Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

ẢNH HƯỞNG TRUYỀN THÔNG GIÁO DỤC - BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÍP II pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (967.17 KB, 21 trang )

ẢNH HƯỞNG TRUYỀN THÔNG GIÁO DỤC - BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO
ĐƯỜNG TÍP II

TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá ảnh hưởng truyền thông giáo dục trên kiến thức, thái
độ thực hành và các chỉ số kiểm soat trên bệnh nhân đái tháo đường típ 2.
Phương pháp: Nghiên cứu tiền cứu mô tả có can thiệp. 161 bệnh nhân đái tháo típ 2
được chọn một cách ngẫu nhiên, hoàn tất câu hỏi phỏng vấn và làm các xét nghiệm
theo mẫu lúc đầu và 6 tháng sau khi được truyền thông giáo dục.
Kết quả: Tổng kết 161 bệnh nhân gồm 110 bệnh nhân nữ và 51 bệnh nhân nam, tuổi
trung bình 57,1 ± 12,8 tuổi. Nghiên cứu cho thấy bệnh nhân có cải thiện tốt về kiến
thức và thái độ thực hành sau truyền thông giáo dục và làm giảm có ý nghĩa thống kê
các thành phần lipid máu, HbA1c (8,4% ± 1,9  7,6% ± 1,5), đường huyết đói
(179,7 ± 72,4 mg/dl to126,5 ± 48mg/dl) đạm niệu (37,9  23,6%), tiểu đạm vi thể
(29,2%  19,9%), huyết áp (128/78 mmHg  116/72 mmHg). Các chỉ số vòng eo,
cân nặng, béo phì và béo phì bụng giảm không có ý nghĩa thống kê.
Kết luận: Nghiên cứu cho thấy chương trình truyền thông giáo dục có cải thiện tốt
trên kiến thức, thái độ thực hành và làm giảm có ý nghĩa thống kê HbA1c, đường
huyết đói, tiểu đạm đại thể, tiểu đạm vi thể, lipid máu, huyết áp …Các chỉ số vòng eo,
cân nặng, béo phì giảm không có ý nghĩa thống kê.
Viết tắt: ĐTĐ: Đái tháo đường, ĐH: đường huyết, HA: huyết áp, VE: vòng eo,
TTGD: truyền thông giáo dục, TTGDSK: truyền thông giáo dục sức khỏe, WHO:
World Health Oganization, NCEP: National Cholesterol Education Program, ADA:
American Diabetes Association, IDC: International Diabetes Center, T3G: Tổ truyền
thông giáo dục, T4G: Trung tâm truyền thông giáo dục.
ABSTRACT
Objective: The aim of this study is to assess the impact of an interactive health
education program on knowledge, behavior and index of control such as fasting blood
glucose, HbA1c, lipidemia, proteinuria and blood pressure of type 2 diabetic patients.
Method: Cross – sectional descriptive intervention study, 161 type 2 diabetic patients
were randomly selected, completed questionnaires and performed laboratories at the


initial visit and 6 months after education.
Result: There were 110 women and 51 men. Mean age were 57.1 ± 12.8. The health
education program study improved on knowledge, behavior and also had a
statistically significant reduction of components of lipidemia, HbA1c (from 8.4% ±
1.9 to 7.6% ± 1.5), fasting blood glucose (179.7 ± 72.4 mg/dl to 126.5 ± 48mg/dl)
proteinuria (from 37.9 to 23.6%), microalbuminuria (from 29.2% to 19.9%), blood
pressure (from 128/78mmHg to 116/72mmHg)However, there weren’t statistically
significant reduction of components of waist circumference, weight, obesity and
central obesity in this study.
Conclusion:The study showed statistically significant increase in mean of
knowledge, behavior, and also had a statistically significant reduction in mean of
HbA1c, fasting blood glucose, lipidemia, macroalbuminuria, microalbuminuria and
blood pressure. No statistically significant reduction in components of circumtances
waist, weight, obesity in this study.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) là một thể bệnh mạn tính, có tỉ lệ tử vong cao do các
biến chứng mạch máu lớn và mạch máu nhỏ. Việc điều trị thường gặp khó khăn và
phức tạp vì ngoài việc dùng thuốc người bệnh cần phải thay đổi lối sống bao gồm
luyện tập thể lực đều đặn và ăn uống tiết chế đúng cách.
Trong công tác khám chữa bệnh hàng ngày các thầy thuốc thường ít chú trọng đến
việc giáo dục bệnh nhân mà thường chú trọng đến việc kê toa và kết quả điều trị sau
mỗi lần tái khám. Do đó trong thực tế lâm sàng chúng tôi ghi nhận phần lớn bệnh
nhân ĐTĐ có những nhận thức, thái độ thực hành không đúng làm ảnh hưởng đến
hiệu quả điều trị như uống thuốc không đều hoặc bỏ trị, ăn đường hấp thu nhanh,
hoặc không chịu vận động vì cho rằng chỉ cần dùng thuốc hạ đường huyết là có thể
kiểm soát được bệnh. Một số thói quen xấu khác như ngâm chân vào nước nóng do tê
buốt bàn chân hoặc khi bàn chân bị nhiễm khuẩn làm gia tăng nguy cơ đoạn chi. Tất
cả các thái độ thực hành và nhận thức không đúng nêu trên đã góp phần làm gia tăng
sự xuất hiện các biến chứng, làm gia tăng chi phí điều trị, tỉ lệ tàn tật và tử vong.
Có nhiều nghiên cứu trong nước về vấn đề quản lý và kiểm soát bệnh ĐTĐ ở các khía

