SỬ DỤNG MÁY CELL SAVER TRONG PHẪU THUẬT
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định lượng máu thu hồi, chế phẩm máu dùng thêm và
xem xét chỉ định sử dụng máy Cell Saver 5
+
, đồng thời xem xét biến chứng xảy ra.
Phương pháp nghiên cứu: Thu thập số liệu tiền cứu của những bệnh nhân phẫu
thuật có sử dụng hệ thống máy Cell Saver 5
+
.
Kết quả: Từ tháng 01 năm 2008 đến tháng 10 năm 2008, nghiên cứu có 26 bệnh
nhân. Tỉ lệ nam/nữ là 14/12 với các bệnh lý thường gặp là: thai ngoài tử cung vỡ
(30,7%), vỡ lách (26,9%), vết thương ngực (19,2%), vỡ mạc treo ruột non
(11,5%), vỡ gan (7,7%), vỡ thận (3,8%). Mỗi bệnh nhân, lượng máu thu hồi trung
bình: 1526,4 ± 515,6ml, và lượng máu hồi truyền lại cho bệnh nhân trung bình:
885,5 ± 300,4 ml so với tổng số máu mất là: 1970 ± 572.4 ml. Lượng máu hồi
truyền cho bệnh nhân đạt 58% lượng máu thu hồi và 45% tổng lượng máu mất.
Qua đó, chế phẩm máu dùng thêm có giảm đáng kể, chỉ 38,5% trường hợp (10 ca)
phải sử dụng thêm chế phẩm máu, trong đó hồng cầu lắng và huyết tương đông
lạnh được sử dụng nhiều nhất (35,2%), kế đến là máu toàn phần (18%), tiểu cầu và
kết tủa lạnh sử dụng cho 01 trường hợp chiếm 5,8%. Sau truyền máu hoàn hồi, hầu
hết các trường hợp có rối loạn đông máu nhẹ, thay đổi chính là tăng INR, trung
bình là 2,38. Có 02 trường hợp tử vong là do lượng máu mất quá nhiều (hơn
5500ml) và chủ yếu mất trước khi nhập viện nên làm hạn chế lượng máu thu hồi
và hồi truyền.
Kết luận: Truyền máu hoàn hồi cho kết quả tốt và tiết kiệm việc truyền máu đồng
loại, tránh được nhiều biến chứng xảy ra khi truyền máu đồng loại.
Từ khóa: Sử dụng máy cell-saver trong phẫu thuật.
ABSTRACT
Background: Cell saver5
+
system, which allows withdrawing blood and
autologous blood transfusion, is the most effective and modern method in surgery.
Objective: Estimating the withdrawn blood volume, blood product transfusion
rates, considering the Cell saver indications and carrying out complications.
Method: Collecting data of surgery patients who were indicated Cell Saver.
Result: 26 patients were enrolled in our study from Jan 2008 to October 2008.
Male/Female ratio was 14/12 with common conditions: ruptured ectopic
pregnancy (30,7%), spleenic rupture (26,9%), chest injury (19,2%), peritoneum
trauma (11,5%), ruptured liver (7,7%), ruptured kidney (3,8%). Mean withdrawn
blood volume was 1526,4 ± 515,6ml, and mean re-infused blood volume was
885,5±300,4ml compared with total loss blood volume 1970±572,4ml. The
amount of re-infused blood archived 58% of withdrawn volume and 45% loss
volume. Therefore, rate of blood product transfusion markedly decreased, only
38,5% (10 cases) had to use blood product, in which packed RBC and FFP were
mainly indicated (35,2%), whole blood (18%), platelet and cryoprecipitate (5,8%).
After autologous blood transfusion, most of cases had mild coagulation disorder,
mainly elevated INR, mean 2,38. There were 2 fatal cases caused by massive
blood loss before hospitalization.
Conclusion: Autologous blood transfusion have good result, reduce allogenic
blood transfusion and avoid blood transfusion complications.
Key words: cell-saver, auto tranfusion blood, autologous.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngày nay, trước những nguy cơ của truyền máu đồng nhóm như nhiễm khuẩn, đặt
biệt là nhiễm siêu vi, cùng những biến chứng về miễn dịch, do đó truyền máu đồng
nhóm ngày càng giảm và truyền máu tự thân được thay thế và phát triển nhiều hơn.
