rõ tình hình đất nước. Kinh tế ra khỏi
tình trạng khủng hoảng, hoạt động ngày càng năng động và có hiệu quả. Của cải xã
hội ngày càng nhiều, hàng hóa ngày càng phong phú. Đời sống nhân dân từng bước
được cải thiện. Đất nước chẳng những giữ vững được ổn định chính trị trước những
chấn động lớn trên thế giới mà còn có bước phát triển đi lên. Tổng sản phẩm trong
nước (GDP) tăng bình quân 7% /năm. Nông nghiệp phát triển liên tục, đặc biệt là
về sản xuất lương thực, nuôi trồng và khai thác thủy sản. Giá trị sản xuất công
nghiệp tăng 13,5%/năm. Hệ thống kết cấu hạ tầng được tăng cường. Các ngành
dịch vụ, xuất khẩu và nhập khẩu phát triển. Quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế
quốc tế không ngừng được mở rộng.
Quá trình đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn trên mọi lĩnh vực đời sống
xã hội, đưa đất nước vào một giai đoạn phát triển mới. Những năm 1986-1988, cuộc
khủng hoảng kinh tế - xã hội đã trở nên gay gắt nhất, khi lạm phát lên tới mức ''phi
mã'' (ba con số), nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh của Nhà nước đình đốn, thua lỗ,
sản xuất cầm chừng, thậm chl phải đóng cửa; bội chi ngân sách lớn; giá cả tăng vọt;
tiền lương thực tế giảm; đời sống nhân dân giảm sút nghiêm trọng; khó khăn chồng
chất có lúc tưởng chừng không thể vượt qua.
Sau 3 năm thực hiện nghị quyết Đại hội VII (tháng 6/1991), nền kinh tế nước ta
không những đứng vững trước những thử thách hiểm nghèo, mà còn đạt được những
thành tựu nổi bật, khắc phục được nhiều mặt đình đốn, suy thoái, đạt tốc độ tăng
trưởng khá và liên tục. Lạm phát được đẩy lùi từ 774,7% năm 1986 còn 67% năm
1991, 17,5% năm 1992 và còn 5,2% năm l993. Việc thực hiện các mục tiêu của ba
chương trình kinh tế đạt được những tiến bộ rõ rệt. Tổng sản phẩm trong nước
(GDP) tăng bình quân hằng năm 7,2%. Sản xuất nông nghiệp phát triển tương đối
toàn diện; vấn đề lương thực được giải quyết tốt. Năm 1988 còn phải nhập 45 vạn
18
Bài tiếu luận Nhóm 5 – Địa sử 14
tấn gạo, từ năm 1991 đã đáp ứng được nhu cầu lương thực trong nước, có dự trữ và
xuất khẩu. Năng lực sản xuất một số ngành và sản phẩm công nghiệp quan trọng