cạnh khác nhau như: “Yếu tố nguy cơ và khả năng nhận biết về điều trị và theo dõi
bệnh ở bệnh nhân ĐTĐ
(Error! Reference source not found.)
”, “Nghiên cứu đánh giá kiến thức,
thái độ thực hành của người bệnh ĐTĐ trước và sau khi giáo dục tự chăm sóc
(Error!
Reference source not found.)
; “Nghiên cứu ảnh hưởng của thói quen ăn uống và chế độ ăn với
bệnh đái tháo đường
(Error! Reference source not found.)
, “Ảnh hưởng của thói quen ăn uống và
tình trạng hoạt động thể lực đến rối loạn chuyển hóa đường
(0)
Trong nước chưa có
nhiều nghiên cứu về vấn đề này.
Chúng tôi thực hiện đề tài này nhằm đánh giá sự thay đổi về các kiến thức và thái độ
thực hành của bệnh nhân ĐTĐ và các chỉ số kiểm soát sau truyền thông giáo dục; qua
đó nhấn mạnh tầm quan trọng của vai trò truyền thông giáo dục trong điều trị bệnh
ĐTĐ giúp người bệnh hiểu rõ mối nguy hiểm của bệnh, sửa đổi nhận thức và hành vi
không đúng, tuân thủ điều trị nhằm làm giảm tỉ lệ tử vong và ngăn ngừa được biến
chứng của bệnh.
Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá sự thay đổi về kiến thức và thái độ thực hành của bệnh nhân ĐTĐ sau khi
được truyền thông giáo dục sức khoẻ.
Đánh giá các chỉ số kiểm soát bệnh ĐTĐ trước và sau khi được giáo dục sức khoẻ.
Sử dụng các phương pháp điều tra xã hội học: phát phiếu câu hỏi điều tra, phỏng vấn
trực tiếp, phân tích, so sánh và tổng hợp.
Tổ chức buổi nói chuyện về giáo dục kiến thức và cách chăm sóc bệnh ĐTĐ với bảng
câu hỏi soạn sẵn, tài liệu phát tay cho người bệnh.
Hẹn tái khám, tiếp tục giáo dục sức khỏe trực tiếp và ghi nhận theo mẫu.

