Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

KINH DOANH NÔNG NGHIỆP- THUẾ doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (670.45 KB, 76 trang )

CHƯƠNG 5: THUẾ
1. Khái Niệm Thuế, Bản Chất Thuế, Các Hình Thức Của Thuế
1.1 . Khái niệm
Thuế ra đời với những đặc trưng cơ bản như đã trình bày ở phần
trên. Nhưng thuế là gì? Học thuyết về thuế là một bộ phận cấu thành
quan trọng của khoa học về tài chính. Học thuyết này nghiên cứu về các
quan hệ sản xuất trong sự tác động hỗ tương với lực lượng sản xuất và
kiến trúc thượng tầng. Sự đa dạng của quan hệ sản xuất - đã làm cho một
số quan hệ phân phối tách ra thành các quan hệ tài chính và từ đó hình
thành nên những mối quan hệ phân phối mang hình thức thuế có tính
độc lập tương đối.
Mặc dù còn tồn tại một số bất đồng, song hầu hết các nhà kinh tế
đều thống nhất rằng: Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc của các thể
nhân và pháp nhân, được Nhà nước qui định thông qua hệ thống pháp
luật nhằm đáp ứng các nhu cầu chi tiêu theo chức năng của Nhà nước.
Ngoài ra còn có một khái niệm thuế được OECD đưa ra: “Thuật
ngữ thuế được giới hạn trong khuôn khổ các khoản thanh toán có tính
chất cưỡng chế, không có tính chất bồi hoàn lại cho chính phủ”.
1.2 . Bản chất của thuế:
Từ nguồn gốc ra đời và khái niệm của thuế, rõ ràng thuế có bản
chất kinh tế - chính trị - xã hội rất sâu sắc.
Bản chất kinh tế của thuế thể hiện trước hết thuế là một phần thu
nhập của xã hội được tập trung để phục vụ nhu cầu chi tiêu của Nhà
nước. Kinh tế là cơ sở của thuế, thuế gắn chặt chẽ với sản xuất, kinh
doanh và kiểm soát thu nhập của mọi tổ chức và cá nhân để động viên
và điều hòa thu nhập, điều tiết kinh tế (điều tiết sản xuất và tiêu dùng).
Nguồn thu từ thuế cho ngân sách Nhà nước chhỉ có thể tăng nhiều và
nhanh trên cơ sở nền kinh tế được phát triển và đạt hiệu quả cao. Ngược
lại, qua thu thuế phải góp phần kích thích sản xuất kinh doanh phát triển,
thúc đẩy thực hành tiết kiệm về mọi mặt trong sản xuất và tiêu dùng một
cách hợp lý để tạo nguồn thu thuế ngày càng lớn hơn. Chính vì vậy nếu


Nhà nước tăng mức động viên thuế quá cao chỉ nhằm mục đích đơn
thuần tăng thu ngân sách để đáp ứng yêu cầu chi tiêu của Nhà nước mà
bỏ qua yêu cầu bảo đảm sự tăng trưởng về kinh tế thì thường là gặp thất
bại, dễ dẫn đến hậu quả xấu về nhiều mặt.
Tính chất thứ hai là tính cưỡng chế của thuế. Nó trở thành một phạm trù
độc đáo và có nét riêng. Tính cưỡng chế được thể hiện thông qua các
điều khoản pháp luật. Thuế không thể xây dựng trên và dung hòa với tư
tưởng tự nguyện; khoản thuế thu được không thể trông chờ vào thiện chí
hay nhiệt tình của dân chúng đối với Nhà nước. Thuế thể hiện ý chí toàn
dân chứ không riêng ai cả.
Đặc tính thứ ba của thuế là không có đối giá trực tiếp. Nộp thuế
cho Nhà nước không giống chi tiền mua một sản phẩm hay dịch vụ nào
đó để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng riêng tư. Nộp thuế là một nghĩa vụ
không thể thoái thác và khối lượng các lợi ích mà người nộp thuế nhận
được từ Nhà nước không liên quan gì đến khối lượng thuế đã chi trả, thì
việc trả tiền để nhận được một món hàng hoàn toàn mang tính chất tự
nguyện và thường có sự tương xứng về mặt giá trị. Sự khác biệt giữa
thuế và giá cả của hàng hóa - theo Ricahrd Goode và Luc de Wulf, hai
chuyên gia của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) - thì “Những khác biệt của
thuế và giá rất quan trọng và chúng khác biệt đến độ thuế thường được
xem như là nặng nề hơn là giá cho dù người nộp thuế có tán thành các
chi tiêu của Nhà nước, anh ta có thể không nhận thức được mối quan hệ
trực tiếp nào giữa số lượng thuế đã nộp và lợi ích cá nhân nhận được từ
các hoạt động chung của Nhà nước. Mặt khác, các người tiêu dùng tuy
có phàn nàn về giá cả tăng cao nhưng lại nhận thức được một cái gì đó
mình mong muốn. Nhưng cũng cần lưu ý là mặc dù không đối giá trực
tiếp nhưng mọi khoản thuế dân chúng đã nộp sẽ quay lại với họ bằng
nhiều con đường khác nhau thông qua chi tiêu từ ngân sách Nhà nước.
Đặc tính thứ tư của thuế là dùng vào chi tiêu công cộng. Đặc tính
này giảm nhẹ ý niệm cưỡng bách của thuế. Ngày nay, quyền lực công