tăng thêm. Quan hệ kinh tế đối ngoại được mở rộng theo hướng đa dạng hóa và đa
phương hóa.
Đại hội VIII của Đảng (tháng 7-1996) đã tổng kết 10 năm đổi mới và đề ra mục
tiêu, phương hướng, giải pháp thực hiện CNH, HĐH đất nước. Đại hội nhận định,
công cuộc đổi mới 10 năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, ''nước ta đã ra
khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng và kéo dài hơn 15 năm''. Kinh
tế tăng trưởng nhanh, nhịp độ tăng GDP bình quân hằng năm thời kỳ 1991-1995 đạt
8,2%. Lương thực không những đủ ăn mà còn xuất khẩu mỗi năm khoảng 2 triệu tấn
gạo. Nhiều công trình thuộc kết cấu hạ tầng và cơ sở công nghiệp trọng yếu được
xây dựng. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN tiếp tục được xây dưng một
cách đồng bộ và có hiệu quả hơn. Ổn định chính trị - xã hội tiếp tục được giữ vững.
Xuất phát từ kết quả 10 năm đổi mới, từ những tiền đề đã được tạo ra, Đại hội nhận
định rằng, nước ta đã chuyển sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước.
Sau Đại hội VIII quá trình đổi mới theo hướng đẩy mạnh CNH, HĐH đã đạt
được những thành tựu quan trọng. Tình trạng tăng trưởng kinh tế bị chững lại và
giảm sút vào cuối thập niên 90, đến năm 2000 đã được chặn lại. Nhìn chung, kinh tế
vẫn tăng trưởng khá, văn hóa, xã hội có những tiến bộ, đời sống nhân dân tiếp tục
được cải thiện. Tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định, quốc phòng và an ninh
được tăng cường. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được chú trọng. Hệ thống
chính trị được củng cố. Quan hệ đối ngoại được mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế
được tiến hành chủ động và đạt nhiều kết quả tốt.
Đại hội IX (tháng 4-200l) không chỉ tổng kết 5 năm thực hiện nghị quyết Đại
hội VIII, mà còn đi sâu tổn kết l5 năm đổi mới, 10 năm thực hiện Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội, rút ra những bài học kmh nghiệm sâu sắc, từ đó phát triển và
hoàn thiện đường lối và định ra đường lối phát triển đất nước trong hai thập niên
đầu thế kỷ XXI.
Hiện nay, nhân dân ta đang nỗ lực phấn đấu đẩy mạnh quá trình đổi mới nhằm
thực hiện mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010 mà

Đại hội IX đề ra là: “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta
cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người,
năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an
ninh được tăng cường, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được
hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao''.
Tóm lại, công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn và quan trọng trên
nhiều mặt.
* Về kinh tế - xã hội, đất nước ta không những đã ra khỏi khủng hoảng chỉ sau
10 năm đổi mới, ngay cả khi còn bị Mỹ bao vây, cấm vận, tạo những tiền đề cần
19
Bài tiếu luận Nhóm 5 – Địa sử 14
thiết để chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, mà còn đạt được tốc
độ tăng trưởng khá. Thời kỳ 1991-2000, tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm đạt
hơn 7,5%, đưa GDP tăng gấp đôi, trong khi phảí chịu những tác động tiêu cực của
cuộc khủng hoảng tài chính ở châu Á và trên thế giới vào cuối thập niên 90 của thế
kỷ XX. Chỉ trong 5 năm 1993-1998, thu nhập bình quân đầu người trên cả nước đã
tăng gấp 2,45 lần; tỷ lệ hộ đói nghèo về cả lương thực, thực phẩm và phi lương thực,
thực phẩm đã giảm từ trên 50% giai đoạn l992-l993 xuống còn trên 30% giai đoạn
1997-1998.
Đi đôi với phát triển kinh tế, Đảng và Nhà nước luôn chăm lo xây dựng nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đời sống tinh thần trong xã hội được cải
thiện rõ rệt. Việc kiên trì đmh hướng phát triển vì con người đã đẫn tới kết quả chỉ
số phát triển con người (HDI) của Việt Nam - theo xếp hạng của UNDP - tăng lên
khá nhanh, từ thứ 121 năm 1990 lên thứ 101 năm 2000 trên 174 nước, năm 2003 đạt
thứ l09 trên 175 nước.
* Trên lĩnh vực chính trị, hệ thống chính trị từng bước được đổi mới. Tình hình
chính trị - xã hội cơ bản được ổn định.
Những thành tựu của quá trình đổi mới vừa qua đã tăng cường sức mạnh tổng hợp
của đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế.