Hơn nữa, ngân hàng máu của bệnh viện có những đợt cung cấp máu không đều do
máu thiếu trên toàn thành phố, cùng với giá máu ngày càng cao, và ý thức của bệnh
nhân được nâng lên, không muốn truyền máu của người khác…
Trong những trường hợp mổ cấp cứu khẩn cấp, những chấn thương nặng, mất máu
nhiều như: vỡ lách, vỡ gan… thì nhu cầu truyền máu rất cao và phải nhanh chóng.
Theo phương pháp cũ như hiện nay, chúng ta phải mất hơn 45 phút (tính từ lúc
lấy mẫu xét nghiệm, gửi mẫu làm phản ứng hòa hợp nhanh, đợi kết quả, lấy máu
về ngâm nóng và truyền), thời gian như vậy là quá dài cho những trường hợp
khẩn cấp. Đặt biệt, những quy định mới trong Quy chế truyền máu mới ban hành
của Bộ y tế thì càng không thể rút ngắn khoảng thời gian này xuống ngắn hơn.
Vì thế, trước nhu cầu truyền máu tự thân, tránh những biến chứng nguy hiểm của
truyền máu đồng nhóm, và rút ngắn thời gian bồi hoàn lượng máu mất trong trường
hợp mổ khẩn cấp cần truyền máu, khoa Phẫu Thuật Gây Mê Hồi Sức (PTGMHS)
Bệnh viện Nhân Dân Gia Định bắt đầu áp dụng phương pháp truyền máu hoàn hồi
bằng máy CELL SAVER 5
+
từ tháng 01 năm 2008 đến nay.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát
Khảo sát và đánh giá hiệu quả cũng như tính an toàn của của phương pháp truyền
máu hoàn hồi trong mổ bằng hệ thống Cell-Saver 5
+
được thực hiện tại khoa
PTGMHS Bệnh viện Nhân Dân Gia Định từ tháng 01 năm 2008 đến tháng 10 năm
2008.
Mục tiêu chuyên biệt
Xác định số lượng máu truyền lại cho bệnh nhân sau khi thu hồi bằng hệ thống máy
cell saver 5
+
được thực hiện tại khoa PTGMHS Bệnh viện Nhân Dân Gia Định từ
tháng 01 năm 2008 đến tháng 10 năm 2008.
Xác định số lượng chế phẩm máu phải sử dụng thêm sau khi sử dụng hệ thống truyền
máu hoàn hồi bằng máy Cell Saver 5
+
được thực hiện tại khoa PTGMHS Bệnh viện
Nhân Dân Gia Định từ tháng 01 năm 2008 đến tháng 10 năm 2008.
Xác định các loại phẫu thuật cần phải hồi truyền máu bằng hệ thống Cell Saver5
+
.
Xác định biến chứng khi thực hiện hồi truyền máu trong mổ bằng hệ thống máy Cell
Saver 5
+
được thực hiện tại khoa PTGMHS Bệnh viện Nhân Dân Gia Định từ tháng
01 năm 2008 đến tháng 10 năm 2008.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả tiền cứu (case series).
Phương pháp nghiên cứu
Tiêu chuẩn nhận bệnh
Tất cả các trường hợp hồi truyền máu trong mổ bằng Cell Saver 5
+
thực hiện tại khoa
PTGMHS Bệnh viện Nhân Dân Gia Định từ tháng 01 năm 2008 đến tháng 10 năm
2008.
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân không đồng ý. Tình trạng xuất huyết nội lâu (lớn hơn 8 giờ). Xuất huyết
nội kèm vấy nhiễm các dị nguyên khác như: nhiễm trùng, nước ối, dịch tiêu hóa…
Phương pháp thu thập số liệu
Các biến số thu thập từ tường trình phẫu thuật của phẫu thuật viên. Các kết quả thu
được ghi nhận từ xét nghiệm thực hiện trước, trong và sau mổ.
Số liệu lượng máu mất thu thập từ bảng số liệu của máy sau mỗi trường hợp sử dụng
máy.
Tất cả các số liệu cần thu thập sẽ được ghi nhận vào một bảng thu thập soạn sẳn, mỗi
trường hợp một phiếu.
Phương pháp xử lý số liệu
Chương trình văn bản Word, Exel.