cộng đã thuộc về toàn thể dân chúng, bộ máy Nhà nước do dân chúng
điều khiển, còn Nhà nước dân chủ theo nghĩa nào và ở mức độ nào, thì ở
đây không bàn đến, nên việc nộp thuế và sử dụng tiền thu từ thuế cũng
do dân chúng quyết định. Ngoài một phần cung cấp cho quản lý hành
chánh, đại bộ phận thuế thu được chuyển giao lại cho người dân khi Nhà
nước chi ngân sách cho văn hóa, thông tin, thể dục thể thao, giáo dục, y
tế, bảo trợ xã hội, cho các chương trình nghiên cứu khoa học, chống ô
nhiễm môi truờng, chống tệ nạn xã hội.
Đặc tính thứ năm của thuế là vĩnh viễn. Nộp thuế cho Nhà nước không
giống cho Nhà nước vay, nên không thể đòi lợi tức và vốn đáo hạn.
Chúng ta biết rằng thuế dùng tài trợ công chi, mà phần lớn công chi là
những khoản cấp phát, cho không. Trên ý nghĩa đó, đóng thuế cho chính
phủ là san sẻ một phần gánh nặng công chi.
Xét về bản chất, thuế là một hình thức tái phân phối thu nhập xã
hội do các doanh nghiệp và dân chúng sáng tạo, hình thành nên ngân
sách nhà nước, nhằm tài trợ các nhu cầu chi tiêu công cộng. Xét về hiện
tượng, thuế là quá trình chuyển dịch một chiều thu nhập xã hội từ khu
vực tư vào khu vực công cộng. Như vậy nộp thuế thực chất là quá trình
chuyển dịch chi tiêu tư thành chi tiêu vì lợi ích chung.
Khu vực tư bao gồm những hoạt động của các pháp nhân và thể
nhân không thuộc quyền sở hữu của chính phủ. Hoạt động của khu vực
này trước hết vì lợi ích của chính nó và dựa trên cơ chế thị trường. Khu
vực tư hoàn toàn không thể cung cấp hoặc cung cấp kém hiệu quả những
mặt hàng có tính không loại trừ hoặc không cạnh tranh trong tiêu dùng.
Đấy là thất bại của hệ thống thị trường tư.
Khu vực công bao gồm những hoạt động của các cơ quan chính phủ,
chính quyền địa phương, các đoàn thể xã hội và các doanh nghiệp nhà
nước. Hoạt động của khu vực công nhằm tạo ra các hàng hóa dịch vụ
công cộng và được ví như nỗ lực của chính quyền các cấp trong việc sửa
chữa những thất bại của thị trường, tức là trang bị cho dân chúng những

điều kiện tối thiểu khi bước vào đời sống kinh tế-xã hội mà hệ thống thị
trường tư không làm được.
Tái phân phối thu nhập xảy ra khi một tư nhân đóng một khoản
tiền thuế cho nhà nước và nhận lại không tương xứng “lợi ích” từ công
chi. Nếu tư nhân đó nhận được “lợi ích” từ công chi tương xứng số tiền
thuế anh ta đã nộp thì không có sự tái phân phối. Tái phân phối thu nhập
xã hội gồm: tái phân phối theo chiều dọc và tái phân phối theo chiều
ngang. Tái phân phối theo chiều dọc nhằm san sẻ thu nhập của các
doanh nghiệp và cá nhân giàu; tái phân phối ngang nhằm điều hòa thu
nhập giữa các doanh nghiệp và cá nhân thuộc các ngành, lĩnh vực hoặc
các giới khác nhau. Trên thực tế, những khác biệt giữa hai loại tái phân
phối nói trên rất mờ nhạt.
Tóm lại, đánh thuế là một đặc quyền chỉ thuộc về Nhà nước và thể
hiện sức mạnh của Nhà nước trong đời sống xã hội. Nhà nước dùng thuế
tái phân phối thu nhập xã hội và điều chỉnh kinh tế vĩ mô. Trong xã hội
dân chủ, mặc dù không nhận đối giá trực tiếp từ số tiền thuế nhưng dân
chúng cũng nhận được một cách gián tiếp thông qua lợi ích từ công chi.
Ở đây có điểm đáng nói, hành vi nộp thuế của người dân mang tính cụ
thể, cá nhân và trực tiếp, còn sự thụ hưởng lợi ích từ chi tiêu của chính
phủ mang tính trừu tượng công cộng và gián tiếp. Do đó, ngoài việc
hành thu thuế thật tế nhị mà minh bạch, chính phủ cần phải công bố rõ
ràng chương trình hành động của mình và tăng cường giáo dục ý thức
công dân về nghĩa vụ nộp thuế ngay từ bậc tiểu học. Như vậy, dân chúng
mới ý thức được sự cần thiết của thuế, mới xem nộp thuế là một việc
làm tự nhiên và cần thiết cho cuộc sống cộng đồng.
1.3 . Các hình thức thuế (phân loại thuế):
Thuế ra đời cùng với sự ra đời của Nhà nước. Thời kỳ đầu khi
hàng hóa chưa phát triển, thuế thường được thu bằng hiện vật. Chế độ
thu bằng hiện vật có mặt giản tiện cho người nộp thuế, làm ra thứ gì nộp
thứ ấy; và Nhà nước sử dụng ngay số thuế bằng hiện vật ấy để chi dùng