3.3.3 Hạn chế:
Trong tiến trình hội nhập và toàn cầu hoá, điểm hạn chế đầu tiên và rõ
ràng nhất là hoạt động của thành phần kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị
trường ở nước ta. Chính các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước tạo nên sức
mạnh kinh tế của quốc gia. Sự lớn mạnh của tập đoàn góp phần vào thúc đẩy phát
triển kinh tế quốc gia thông qua các hiệu ứng và tác động lan tỏa, thúc đẩy tiến bộ
công nghệ, tạo nhiều việc làm mới.
Nhìn vào Danh sách 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam (VNR500), có thể
thấy các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước đang chiếm những vị trí dẫn
đầu, chứng tỏ đó là những tổ chức kinh tế thực sự lớn về quy mô.
Tuy nhiên, có thể nói, tập đoàn kinh tế đang giống những chiếc xe buýt tuy
to nhưng không hề khỏe.
Thống kê từ Bảng xếp hạng VNR500 cũng cho thấy, các chỉ tiêu về hiệu quả
kinh doanh của các tập đoàn và tổng công ty nhà nước không có chênh lệch lớn với
khối doanh nghiệp thuộc thành phần sở hữu tư nhân và thua xa các doanh nghiệp
thuộc khối FDI.
Chỉ tiêu ROA và ROE của 8 tập đoàn và 54 tổng công ty nhà nước có mặt
trong Bảng xếp hạng 2009 lần lượt chỉ là 6,3% và 6,2%. Trong khi đó, các con số
tương ứng của khối FDI 14% và 28%.
20
Bài tiếu luận Nhóm 5 – Địa sử 14
Điều đó cho thấy, nếu xét riêng về hiệu quả kinh tế, các doanh nghiệp nhà
nước và tập đoàn kinh tế đang thua kém từ 2-3 lần so với các doanh nghiệp FDI.
Đó là chưa kể, đóng góp vào GDP của khối kinh tế Nhà nước trong 4 năm gần đây
giảm so với trước, chỉ còn khoảng 35% so với khoảng 46% của khu vực kinh tế
ngoài Nhà nước.
Tuy nhiên, trong cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế cũng còn
những hạn chế và đặt ra một số vấn đề cần giải quyết. Doanh nghiệp Nhà nước hiệu
quả hoạt động còn thấp; việc sắp xếp, đổi mới còn chậm, chủ yếu mới là số doanh
nghiệp quy mô nhỏ, mức vốn thấp; độc quyền nhà nước đã được biến thành độc

quyền kinh doanh của nhiều tổng công ty nhà nước; doanh nghiệp nhà nước hoạt
động trong một số ngành, lĩnh vực còn rất lúng túng Kinh tế tập thể về số lượng
gần đây tăng lên, nhưng tỷ trọng về nhiều chỉ tiêu chủ yếu còn thấp và giảm
Ngược lại, sự đổ vỡ của tập đoàn, nhất là những tập đoàn mạnh, có thể gây
ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế.
Việc một số tập đoàn nhà nước làm ăn không hiệu quả và gần đây nhất là vụ
đổ vỡ của Vinashin khiến dư luận không thể không cho rằng: đang rất cần một cuộc
xác định nghiêm túc lại vai trò của khu vực , mà đến nay vẫn và sẽ tiếp tục được
coi là giữ vao trò chủ đạo của nền kinh tế. Chính việc đầu tư tràn lan là những cơ
hội để lợi dụng bỏ tiền nhà nước vào các dự án. Bởi lãnh đạo của các tập đoàn kinh
tế nhà nước như Vinashin là những người được bổ nhiệm có thời hạn và theo lẽ tự
nhiên, họ phải thông qua càng nhiều dự án càng tốt, và càng thu lợi cho cá nhân
nhiều hơn.
Từ khi được thành lập vào năm 1996 đến nay, Tập đoàn Công nghiệp Tàu
thủy Việt Nam (Vinashin, trong đó từ năm 1996 đến năm 2006 là Tổng Công ty
Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam) đã có bước phát triển nhanh trên nhiều mặt:
Bước đầu đã hình thành được cơ sở vật chất - kỹ thuật quan trọng, có trình độ công
nghệ tiên tiến và khá đồng bộ của ngành công nghiệp đóng, sửa chữa tàu biển; xây
dựng được đội ngũ trên 70.000 cán bộ, công nhân kỹ thuật, trong đó nhiều người có
tay nghề khá, có khả năng đóng được nhiều loại tàu phục vụ cho nhu cầu đa dạng
và ngày càng cao của nền kinh tế, quốc phòng, an ninh và cho xuất khẩu, kể cả tàu
trọng tải trên 100.000 DWT; xây dựng được một số cơ sở công nghiệp phụ trợ,
nâng cao một bước tỉ lệ nội địa hoá trong đóng và sửa chữa tàu biển. Riêng trong
thời kỳ từ năm 1996 - 2006, đạt tốc độ tăng trưởng khá cao (bình quân 35% -
40%/năm), kinh doanh có lãi; tăng được vốn chủ sở hữu và giá trị tài sản của doanh
nghiệp.
Tuy nhiên, hiện nay, Vinashin đang gặp nhiều khó khăn rất lớn, bộc lộ nhiều
yếu kém, sai phạm nghiêm trọng:
21
Bài tiếu luận Nhóm 5 – Địa sử 14