KẾT QUẢ
Bảng 1: Đặc điểm bệnh nhân:
Giới Độ tuổi
Số
lượng
Tỉ lệ
Trung
bình
Cực
đại
Cực
tiểu
Nam
14 53,8%
N
ữ 12 46,2%
N
26 100%
30 ±
11,5
42 18
Bảng 2: Lượng máu mất, thu hồi và hồi truyền:
Trung
bình (ml)
Cực
tiểu
(ml)
Cực
đại
(ml)
Máu mất 1970 ±
572,4
614 4569
Thu hồi 1526 ±
515,6
514 3869
Hồi
truyền
885,5
±300,4
400 1875
Trường hợp dùng thêm chế phẩm máu sau truyền hoàn hồi:tỷ lệ %
Bảng 3: Loại chế phẩm máu dùng thêm:
Số
ca
Tỷ lệ
%
Số đơn
vị dùng
HCL 6 35,2 24,5
HTĐL 6 35,2 39
MTP 3 18 8
TC 1 5,8 4
KTL 1 5,8 10
Không sử
dụng
16 61,5
Thay đổi nồng độ trung bình Hb:g/dl
Bảng 4: Thay đổi các yếu tố đông máu:
Trước
mổ
Sau
TMHH
Xuất
viện
INR 1,99 2,38
*
1,35
**
TCK 32,9” 36” 31”
Tiểu cầu 240,7 140,8 150,7
*P > 0.01, **P < 0.005
Có sự rối loạn đông máu trước khi nhập viện và hệ thống máy Cell Saver 5+ không
làm tăng thêm, tuy nhiên, khi xuất viện đã ổn định.
Kết quả xuất viện – tử vong
Có hai trường hợp tử vong, chiếm tỷ lệ 7,6%. Nguyên nhân tử vong là cả hai trường
hợp bệnh nhân bị vết thương nặng (thủng tĩnh mạch trên gan, đứt rốn thận) làm máu
mất rất nhiều. Lượng máu mất trước nhập viện lớn hơn 2000ml, lượng máu cục và
thấm trong gạc nhiều, làm lượng máu thu hồi bằng máy thu được không đáng kể.
BÀN LUẬN
Qua nghiên cứu này chúng tôi nhận thấy những điều như sau: Sự khác biệt về giới
tính không nhiều (nữ 46,2%), ở nữ chủ yếu là các phẫu thuật thai ngoài tử cung vỡ
(30,8%), và các tổ thương khác thường ở nam giới nhiều hơn. Trong nghiên cứu này
chúng tôi thực hiện truyền máu hoàn hồi chủ yếu trong các phẫu thuật cấp cứu
(100%) và khoa chúng tôi đang triển khai áp dụng các phẫu thuật chương trình có
nguy cơ chảy máu cao như: phình động mạch chủ, nang gan phải cắt thùy gan, gãy cổ
xương đùi thay khớp háng… Một lý do chúng tôi chưa thực hiện ca nào ở phẫu thuật
chương trình là tần suất những ca mổ có chỉ định sử dụng máy Cell Saver thấp.
Qua đó, chúng tôi nhận thấy các chỉ định sử dụng máy Cell Saver trong các trường
hợp mổ cấp cứu mất máu nhiều trong chấn thương, xuất huyết nội không lây nhiễm
các yếu tố dị nguyên nguy hiểm (vi trùng, nước ối…). Chúng tôi chỉ định nhiều nhất
trong các trường hợp thai ngoài tử cung vỡ (30,7%), kế đến là vỡ lách (26,9%), vết
thương ngực (19,2%).
Máy Cell Saver họat động quay ly tâm để thu hồi lượng hồng cầu trong máu đã và
đang chảy tại phẫu trường của phẫu thuật viên, nên phụ thuộc rất nhiều và khối lượng
máu thu thập được chứ không phụ thuộc vào tổng lượng máu mất của bệnh nhân.
Trung bình tổng lượng máu mất của bệnh nhân là 1970 ± 572,4ml, chúng tôi thu hồi
được 1526,4 ± 515,6ml và qua máy sử lý chung tôi sẽ truyền lại cho bệnh nhân 885,5
± 300,4ml máu có nồng độ Hb cao (17,5mg/dl). Như vậy theo nguyên tắc hồi sức bồi
hoàn lượng máu mất, một phần ba lượng máu mất là máu và hai phần ba là các dịch
khác, chúng tôi đã đạt được, chúng tôi bồi hoàn đến 45% so với yêu cầu 33,3%.
Lượng máu thu hồi cao nhất chúng tôi thực hiện đạt 1875ml và hồi truyền lại cho
bệnh nhân.