vào những nhu cầu cần thiết, thích hợp. Nhưng thu thuế bằng hiện vật có
mặt bất lợi cho việc thu nộp, bảo quản, không linh hoạt trong cả việc thu
thuế và sử dụng số thuế thu được.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
xã hội, kinh tế hàng hóa - tiền tệ ra đời và phát triển, thuế được thu bằng
tiền là chủ yếu. Thuế thu bằng tiền, các quan hệ về thuế dưới hình thức
giá trị được hình thành và ngày càng phát triển có tính hệ thống, các thứ
thuế khác nhau lần lượt ra đời làm cho thuế ngày càng đa dạng, phong
phú linh hoạt.
Sự phát triển của các hình thức thuế trong lịch sử có thể giải thích
phần lớn bởi lý do quản lý. Do đánh thuế vào hàng nhập khẩu dễ dàng
hơn là hàng hóa trong nội địa nên thuế nhập khẩu là một trong những
loại thuế xuất hiện sớm nhất. Tương tự thuế doanh thu là một loại thuế
đơn giản đánh trên tổng giá trị hàng hóa ra đời rất lâu trước thuế GTGT.
Thuế đánh vào đầu người và thuế đánh vào bất động sản cũng tương đối
dễ dàng thực thi nên đây là hai loại thuế trực thu đầu tiên được sử dụng.
Phân theo góc độ người nộp thuế thì có thể chia làm hai loại. Thuế
trực thu và thuế gián thu. Bản chất kinh tế của thuế trực thu là người nộp
thuế đồng thời là người chịu thuế. Căn cứ mức thuế qui định trong luật
thuế, người nộp thuế tự tính và trích một phần thu nhập của mình trực
tiếp nộp cho Nhà nước, tức là thuế thu trực tiếp vào thu nhập của người
nộp thuế. Ưu điểm của thuế trực thu là động viên trực tiếp vào thu nhập
của từng tổ chức, cá nhân có thu nhập cho nên đảm bảo được tính công
bằng xã hội: người có thu nhập cao thì phải nộp thuế nhiều, người có thu
nhập vừa thì phải nộp ít hơn, người không có thu nhập thì không phải
nộp thuế. Thuế trực thu còn cho phép tính đến những yếu tố có tính độc
lập với thu nhập của người nộp thuế như: hoàn cảnh bản thân; tình trạng
hôn nhân; hoàn cảnh gia đình . . . Nhưng thuế trực thu cũng có những
mặt bất lợi là: việc tính toán phức tạp hơn, dễ dẫn đến tình trạng tính
toán đúng thì nộp thuế đúng, tính toán không đúng thì nộp thuế không

đúng và thường là phải xác định rõ thu nhập thì mới thu được thuế cho
nên thường rất chậm. Nhiều trường hợp phải đến kỳ quyết toán mới thu
được đủ thuế, có trường hợp thu thiếu thì phải nộp thêm, thu thừa thì
phải thoái trả. Một trở ngại khác là thuế thu trực diện vào thu nhập của
tổ chức, cá nhân nên về tâm lý là dễ bị phản ứng. Mặt khác nếu chỉ thu
thuế trực thu thì diện quản lý thu thuế sẽ rất rộng. Tốn nhiều công sức
mà hiệu quả thấp. Chính vì vậy, để động viên vào tất cả mọi người trong
xã hội, người ta sử dụng thuế gián thu cùng với thuế trực thu hợp thành
hệ thống thuế thống nhất, trong đó các loại thuế vừa thực hiện nhiệm vụ
chính của mình, vừa hỗ trợ nhau để phát huy tác dụng đồng bộ của cả hệ
thống thuế.
Thuế gián thu thường là thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế
tiêu dùng, thuế nhập khẩu… Bản chất kinh tế của thuế gián thu là người
nộp thuế có thể chuyển dịch số thuế phải nộp sang cho người mua hàng
hóa, dịch vụ chịu thuế bằng cách cộng gộp số thuế đó vào giá bán hàng
hóa, dịch vụ. Do đó người nộp thuế không phải là người chịu thuế mà
người chịu thuế chính là người tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ. Thuế gián
thu bảo đảm được sự lựa chọn của người chịu thuế đối với các loại hàng
hóa, dịch vụ mà họ quyết định mua; bảo đảm được tính tự nguyện chịu
thuế. Người sản xuất kinh doanh khi bán sản phẩm hàng hóa, dịch vụ sẽ
thu thuế gián thu cùng với giá bán hàng và nộp khoản thuế này vào ngân
sách Nhà nước . Gọi là thuế gián thu vì Nhà nước thu thuế vào người
tiêu dùng nhưng lại không thu trực tiếp vào thu nhập của người tiêu
dùng mà lại thu gián tiếp qua người bán hàng hóa, dịch vụ. Trên ý nghĩa
đó, người sản xuất kinh doanh thu thuế gián thu khi bán háng hóa, dịch
vụ nếu không nộp đầy đủ số thuế đã thu vào ngân sách Nhà nước thì có
thể coi là hành động tham ô, chiếm đoạt công quỹ.
Có thể nói thuế gián thu là loại thuế do toàn dân đóng góp; nghiệp
vụ tính thuế và thu thuế đơn giản, thu kịp thời hơn thuế trực thu; thuế
gián thu nằm kín trong giá cả cho nên dễ thu hơn; người chịu thuế khó

nhận biết là mình phải nộp thuế nên ít phản ứng hơn. Thuế gián thu
mang lại nguồn thu thường xuyên và tương đối ổn định cho ngân sách
Nhà nước vì bất luận trong hoàn cảnh nào thì sự tiêu dùng của con người
và xã hội cũng luôn diễn ra và có xu hướng ngày càng phát triển. Đối
tượng quản lý thuế gián thu cũng hẹp hơn so với thuế trực thu, chỉ cần
quản lý vào số doanh nghiệp kinh doanh sản xuất hàng hóa, dịch vụ là
có thể thu được thuế của tất cả những người tiêu dùng hàng hóa dịch vụ
trong xã hội. Đối với những nước có nền kinh tế chưa phá triển, thu
nhập còn thấp thì thuế gián thu thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số
thu của ngân sách Nhà nước. Mặt nhược điểm của thuế gián thu chính là
tính lũy thoái của nó. Vì thuế gián thu đánh như nhau trên cùng một loại
sản phẩm hàng hóa và số lượng như nhau thì chịu thuế như nhau, nhưng
thực chất tỷ lệ động viên thuế gián thu so với thu nhập thì người giàu
chịu thuế thấp hơn người nghèo; người có thu nhập càng cao thì tỷ lệ
nộp thuế gián thu trên thu nhập càng thấp.
Nếu phân loại theo tính chất lũy tiến và lũy thoái thì có thể phân
thành thuế lũy tiến, thuế theo tỷ lệ và thuế lũy thoái.
Bảng : Các loại thuế được áp dụng phổ biến ở các nước có nền kinh tế
thị trường phát triển.
Thuế trực
thu
Thuế đánh trên tài sản
· Thuế đất · Thuế nhà · Thuế
doanh nghiệp
· Thuế đánh trên chứng khóan