- Đầu tư mở rộng quá nhanh, quy mô lớn, một số dự án trái với quy hoạch được
phê duyệt, dàn trải trên nhiều lĩnh vực, địa bàn, có lĩnh vực không liên quan đến
công nghiệp đóng và sửa chữa tàu biển, trong đó nhiều lĩnh vực kém hiệu quả, có
nhiều công ty, dự án thua lỗ nặng nề.
- Tình hình tài chính đứng trước bờ vực phá sản: Theo số liệu ban đầu, ước tính dư
nợ hiện đang rất lớn, lên tới khoảng 86.000 tỉ đồng; nợ đến hạn phải trả khoảng trên
14.000 tỉ đồng; tỉ lệ nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu gấp gần 11 lần, khó có khả
năng tự cân đối dòng tiền.
- Sản xuất, kinh doanh hiện đang bị đình trệ; bị mất hoặc giảm nhiều đơn đặt hàng;
nhiều dự án đầu tư dở dang, không hiệu quả.
- Tình hình nội bộ diễn biến phức tạp: Hơn 70.000 cán bộ, công nhân viên lo lắng
do việc làm và thu nhập giảm; hiện đã có khoảng 17.000 công nhân chuyển việc
hoặc bỏ việc; 5.000 công nhân bị mất việc làm; nhiều công nhân của một số nhà
máy, xí nghiệp bị chậm trả lương trong nhiều tháng
Mặc dù vẫn trong tầm kiểm soát và có thể khắc phục được, nhưng nếu không có
các chính sách, biện pháp đúng đắn, kịp thời, tình hình của Vinashin có thể ảnh
hưởng xấu đến các tổ chức tín dụng, các đơn vị được nhận chuyển giao, ngân sách
nhà nước, sự ổn định vĩ mô của nền kinh tế, việc làm và thu nhập của cán bộ, công
nhân Tập đoàn và nhiều hộ gia đình nông dân nơi có đất bị thu hồi; ảnh hưởng đến
lòng tin của nhân dân đối với chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển
doanh nghiệp nhà nước và mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước; tác động tiêu cực
đến ổn định chính trị - xã hội của đất nước.
Những hạn chế, yếu kém nêu trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân chủ quan
và khách quan, song nguyên nhân chủ quan vẫn là chủ yếu, trước hết thuộc về trách
nhiệm trực tiếp của Hội đồng Quản trị và Ban lãnh đạo Tập đoàn, trong đó có cá
nhân Chủ tịch Hội đồng Quản trị Tập đoàn và trách nhiệm của một số cơ quan quản
lý nhà nước có liên quan ở Trung ương và địa phương; cụ thể và chủ yếu là:
* Về nguyên nhân chủ quan:
- Trình độ cán bộ lãnh đạo, quản lý của Công ty mẹ và các đơn vị thành viên của
Vinashin chưa đáp ứng được yêu cầu quản trị một tập đoàn kinh tế lớn, đặc biệt là