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy nồng độ Hb máu sau hồi truyền có cải thiện so với
trước mổ (10,3 so với 8,8mg/dl). Và nồng độ này được duy trì tương đối ổn định cho
đến khi xuất viện (đạt 9,8mg/dl). Tuy nhiên, các yếu tố đông máu của bệnh nhân vẫn
rối lọan sau truyền hoàn hồi (INR sau mổ: 2,38). Nguyên nhân là máy Cell Saver
quay ly tâm chỉ giữ lại hồng cầu nguyên vẹn, loại bỏ các hồng cầu vỡ và huyết tương
nên rối loạn đông máu không được điều chỉnh bởi truyền máu hoàn hồi. Việc thay đổi
này chủ yếu xẩy ra do yếu tố ngoại sinh làm tăng TQ (20,35” sau mổ) và ít ảnh hưởng
TCK (36” sau mổ). Do đó giải thích được lý do chúng tôi sử dụng thêm huyết tương
đông lạnh với số lượng lớn trong nghiên cứu (39 đơn vị). Ngoài ra chúng tôi cũng sử
dụng nhiều chế phẩm máu khác, và hồng cầu lắng là chủ yếu (4,5 đơn vị sử dụng cho
sáu trường hợp, đạt tỷ lệ 35,2%). Nhưng chúng tôi sử dụng thêm chế phẩm máu rất
hạn chế, chỉ 38,5% trường hợp phải dùng thêm. Và 61,5% trường hợp không dùng
thêm chế phẩm máu là yếu tố đáng quan tâm. Đặt biệt, chúng tôi đã hạn chế rất lớn
việc dùng chế phẩm máu cho các trường hợp thai ngoài tử cung vỡ, là phụ nữ trong
độ tuổi sinh sản, tránh nguy cơ truyền máu về sau.
Trong các thời điểm ngân hàng máu khan hiếm trên diện rộng thì máy Cell Saver đặt
biệt hữu ích vì có thể hoàn hồi đủ lượng Hb cần thiết cho cơ thể, hạn chế tối đa nhu
cầu truyền máu, làm giảm áp lực thiếu máu cho bệnh viện nói chung và thành phố nói
riêng. Bên cạnh đó, thời gian chúng tôi có được túi máu để truyền lại cho bệnh nhân
trong những trường hợp sốc mất máu lượng lớn được rút ngắn đáng kể, khoảng 15
phút từ lúc khởi động máy và vừa truyền hoàn hồi máy vừa họat động, so với cách
truyền máu cổ điển cần nhiều thời gian để xét nghiệm, nhân viên tốn thời gian đi lấy
máu… Đồng thời, góp phần tiết kiệm ngân sách nhà nứơc khi không cần trợ cấp tiền
xét nghiệm tốn kém mà vẫn không loại bỏ hết các yếu tố nguy cơ.
Một lợi ích lớn của phương pháp truyền máu hoàn hồi là máu của bệnh nhân truyền
trả lại cho bệnh nhân, không xảy ra các biến chứng truyền máu nguy hiểm. Trong
nghiên cứu của chúng tôi, không có trường hợp nào có biến chứng truyền máu, và hai
trường hợp tử vong là do sốc mất máu quá nhiều (hơn 4500ml), và lượng máu mất
trước khi vào viện lớn (hơn 2000ml), làm chúng tôi thu hồi không đủ lượng máu cần.
Và phần lớn chế phẩm máu sử dụng thêm chúng tôi dùng vào việc hồi sức hai trường
hợp nặng này.
KẾT LUẬN
Truyền máu hoàn hồi cho kết quả tốt, thu hồi 45% máu mất trên một bệnh nhân và
tiết kiệm được việc truyền máu đồng loại, chỉ 38,5% trường hợp phải sử dụng thêm
chế phẩm máu.
Áp dụng hệ thống Cell saver cho tất cả các bệnh lý ngoại khoa và sản khoa có xuất
huyết nội lượng trung bình đến lượng nhiều.
Không ghi nhận biến chứng nào xảy ra trong nghiên cứu.
Trong nghiên cứu chúng tôi đã tiết kiệm được 92,04 đơn vị máu cần truyền cho bệnh
nhân, tương đương 59826000 đồng cho bệnh viện.
Đề xuất: Khoa PTGMHS tiếp tục thực hiện đề tài cho năm tới và triển khai đa dạng
hơn nữa loại phẫu thuật.