Thuế thu nhập thể
nhân và pháp nhân
· Thuế TNCN · Thuế lợi tức
công ty

· Thuế lợi tức siêu ngạch
· Thuế lợi tức do nghề khai thác
mỏ
· Thuế đánh vào sự gia tăng
vốn
· Thuế đánh vào lợi tức có được
từ vốn tiền tệ
· Thuế di sản và tặng vật · Thuế
tài sản cá nhân
Thuế gián
thu

· Thuế Tiêu Dùng Cá Nhân
(Thuế TTĐB)
- Thuế Bia - Thuế đường -
Thuế xăng
· Thuế tiêu dùng tổng hợp
- Thuế đánh một lần (tổng gộp)

- Thuế đánhnhiều lần (nhiều
giai đoạn)
· Thuế GTGT · Thuế muối
· Thuế thuốc lá · Thuế diêm . . .

Thuế độc quyền tài chính
Thuế quan
· Theo nguồn gốc - Thuế xuất
khẩu
- Thuế nhập khẩu - Thuế quá
cảnh

· Theo mục đích
- Thuế để phục vụ cho huy
động vốn NSNN
- Thuế bảo hộ mậu dịch
- Thuế siêu bảo hộ mậu dịch
- Thuế chống bán phá giá -
Thuế ưu đãi
· Theo thuế suất - Thuế quan
chuyên biệt
- Thuế quan tính trên giá - Thuế
quan hỗn hợp
Bảo hiểm
xã hội
- Khoản nộp của người làm thuê
- Khoản nộp của người sử dụng lao động.

Thuế lũy tiến là loại thuế theo đó tỷ lệ đóng thuế tăng lên theo thu
nhập. Ở nhiều nước công nghiệp phát triển, đặc biệt là ở Mỹ, người ta sử
dụng thuế lũy tiến đánh vào thu nhập một cách rộng rãi
Thuế theo tỷ lệ là loại thuế tính bằng một tỷ lệ cố định trên thu
nhập
Thuế lũy thoái là loại thuế đặt gánh nặng thuế lớn hơn lên đầu
những gia đình có thu nhập thấp so với những gia đình có thu nhập cao
Giữa tính lũy thoái hay lũy tiến và việc đánh thuế trực thu hoặc
gián thu có quan hệ rất chặt chẽ, nhưng đôi khi hơi mơ hồ đối với người
nộp thuế.
Cấu trúc thuế của nước Mỹ đặt nặng vào thuế thu nhập là một loại
thuế lũy tiến- để gieo ấn tượng đó là một loại thuế công bằng. Tuy
nhiên, cần chú ý vì từ “lũy tiến” có thể gây nhầm lẫn. Đó là thuật ngữ
liên quan thuế đánh vào những khoản thu nhập khác nhau. Sẽ là sai lầm

nếu cho rằng từ lũy tiến có nghĩa tình cảm, tức là hiện đại hoặc tự do,
hoặc đặc biệt đúng đắn.
Nếu phân loại theo chế độ phân cấp quản lý, điều hành ngân sách
Dựa vào tiêu thức này, thuế thường được phân thành: Thuế nhà
nước và thuế địa phương.
Thuế Nhà nước là loại thuế được huy động bởi chính phủ trung
ương trên cơ sở pháp luật và được tập trung vào ngân sách Nhà nước. Ở
các nước công nghiệp phát triển thì thông thường thuế thu nhập, thuế
TNCT, thuế quan . . . thuộc nhóm này. Ở Việt Nam, thuế nhà nước có
thể tạm hiểu là các loại thuế được thu 100% vào ngân sách trung ương;
còn thuế địa phương là các loại thuế được thu 100% vào ngân sách địa
phương. Ngoài ra còn có thể điều tiết giữa ngân sách trung ương và ngân
sách địa phuơng; đây là các loại thuế được phân phối giữa các cấp ngân
sách theo những tỷ lệ nhất định nhằm góp phần bảo đảm cân đối một
cách linh hoạt giữa các cấp trong hệ thống NSNN
Thuế địa phương là loại thuế được chính quyền địa phương thu
trên phạm vi lãnh thổ được phân công và được nộp vào ngân sách địa
phương. Thông thường, trong khuôn khổ nhất thể hóa về mặt cơ cấu
thuế ở các nước công nghiệp phát triển, chính quyền địa phương được
ưu tiên thu và tập trung vào ngân sách địa phương thuế tiêu dùng cá
nhân và thuế tài sản.
Phân tích quan hệ tương quan giữa hai loại thuế này, các nhà kinh
tế đều thống nhất rằng tại các nước công nghiệp phát triển tốc độ tăng
của thuế điạ phương vượt đáng kể tốc độ tăng của thuế Nhà nước. Bởi
lẽ, Nhà nước trung ương do phải đương đầu với tình trạng thâm hụt ngân
sách đã trút các chi phí gắn liền với việc điếu tiết kinh tế, đảm bảo xã hội
sang tay chính quyền địa phương.
Nếu phân loại theo phương thức sử dụng có thể phân thành thuế
tổng hợp và thuế chuyên dùng.
Thuế tổng hợp là loại thuế tuy được thu từ nhiều nguồn đơn lẻ