người đứng đầu còn hạn chế về năng lực, có biểu hiện thiếu trách nhiệm, tuỳ tiện,
cá nhân, báo cáo không trung thực, cố ý làm trái, vi phạm pháp luật trong việc chấp
hành các quy định của Nhà nước, quyết định của Thủ tướng Chính phủ khi chỉ đạo
các hoạt động đầu tư, dự án, vốn cho sản xuất kinh doanh, sử dụng vốn và bố trí
cán bộ.
Lãnh đạo Tập đoàn, trước hết là Hội đồng Quản trị và người đứng đầu với chức
năng đại diện trực tiếp chủ sở hữu đã có nhiều khuyết điểm, sai lầm trong tổ chức,
quản lý, điều hành, nhất là trong việc xác định lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, tổ
chức quản lý các công ty con, công ty liên kết, tiến hành các hoạt động đầu tư xây
22
Bài tiếu luận Nhóm 5 – Địa sử 14
dựng, quản lý vốn, tài chính, vay và trả nợ; trong một thời gian ngắn đã mở rộng
quá nhanh quy mô tập đoàn, nhất là mở ra rất nhiều công ty con, công ty liên kết;
mở sang một số lĩnh vực không phải là những chuyên ngành phục vụ cho nhiệm vụ
chính của mình.
Tập đoàn đã chậm xây dựng Điều lệ hoạt động và các quy định quản lý tài chính
khác, như: quy chế quản lý tài chính, quy chế quản lý đầu tư xây dựng, các định
mức kinh tế kỹ thuật…
- Một số cơ quan tham mưu liên quan thuộc Chính phủ, một số địa phương và một
số cơ quan chức năng kiểm tra, giám sát ở Trung ương có thiếu sót, khuyết điểm
trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước và chức năng đại diện chủ sở hữu
nhà nước đối với Tập đoàn; chưa sát sao giám sát, kiểm tra chặt chẽ và đánh giá
đúng, kịp thời về công tác tổ chức, cán bộ và tình hình hoạt động sản xuất kinh
doanh, thực hiện định hướng chiến lược phát triển của Tập đoàn theo tinh thần
Nghị quyết Trung ương 3 (khoá IX) và Kết luận số 45-KL/TW, ngày 10/4/2009 của
Bộ Chính trị về việc thí điểm mô hình tập đoàn kinh tế; đến nay vẫn chưa phê
duyệt được Điều lệ tổ chức, hoạt động và Quy chế quản lý tài chính của Công ty
mẹ - Tập đoàn Vinashin.
Từ năm 2006 - 2009 tuy đã qua 11 lần kiểm toán, kiểm tra, thanh tra nhưng vẫn
không phát hiện được đầy đủ, kết luận đúng tình hình và những yếu kém, khuyết

điểm nghiêm trọng của Tập đoàn, chưa đưa ra được những biện pháp chấn chỉnh,
ngăn chặn, xử lý kịp thời, có hiệu quả, mặc dù những biểu hiện về những khó khăn,
khuyết điểm của Vinashin đã được cơ quan thông tin đại chúng và dư luận phản
ánh, cảnh báo từ sớm và nhiều lần.
* Về nguyên nhân khách quan:
- Mô hình tập đoàn còn đang trong giai đoạn thí điểm, chưa có sơ kết, tổng kết,
đánh giá hiệu quả; thể chế, cơ chế còn thiếu hoặc chưa đồng bộ.
- Khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới gần đây đã ảnh hưởng nặng
nề đến phát triển ngành công nghiệp đóng tàu, vận tải biển, trong đó có Vinashin.
4. Bản chất, đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở nhận thức tính quy luật phát triển của
thời đại và sự khái quát, đúc rút từ kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường thế
giới, đặc biệt là từ thực tiễn xây dựng CNXH ở Việt Nam và ở Trung Quốc, để đưa
ra chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhằm sử dụng
kinh tế thị trường để thực hiện mục tiêu từng bước quá độ lên CNXH. Kinh tế thị
trường định hướng XHCN là “cái đặc thù” của Việt Nam, phù hợp với điều kiện và
đặc điểm cụ thể của Việt Nam.
23
Bài tiếu luận Nhóm 5 – Địa sử 14
Chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là sự tiếp thu có
chọn lọc thành tựu của văn minh nhân loại, phát huy vai trò tích cực của kinh tế thị
trường trong việc thúc đẩy phát triển sức sản xuất, xã hội hóa lao động, cải tiến kỹ
thuật – công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra nhiều của cải, góp phần
làm giàu cho xã hội và cải thiện đời sống nhân dân; đồng thời phải có những biện
pháp hữu hiệu nhằm hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường, như chạy theo lợi
nhuận đơn thuần, cạnh tranh khốc liệt, bóc lột và phân hóa giàu nghèo quá đáng, ít
quan tâm giải quyết các vấn đề xã hội. Đây cũng là sự lựa chọn tự giác con đường
và mô hình phát triển trên cơ sở quán triệt lý luận Mác – Lê-nin, nắm bắt đúng quy
luật khách quan và vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: Kinh tế thị trường định