Cách thức tiến hành
Ghi nhận các chỉ số nhân trắc cân nặng, chiều cao, vòng eo, BMI, huyết áp.
Cho bệnh nhân nhịn đói lấy máu làm các xét nghiệm theo mẫu.
Đầu tiên tổ chức giáo dục các kiến thức về bệnh ĐTĐ nhiều lần cho các điều dưỡng
tại khoa nội tiết và cho điều dưỡng toàn bệnh viện. Bao gồm các chuyên đề giáo dục
kiến thức và cách chăm sóc bệnh đái tháo đường, cách chích insulin và bảo quản,
cách sử dụng thuốc hạ đường huyết, chế độ ăn cho bệnh ĐTĐ và luyện tập thể lực có
làm test kiểm tra trước và sau truyền thông giáo dục (TTGD). Sau đó tổ chức buổi nói
chuyện truyền thông giáo dục sức khoẻ (TTGDSK) với cùng chuyên đề trên cho các
bệnh nhân ĐTĐ, mỗi bệnh nhân được huấn luyện tối thiểu 2 lần với sự giúp đỡ của
các bác sĩ và điều dưỡng đã được huấn luyện.
Đánh giá mức độ nhận thức bằng hình thức phỏng vấn và ghi nhận qua bảng điểm mô
tả trước và sau khi tham dự buổi nói chuyện về bệnh đái tháo đường. Đánh giá lại sau
6 tháng.
Đánh giá các thông số theo dõi của bệnh ĐTĐ trước và sau khi tham dự toạ đàm sau
6 tháng như: BMI, vòng eo, huyết áp, đường huyết đói, HbA1c, bilan mỡ, tổng phân
tích nước tiểu, microalbumin niệu, đạm niệu 24 giờ Các xét nghiệm này được thực
hiện tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định.
Microalbumin niệu và đạm niệu 24 giờ chỉ được thực hiện sau khi đã loại nhiễm
khuẩn tiểu qua mẫu tổng phân tích nước tiểu, không có nhiễm ceton acid
(Error! Reference
source not found.)
.
Các chỉ số trong nghiên cứu
Chẩn đoán tăng HA theo tiêu chuẩn JNC VII: lấy trung bình của 3 lần đo.
Chẩn đoán béo phì theo tiêu chuẩn của WHO đối với người châu Á
Chẩn đoán RLCH Lipid theo hướng dẫn của NCEP
(Error! Reference source not found.,Error!
Reference source not found.):
CT:≥ 5,2mmol/L (≥ 200mg/dL); TG: ≥ 2,3mmol/L (≥

200mg/dL); HDL: ≤ 1,2mmol/L (≤ 45mg/dL) đối với nữ và ≤ 1mmol/L (≤ 35mg/dL)
đối với nam; LDL: ≥ 3,4mmol/L (≥ 130mg/dL).
Chẩn đoán tiểu đạm vi thể khi Microalbumin niệu ≥ 20mg/L
(Error! Reference source not found.

(ít nhất 2 mẫu thử, cách nhau 4 – 6 tuần
(Error! Reference source not found.)
trên mẫu nước tiểu
được lấy lúc sáng sớm chưa vận động thể lực
(19).

Chẩn đoán tiểu đạm đại thể khi đạm niệu 24 giờ ≥ 300mg/L
(14)
.
Mục tiêu điều trị
Theo ADA, IDC, NCEP/ ATP III và IDF
[20]

- HA < 130/80mmHg và < 125/75mmHg nếu có tiểu đạm và HbA1c < 7%
(25).

- Cholesterol < 5,17mmol/L (200mg/dL), Triglycerid < 1,7mmol/L (150mg/dL)
- HDL > 0,9mmol/L (35mg/dL) đối với nam, > 1,16mmol/L (45mg/dL) đối với nữ.
- LDL < 2,59mmol/L (130mg/dL)
(Error! Reference source not found.).

- Vòng eo < 80 cm (nữ); < 90 cm (nam)
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Từ tháng 01/2007 đến tháng 01/2008, chúng tôi ghi nhận có 161 bệnh nhân đủ tiêu
chuẩn được chọn vào lô nghiên cứu.

Nữ: 110 bệnh nhân, chiếm: 68,3%, Nam: 51 bệnh nhân, chiếm: 31,7%; tỉ lệ nữ/nam:
2,15
Tuổi trung bình: 57,1 ± 12,8, lớn nhất 86 tuổi, nhỏ nhất 25 tuổi.
Đánh giá thay đổi nhận thức
Bảng 1: Thay đổi nhận thức và thái độ thực hành sau TTGD

Trước
TTGD
Sau
TTGD
p
Uống
thuốc
không đều

59
(36,6%)
23
(14,3%)
0,001

Tự điều
chỉnh
thuốc,
không tái
khám đều
47
(29,2%)
22
(13,7%)

0,001

Bỏ điều
trị
51
(31,7%)
15
(9,3%)
0,001

Ăn uống
đường
hấp thu
nhanh
142
(88,2%)
86
(53,4%)
0,001

Đi chân
trần
121
(75,2%)
42
(26,1%)
0,02
Ngâm
chân nước
nóng

18
(11,2%)
4 (2,5%) 0,008

Hút thuốc
(nam)
42
(82,3%)
28
(51,9%)
0,001

Không
luyện tập
thể lực
134
(83,2%)
95
(59%)
0,001

Không
biết chích
Insulin (n
= 30)
19
(63,4%)
3 (6,7%) 0,001

Tỉ lệ bệnh nhân thay đổi nhận thức và thái độ thực hành tốt có ý nghĩa thống kê

Đánh giá mục tiêu điều trị
Biểu đồ 1: Chỉ số huyết áp, đường huyết đói trung bình trước và sau TTGD.
Bảng 2: Đánh giá mục tiêu điều trị ở bệnh nhân ĐTĐ típ 2 sau TTGD