khác nhau nhưng được tập trung vào một quỹ tập trung thống nhất của
Nhà nước và được sử dụng cho các mục đích phát triển kinh tế-xã hội có
tính chất toàn quốc.
Thuế chuyên dùng là loại thuế thu từ một nguồn hoặc một số
nguồn đơn lẻ nhất định nào đó và được tập trung vào một quỹ nhất định.
Quỹ này được sử dụng gắn với những mục đích đã được xác định trước.
Ví dụ điển hình nhất là thuế xăng dầu ở các nước trong liên minh châu
Âu. Chính phủ các nước này đánh thuế rất nặng vào mặt hàng xăng dầu
với các lý do như: khuyến khích việc tiết kiệm sử dụng năng lượng dầu
mỏ, lấy tiền thuế thu đuợc để dùng vào việc bảo vệ môi trường và đầu
tư, nghiên cứu tìm ra các loại nguyên liệu sạch thay thế dầu mỏ. Trên
thực tế, đây là một nguồn thu lớn của ngân sách và các khoản thu được
từ thuế xăng dầu - theo nhiều người - lại được sử dụng vào nhiều mục
đích khác nhau mà nhiều khi không dính dáng gì với các mục tiêu đã đề
ra.
Cách phân loại này đã được hình thành từ trước khi chủ nghĩa tư
bản ra đời. Ngày nay, chính phủ các nước công nghiệp phát triển chủ
yếu là qui định các loại thuế tổng hợp. Tuy nhiên họ vẫn còn duy trì một
vài loại thuế chuyên dùng nhất định để thực hiện một số nhiệm vụ cấp
bách, quan trọng. Một số nước còn đi xa hơn nữa trong việc sử dụng
thuế tiêu dùng, thuế bảo vệ môi trường như là các loại thuế chuyên dùng
để bù đắp chi phí xã hội trong việc đấu trang chống tệ nạn nghiện hút, sử
dụng ma túy, tiêu dùng rượu quá mức nhằm lành mạnh hóa môi trường
xã hội và tự nhiên. . . Ở nước ta, một số lệ phí, ví dụ như phí giao thông
có thể xem là một sắc thuế chuyên dùng.
2. Vai trò của thuế trong nền kinh tế thị trường
2.1 Thuế - công cụ phân phối thu nhập và Ổn định hoá nền kinh tế
Ngoài chức năng phân phối, thuế còn đảm nhiệm việc tái phân
phối thu nhập và ổn định mức cầu. Chức năng này đã có một lịch sử lâu
đời. Việc sử dụng thuế để tái phân phối hoặc làm chức năng ổn định hóa

mới chỉ được biết đến trong một thời gian gần đây.
a) Phân phối
Khi thị trường thực hiện việc phân phối thu nhập thì đòi hỏi của
mỗi hộ gia đình đối với sản lượng đầu ra của nền kinh tế lại phụ thuộc
vào nguồn lực tài chính do con người hoặc không do con người tạo ra và
các mức giá thị truờng cho phép bù đắp được các chi phí. Thu nhập có
được là từ tiền lương, lợi tức cho vay, tiền cho thuê và lợi nhuận. Tổng
thu nhập của mỗi cá nhân, mỗi hộ gia đình hoàn toàn không giống nhau.
Một số hộ gia đình không có lao động và cũng không có nguồn lực tài
chính để từ đó nhận được thu nhập. Những người khuyến tật, già yếu,
bệnh hoạn, thất nghiệp không có bất kỳ tài sản nào được tích lũy lại
cũng sẽ không thu hoạch được nguồn thu nhập nào. Các hộ gia đình
sống phụ thuộc vào các lao động không có kỹ năng sẽ nhận được ít thu
nhập.
Ngược lại, có những người được thừa kế tài sản, vốn được tích lũy
từ thế hệ trước hoặc tài năng thì có thể nhận được thu nhập gấp hàng
chục lần - thậm chí hàng trăm - lần so với những người thuộc tầng lớp
trung lưu. Do đó, thực hiện việc tái phân phối qua công cụ thuế là điều
hợp lý. Ở đây người ta ghi nhận sự đồng tình, nhất trí giữa các giới khác
nhau đối với vấn đề sử dụng thuế với các lý do nói trên, nhưng các nhà
kinh tế và các chính khách lại khó đạt được những điểm chung căn bản
nhất đối với vấn đề xác định phạm vi tái phân phối và mức độ sử dụng
thuế để đạt được mục tiêu này. Ở các nước phương Tây, một bộ phận
mong muốn một sự can thiệp ở mức độ tối thiểu bằng các công cụ thị
trường. Họ cổ vũ cho sự nỗ lực làm giảm đói nghèo tuyệt đối và sử dụng
nguồn thu từ thuế đánh theo tỷ lệ để làm điều đó. Một bộ phận khác lại
ủng hộ cho chủ trương làm giảm độ nghèo đói tương đối lẫn tuyệt đối.
Để đạt được mục tiêu này, theo họ, thì nên sử dụng một hệ thống thuế có
tính chất lũy tiến đánh theo nhiều tỷ lệ khác nhau căn cứ vào tùng bậc
thu nhập không giống nhau và như vậy, người giàu sẽ bị đánh thuế nhiều

hơn người nghèo.
b) Ổn định hóa
Đây là một trong bốn chức năng kinh tế của chính phủ mới được
thừa nhận gần đây, mặc dù còn tồn tại nhiều quan điểm - nhất trí hay
đồng tình - của các giới khác nhau và đã có nhiều tranh cãi gay gắt giữa
những nhà kinh tế và các chính trị gia về phạm vi phân phối và mức độ
sử dụng. Một Nhà nước phúc lợi hiện đại thực hiện bốn chức năng kinh
tế: (i) định ra các khuôn khổ kinh tế - luật pháp, hiến pháp và các qui tắc
của trò chơi kinh tế; (ii) thiết lập chính sách ổn định hóa kinh tế vĩ mô để
san bằng các đỉnh cao và đáy thấp của nạn thất nghiệp và để kiềm chế
lạm phát; (iii) phân bổ nguồn lực cho hàng hóa công cộng bằng cách
đánh thuế, chi tiêu và điều tiết khi có sự thất bại của thị trường; và (iv)
phân phối lại tài nguyên bằng cách chuyển giao phúc lợi xã hội. Nhưng
khi bàn đến vấn đề dùng công cụ thuế để đáp ứng nhu cầu phân phối thì
họ lại cùng nhau nhất trí rằng việc phân phối qua công cụ thuế là một
trách nhiệm phải có của chính phủ. Điều này không hề liên quan đến cái
được gọi là ổn định hóa. Các nhà kinh tế theo trường phái Keynes lập
luận rằng để duy trì nền kinh tế luôn luôn ở trạng thái ổn định thì cần
thiết phải có sự quản lý của nhà nước. Các nhà kinh tế theo trường phái
cổ điển (trọng tiền) xem xét nền kinh tế như một thế ổn định, với các thị
trường vận hành một cách tự do và toàn dụng, như vậy tự bản thân nó đã
ổn định rồi và sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế là không cần
thiết. J.M. Keynes đã đưa ra lý thuyết và chính sách của ông trong
những năm chiến tranh - khi mà nước Anh lâm vào cuộc đại khủng
hoảng với mức độ cao, đồng thời người dân phải tự lực cánh sinh -
không nhận được gì từ chính phủ của họ cả. Quan điểm của ông như
sau: nền kinh tế tư bản chủ nghĩa không tự nó đạt đến mức toàn dụng.
Sự toàn dụng trong quá khứ chỉ là do sự thiếu hụt của mức cầu và qui
luật của J.B Say đưa ra - mức cung tự đẻ ra mức cầu cho chính nó - là
không hề có thật. Cần giành cho chính phủ một vai trò làm gia tăng mức