hướng XHXN ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật
của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên
tắc và bản chất của CNXH, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý, và
phân phối. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chính là nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Mục đích của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực
lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại
gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới, tiên tiến.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà
nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế bằng chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, chính sách, pháp luật, và bằng cả sức mạnh vật chất của lực lượng kinh tế
nhà nước; đồng thời sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và
phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức
sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị
trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu
theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp
vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội.
Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong
từng bước phát triển. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục,
xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao dân trí,
giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất
nước.
24
Bài tiếu luận Nhóm 5 – Địa sử 14

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một kiểu tổ chức kinh tế
của một xã hội đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế còn ở trình độ thấp
sang nền kinh tế ở trình độ cao hơn hướng tới chế độ xã hội mới – xã hội xã hội
chủ nghĩa. Đây là nền kinh tế thị trường có tổ chức, có sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản và sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, được định hướng cao về mặt xã
hội, hạn chế tối đa những khuyết tật của tính tự phát thị trường, nhằm phục vụ tốt
nhất lợi ích của đại đa số nhân dân và sự phát triển bền vững của đất nước.
Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa thể hiện tư duy, quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về sự phù hợp
giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong thời kỳ
quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không
phải đơn giản là sự trở về với phương thức chuyển nền kinh tế nông nghiệp sang
nền kinh tế công nghiệp, mà điều quan trọng có ý nghĩa quyết định là phải chuyển
sang nền kinh tế hiện đại, văn minh nhằm mục tiêu từng bước đi lên chủ nghĩa xã
hội. Đây là sự lựa chọn phù hợp với các quy luật phát triển và các điều kiện lịch sử
cụ thể của thời đại và của những nước đi sau, cho phép các nước này giảm thiểu
được những đau khổ và rút ngắn được con đường đi của mình tới chủ nghĩa xã hội
trên cơ sở sử dụng được ưu thế cũng như hạn chế được những khuyết điểm của hai
cơ chế: kế hoạch và thị trường. Nói cách khác, kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là kiểu tổ chức kinh tế đặc biệt, vừa tuân theo những nguyên tắc và quy
luật của hệ thống kinh tế thị trường, vừa bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chính tính chất, đặc trưng cơ bản này chi phối và quyết định phương tiện, công cụ,
động lực của nền kinh tế và con đường đạt tới mục tiêu, là sử dụng kinh tế thị
trường, nâng cao hiệu lực và hiệu quả điều tiết của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, phát
triển khoa học và công nghệ, phát triển nguồn nhân lực, mở cửa và hội nhập nhằm
thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển rút ngắn để trong
khoảng thời gian không dài có thể khắc phục tình trạng lạc hậu, đưa Việt Nam trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
5. Giải pháp để thành phần kinh tế nhà nước có thể thực hiện vai trò chủ đạo

của mình trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
5.1. Để kinh tế nhà nước thực sự phát huy vai trò chủ đạo của mình trong nền
kinh tế cần phải tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta.
- Thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước
ta.
- Hoàn thiện thể chế về sở hữu phát triển các thành phần kinh tế, các laoij
hình doanh nghiệp và các tổ chức sản xuất kinh doanh.
25

×