Trước
TTGD
Sau
TTGD
p
HA
(mmHg)
128/78 ±
17/9
116/72 ±
10/7
0,001

ĐH đói
(mg%)
179,7 ±
72,4
126,5 ± 48 0,001

HbA1c
(%)
8,4 ± 1,9 7,6 ± 1,5 0,001

Ti
ểu đạm
vi thể

47 (29,2%) 32 (19,9%) 0,002


Trước
TTGD
Sau
TTGD
p
Tiểu
đạm đại
thể
14 (8,7%) 6 (3,7%) 0,002

Tiểu
đạm(n)
61 (37,9%) 38 (23,6%) 0,001

Chỉ số huyết áp, ĐH đói, HbA1c, tiểu đạm giảm có ý nghĩa thống kê sau TTGD
Đánh giá mục tiêu điều trị theo ADA
Bảng 3: Đánh giá mục tiêu theo ADA

Trước
TTGD
Sau
TTGD
p
HbA1c (<
7%)
30
(18,6%)

48
(29,8%)
0,001
HA (<
130/80)
39
(24,2%)
97
(60,2%)
0,001
Có 29,8% bệnh nhân đạt HbA1c < 7% và 60,2% đạt HA < 130/80 mmHg
Đánh giá mức độ rối loạn Lipid máu
Bảng 4: Đánh giá mục tiêu hạ lipid máu theo IDC

Trước
TTGD
Sau
TTGD
p
Tăng
CT
43
(26,7%)
15 (13%) 0,001
Tăng
TG
68
(42,2%)
35
(21,2%)

0,002
Tăng
LDL
61
(37,9%)
14 (8,7%) 0,002
Giảm
HDL
105
(65,2%)
94
(58,4%)
0,001
RLLM
142
(82,2%)
118
(73,3%)
0,04
Các thành phần lipid máu đều giảm rõ rệt sau TTGD, sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê.
Béo phì và béo phì bụng
Bảng 5: Đánh giá mục tiêu theo NCEP, ATP III và IDF.

Trước Sau TTGD
TTGD
Vòng eo TB 88,2 ± 8,7 87,2 ± 8,2
Cân nặng
TB
58,4

(11,4%)
57,8
(10,9%)
Béo phì
bụng
100 (62,1%) 98 (60,9%)
Béo phì 51 (31,7%) 48 (29,8%)
Nhận xét: Vòng eo, cân nặng, béo phì và béo phì bụng có giảm sau TTGD, sự khác
biệt không có ý nghĩa thống kê.
BÀN LUẬN
Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu
Chúng tôi ghi nhận trong tổng số 161 bệnh nhân mắc bệnh ĐTĐ đến khám hoặc nằm
viện tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định có tuổi mắc bệnh trung bình 57 tuổi, tỉ lệ bệnh
nhân nữ mắc bệnh nhiều hơn gấp 2 lần bệnh nhân nam (68,3% so với 31,7%) phù hợp
với nhiều nghiên cứu trong nước trước đây
(Error! Reference source not found.,Error! Reference source
not found.,Error! Reference source not found.).

Đánh giá thay đổi kiến thức và thái độ thực hành sau truyền thông giáo dục
Theo y văn đi chân trần là yếu tố nguy cơ nhiễm khuẩn bàn chân và đoạn chi ở bàn
chân ĐTĐ
(Error! Reference source not found.).
Trước khi được TTGD, phần lớn bệnh nhân
ĐTĐ thường xuyên đi chân trần (75,2%) và tỉ lệ này giảm rõ rệt sau khi được TTGD
(26,1%). Tương tự ngâm chân vào nước nóng ở bệnh nhân ĐTĐ cũng là một thói
quen xấu, do biến chứng thần kinh ĐTĐ làm giảm đi cảm giác nóng lạnh dễ đưa đến
bỏng chân, đôi khi phải đoạn chi. Trong nghiên cứu này chúng tôi ghi nhận tỉ lệ ngâm
chân vào nước nóng chiếm 11,2% trước TTGD và sau TTGD chỉ còn 2,5%.
Có đến 36,6% bệnh nhân “thường xuyên” uống thuốc không đều, bỏ cử thuốc uống
hoặc bỏ chích insulin nhiều ngày, nhiều tuần do quên hoặc do không có điều kiện