cầu để từ đó đạt đến mức toàn dụng. Chính phủ phải làm điều đó bằng
cách gia tăng đầu tư để tận dụng hiệu ứng số nhân xảy ra đối với việc
làm và sản lượng”.
Tuy vậy chính sách của trường phái Keynes đầu tiên hàm ý rằng:
không phải lúc nào cũng xảy ra thất nghiệp, bởi lẽ trong chiến tranh thế
giới thứ II, mức cầu và lạm phát gia tăng quá nhanh đã trở thành một
vấn đề lớn. Thuế tăng và các khoản tiết kiệm bắt buộc phát sinh do các
khoản nợ sau chiến tranh đã làm giảm mức cầu của người tiêu dùng và
kìm giữ mức lạm phát ở 5% đến 11% một năm, thấp hơn nhiều so với tỷ
lệ đó trong thế chiến thứ I (lạm phát lúc đó tăng khoảng 20% - 25% mỗi
năm). Những vấn đề này không đi vào quên lãng và năm 1944, một bản
luận trình về chính sách và công ăn việc làm thừa nhận rằng cần phải
dành cho chính phủ nhiệm vụ kiểm soát nền kinh tế nhằm mục đích
tránh được tình trạng thất nghiệp cao trong thời kỳ 1920-1930.
Sau những năm chiến tranh, tình trạng thất nghiệp đã được duy trì ở mức
thấp. Tỷ lệ 3% - ranh giới giữa mức toàn dụng và thất nghiệp - không
phải chờ đến những năm 1960 mới đạt được. Người ta ghi nhận sự tồn
tại của một chu kỳ 5 năm sự trồi sụt kinh tế có thể chấp nhận được. Như
vậy, điều tốt đẹp mà chức năng ổn định hóa mang lại là vai trò chỉnh rõ
tức là vai trò cố gắng đảm bảo một sự điều chỉnh mức cầu trong ngắn
hạn để đạt được những cân đối hết sức tinh tế giữa lạm phát thấp và chỉ
tiêu công ăn việc làm. Các quyết định sửa đổi về thuế tỏ ra xứng hợp với
mục tiêu trên hơn so với các quyết định trung ương điều chỉnh về chi
tiêu công.
Như vậy, mặc dù Keynes đã từng phác họa ra việc sử dụng đầu tư
để thay đổi mức cầu, nhưng trên thực tế, các chính phủ lại có xu hướng
dựa vào công cụ thuế. Trong những năm được gọi là thời kỳ của chủ
nghĩa trọng tiền, tức là trước năm 1979, đã có nhiều công trình nghiên
cứu thiên về chủ đề đánh giá hiệu năng của chính sách thuế. Có một sự
thống nhất cao đạt được giữa các tác giả, đó là: không có sự hiệu quả và

sự mất ổn định thường ở mức tệ hại. Điều này được tóm tắt qua câu:
“quá nhiều, quá trễ”. Những kết luận này do những người theo trường
phái Keynes - những người theo đuổi chủ trương cải tiến sự vận hành
của các chính sách - rút ra.
Những người phê phán theo trường phái trọng tiền đã nêu ra nhiều
luận điểm có tính chất phản bác. Họ xem xét nền kinh tế như một thể ổn
định và lập luận: nếu thị trường được phép vận hành một cách tự do thì
mức cung bằng với mức cầu trên thị trường lao động cũng như trên thị
trường hàng hóa. Họ cho rằng không cần thiết phải điều chỉnh mức cầu,
bởi vì điều này là không hợp lý và tốt hơn hết là chính phủ chỉ nên thực
hiện chức năng đặt ra các luật lệ hơn là trực tiếp can thiệp vào thị
trường. Ở Anh, chính phủ của Đảng Bảo thủ đã theo quan điểm này
ngay từ năm họ bắt đầu cầm quyền thay thế cho chính phủ Công Đảng;
còn ở Mỹ, ngược lại, dưới thời của tổng thống Reagan, chính phủ đã
thực hiện hai cuộc thí nghiệm thuyết trọng cung từ năm 1979 đến năm
1981 với nội dung cốt lõi là cắt giảm thuế để tác động vào sản lượng
tiềm năng và từ đó giải quyết các gánh nặng về công ăn việc làm và sức
ép của lạm phát. Với biện pháp chủ yếu là cắt giảm 25% đối với tất cả
các khoản TNCN, được thực hiện làm ba giai đoạn và kết thúc vào tháng
7/1983, hậu quả xảy ra là làm giảm sút thu nhập liên bang và thâm hụt
ngân sách to lớn vào giữa những năm 1980. Một phần của tình trạng này
do bởi những biện pháp được thi hành dựa vào việc phân tích thực trạng
của nước Mỹ theo quan điểm của đường cong Laffer một cách thiếu căn
cứ. Theo các tiêu chuẩn khoa học cổ điển, cuộc thí nghiệm năm 1981
gợi ý rằng các lý thuyết trọng cung phải bị bác bỏ.
Tóm lại, từ những phân tích trên, có thể rút ra rằng, thuế là phạm trù tài
chính và được sử dụng để tạo ra các nguồn tài lực thực hiện các chức
năng của nhà nước đương quyền, đồng thời nó cũng là công cụ điều tiết
kinh tế vĩ mô hiệu lực của nhà nước. Bằng vai trò to lớn đó, thuế không
ngừng được hoàn thiện và thích ứng với những chu kỳ của quá trình phát

triển.

2.2 Thuế - công cụ khắc phục khiếm khuyết của thị trường
Qua phân tích từ đầu, có thể thấy rằng việc phân bổ các nguồn lực
tài chính để thỏa mãn các nhu cầu vể hàng hóa và dịch vụ công cộng là
mục tiêu hàng đầu của thuế. về mặt lý thuyết, thị trường là nơi hoàn hảo
để người dân có thể thỏa mãn các nhu cầu trực tiếp của mình nhằm đạt
đến mức độ tối ưu hóa các phúc lợi nhận được. Nhưng kinh tế học hiện
đại và thực tiễn chỉ ra rằng đôi khi thị trường phải chịu thất bại, như
trường hợp mt số hàng hóa, dịch vụ công cộng: người dân có nhu cầu
nhưng thị trường không thể cung ứng nổi hoặc chỉ được cung ứng dưới
mức cầu. Đây là lúc mà cần phải có vai trò của thuế và các chi tiêu công
cộng để sửa chữa sự “bất lực” về phân phối của thị trường.
a) Hàng hóa công cộng
Thị trường hoàn toàn chịu thất bại trong việc cung cấp các hàng
hóa công cộng. Điều này xảy ra bởi vì các loại hàng hóa này có tính chất
đặc biệt. Một hàng hóa hay dịch vụ mà được coi là công cộng nếu một
hoặc cả hai tính chất sau đây được thỏa mãn:
Sự phát sinh thêm một người tiêu dùng loại hàng hóa (hay dịch vụ) này
hoàn toàn không làm tăng thêm chi phí. Ví dụ: có thêm một người đi bộ
trên một con đường được chiếu sáng vào ban đê không làm tăng thêm
chi phí thắp sáng đường sá; hoặc thêm một chiếc ô tô đi qua cầu vào lúc
vắng xe cũng không làm phát sinh thêm chi phí. Để đạt được mức phúc
lợi tối đa qua việc thụ hưởng các hành hóa nêu trên, và các loại hàng hóa
tương tự, người dân cần được cung cấp chúng với giá bằng 0. Không
một nàh tư nhân nào sẵn sàng làm việc này và chỉ có Chính phủ mới
phải đảm trách việc sản xuất và cung ứng chúng (tất nhien là qua trung
gian của nhà thầu) miễn phí. Ở đây, việc đánh thuế sẽ đóng vai trò cung
cấp các nguồn lực tài chính.
Sự tồn tại của những ke ăn không. Điều đó có nghĩa rằng sự cung

cấp của thị trường đối với hàng hóa công cộng là không thể xảy ra được.
Một kẻ “ăn không” là một người được tiêu dùng hàng hóa phải tốn kém
mới sản xuất ra được mà không phải trả tiền cho hàng hóa đó. Vấn đề kẻ
ăn không đặc biệt được áp dụng cho hàng hóa công cộng vì tính chất
không thể phân chia của chúng. Ví dụ như vấn đề quốc phòng, giả sử có
một thị trường được thiết lập dành cho quốc phòng. Thậm chí mỗi người
đều cảm thấy rằng chúng ta cần quốc phòng, thì ngược lại, không một ai
có động cơ để mua phần đóng góp của mình vào quốc phòng cả. Vì
lượng quốc phòng mà tôi có cùng bằng bất kỳ lượng của ai khác, cho
nên tôi có động cơ rất mạnh là đợi cho bất kỳ ai khác mua hàng hóa đó
chứ không dại gì đóng góp phần công bằng của mình. Tôi sẽ được ăn
không tất cả những thứ do bất kỳ ai khác mua. Nhưng tất nhiên, nếu ai
cũng được tất cả những người khác mua quốc phòng, thì sẽ không có
hàng hóa quốc phòng nữa.
Ngoài các ví dụ nêu trên, hàng hóa công cộng còn bao gồm các
luật lệ và quy tắc, việc làm sạch đường, phòng chống lũ lụt . . .
Để sửa chữa thất bại của thị trường trong việc cung cấp hàng hóa
công cộng, chính phủ buộc phải đánh thuế vào người dân, làm mọi
người được hưởng hàng hóa công cộng.
Xét về một khía cạnh đơn giản hơn, hàng hóa công cộng khác vơi hàng
hóa tư nhân ở đặc điểm sau đây: “Hàng hóa công cộng là một loại hàng
mà thậm chí có một người dùng tới rồi, thì những người khác vẫn dùng
được”. Trong khi đó hàng hóa tư nhân (hoặc cá nhân) là một loại hàng
mà nếu được một người tiêu dùng rồi thì ngườikhác không thể dùng
được nữa.
Hàng hóa công cộng - dù là các hàng hóa đã được trình bày ở trên,
hay là lúc bạn nghĩ về người sĩ quan cảnh sát đi tuần, một loại vắc xin
chống bệnh đậu mùa … hoặc bất cứ một hoạt động nào của chính phủ -
có yếu tố chung sau đây: “Lợi ích của một hàng hóa công cộng không
giống như của một hàng hóa thuần túy tư nhân do bởi việc một cá nhân

tiêu dùng hàng hóa công cộng sẽ tạo ra những tác động tiêu dùng bên
ngoài không phân chia được đối với nhiều người chứ không phải chỉ một
cá nhân đó. Ngược lại, nếu một mặt hàng có thể chia nhỏ được có thể
bán riêng từng phần với giá cạnh tranh cho một cá nhân mà không có tác
động bên ngoài đối với người khác thì đó là một mặt hàng tư nhân. Hàng
hóa công cộng đòi hỏi phải có hành động tập thể trog khi hàng hóa tư
nhân có thể do thị trường cung cấp”.
b) Hàng hóa hỗn hợp
Có nhiều hàng hóa tuy do chính phủ cung cấp nhưng không được
xếp vào nhóm hàng hóa công cộng, ví dụ như giáo dục, chăm sóc sức
khỏe và thu dọn rác… dù chúng cung cấp được lợi ích mang tính chất
độc quyền; bởi lẽ những người tiêu dùng thêm vào sẽ làm tăng chi phí
và sự độc quyền lúc nào cũng có thể thực hiện được (dịc vụ này có thể bị
những kẻ ăn không chối từ). Tuy nhiên chúng lại được cung cấp bởi khu
vực công và do đó chúng đòi hỏi phải có thuế tài trợ. Có hai cách giải
thích về điều này: thứ nhất, đó là những trục trặc trong việc phân phối
của thị trường và thứ hai, là các lý do liên quan đến viẹc tiêu dùng các
mặt hàng khuyến dụng. Những hàng hóa này được gọi là hàng hóa hỗn
hợp. Đó là các hàng hóa tạo ra lợi ích bên ngoài cũng như lợi ích của cá
nhân nhưng nếu được cung cấp bởi thị trường thì mưc cung sẽ nằm dưới
mức cầu. Thị trường của hàng hóa hỗn hợp không phải chịu thất bại
hoàn toàn như đối với hàng hóa công cộng, bởi vì sự độc quyền là hoàn
toàn có thể xảy ra và những sự ưu đãi được coi là có thể bộc lộ ra được;
nhưng bên cạnh đó thị trường lại không cung cấp được chất lượng tối ưu
do việc cung cấp chỉ có tính chất tư nhân và điều này đồng nghĩa với
việc cung cấp dưới mức nhu cầu.
Được coi là hàng hóa hỗn họp là những hàng hóa có sự pha trộn
giữa các đặc điểm của hàng hóa tư nhân (lợi ích nội tại có tính chất cạnh
tranh) và các đặc điểm của hàng hóa công cộng (lợi ích bên ngoài có
tính chất đọc quyền). Chúng bao gồm giáo dục, y tế, vận chuyển công

cộng, thu gom rác và các dịch vụ phòng cháy chữa cháy… Giáo dục
cung cấp một lực lượng lao động có học thức, có khả năng tạo các sản
lượng đầu ra và lợi tức lớn hơn cho toàn thể cộng đồng. Y tế bảo vệ toàn
thể cộng đồng bằng cách chữa chạy cho những người mắc bệnh và bảo
tồn lực lượng lao động cho đất nước. Vận chuyển công cộng làmgiảm sự
tắc nghẽn giao thông và ô nhiễm môi trường, và do đó, nó tạo ra lợi ích
cho cả người sử dụng đường sá và tất cả cộng đồng.
Chính phủ có thể sửa chữa tình trạng cung cấp dưới mức nhu cầu
đối với hàng hóa hỗn hợp bằng cách tự cung cấp hàng hóa và dịch vụ
hoặc thông qua việc trợ cấp để làm giảm giá và tăng sản lượng đầu ra.
Vai trò của thuế là cung cấp các nguồn lực tài chính để tài trợ cho việc
cung cấp có tính chất công cộng hoặc tài trợ thông qua các khoản trợ
cấp. Trợ cấp, do đó, tự bản thân nó có thể được xem như là một khoản
thuế âm.
c). Các lợi ích và chi phí ngoại ứng
Một ngoại ứng (ngoại tác) tồn tại khi việc sản xuất hoặc tiêu dùng
một mặt hàng trực tiếp ảnh hưởng đến các doah nghiệp và người tiêu
dùng không can dự vào việc mua bán hàng hóa đó, những ngoại ứng này
thường không được phản ánh đầy đủ theo giá thị trường. Ví dụ như vấn
đề ô nhiễm. Một hãng sản xuất hóa chất và tống chất thải xuống sông.
Chất thải gây ô nhiễm nguồn nước địa phương, giết hại cá và chim chóc
và tạo ra mùi hôi thối khó chịu. Các ảnh hưởng phụ bất lợi này thể hiện
các chi phí đối với xã hội để sản xuất ra hóa chất đó, chúng vẫn phải
được thể hiện một cách thích ứng trong giá cả thị trường của loại hóa
chất này nhưng thực tế lại không như vậy. Giá thị trường của sản lượng
do công ty hóa chất làm ra sẽ không phản ánh đầy đủ chi phí sản xuất
thực sự đối với xã hội, trừ phi công ty hóa chất này buộc phải thanh toán
tiền cho những thiệt hại do sự ô nhiễm của nhà máy gây ra. Trong
trường hợp này, có một ngoại ứng trong việc sản xuất hóa chất.
Ngoại ứng có thể có lợi hoặc không có lợi cũng có thể gây hại.

Vấn đề này có liên quan đến các lợi ích từ bên ngoài của một hàng hóa
với sự gia tăng phúc lợi của người dân không phải là người tiêu dùng
trực tiếp hàng hóa này. Ví dụ như nếu phần lớn dân số của một quốc gia
được tiêm chủng ho gà thì thậm chí nếu không được chữa bệnh, họ cũng
được bảo vệ về mặt sức khỏe bởi vì họ ít tiếp xúc với loại bệnh này và
như thế họ đã nhận được các lợi ích từ bên ngoài. Một người chủ quét
vôi lại căn nhà của ông ta thì những người láng giềng sẽ nhận được lợi

×