mua thuốc uống và do thấy cơ thể không có triệu chứng gì bất thường. Tỉ lệ này chỉ
còn 14,3% sau truyền thông giáo dục.
Tương tự trong thực tế lâm sàng, chúng ta cũng rất hay gặp bệnh nhân tự điều chỉnh
liều thuốc (tăng hoặc giảm liều) do cho rằng uống thuốc nhiều và lâu ngày dễ bị lờn
thuốc hoặc bị nóng trong cơ thể nên chuyển sang uống thuốc nam, thuốc bắc và bỏ trị
không đi tái khám nữa. Đến khi bệnh trở nặng xuất hiện nhiều biến chứng, bệnh nhân
mới đến lại bệnh viện thì đã muộn. Đây cũng là thói quen xấu thường gặp ở hầu hết
bệnh nhân mắc bệnh mạn tính ở nước ta và đã góp phần làm gia tăng đường huyết,
tăng huyết áp, tăng sự xuất hiện các biến chứng và tử vong. Trong nghiên cứu này
chúng tôi ghi nhận trước TTGD tỉ lệ bỏ trị là 31,7% và tự điều chỉnh liều thuốc là
29,2%; sau giáo dục chỉ còn 9,3% bỏ trị và 13,7% tự điều chỉnh liều thuốc.
Nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước đã chứng minh hút thuốc lá là yếu tố nguy cơ
cho nhiều bệnh như ung thư phổi, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, bệnh mạch máu
ngoại biên, đặc biệt đối với bệnh ĐTĐ hút thuốc lá sẽ làm gia tăng đột quỵ, tai biến
mạch não gấp 2 đến 4 lần so với người không hút thuốc lá và cũng là yếu tố nguy cơ
đoạn chi do đái tháo đường
(21).
Do đó trong điều trị bệnh ĐTĐ, ngưng hút thuốc lá
cũng là phương thức điều trị bắt buộc bệnh nhân phải tuân thủ. Trong 161 bệnh nhân,
chúng tôi ghi nhận chỉ có bệnh nhân nam hút thuốc lá, không có một bệnh nhân nữ
nào hút thuốc. Tỉ lệ hút thuốc lá ở nam chiếm 82,3%, và tỉ lệ này chỉ còn 51,9% sau
TTGD. Đây cũng là một dấu hiệu đáng mừng bởi vì chỉ trong thời gian ngắn bệnh
nhân đã có thay đổi nhận thức đáng kể.
Dinh dưỡng trong ĐTĐ đóng vai trò rất quan trọng trong việc kiểm soát đường
huyết. Theo y văn
(11)
thức ăn có nhiều glucid làm tăng đường huyết sau khi ăn,
thức ăn có nhiều lipid dễ gây xơ vữa động mạch và bệnh nhân ĐTĐ phải kiêng tối
đa với các loại đường hấp thu nhanh như mứt, bánh ngọt, nước ngọt, kẹo Do thời
gian theo dõi ngắn, trong nghiên cứu này chúng tôi chỉ ghi nhận những bệnh nhân

có sử dụng đường hấp thu nhanh ít nhất là 2 lần/ tuần và đây là lý do góp phần gây
tăng đường huyết nhanh nhất. Chúng tôi đã tổ chức các buổi tọa đàm về vấn đề
này nhiều lần để hướng dẫn bệnh nhân cách ăn uống, cách sử dụng thức ăn thay
thế, các loại thức ăn phải kiêng tối đa. Kết quả trước TTGD có đến 88,2% bệnh
nhân có ăn đường hấp thu nhanh như chè, bánh ngọt, kẹo, nước ngọt và sau TTGD
tỉ lệ này giảm còn 53,4%.
Luyện tập thể lực là biện pháp điều trị bắt buộc trong điều trị bệnh đái tháo đường.
Luyện tập thể lực đều đặn sẽ làm giảm đề kháng insulin, giảm cân; giúp ổn định
đường huyết, huyết áp, giảm mỡ máu
(Error! Reference source not found.)
. Ngoài ra việc luyện
tập thể lực thường xuyên còn làm cho bệnh nhân thấy thoải mái, lạc quan và cảm thấy
yêu đời và khoẻ hơn. Chúng tôi ghi nhận trước TTGD chỉ có 16,8% bệnh nhân có
luyện tập thể lực ít nhất 150 phút /tuần; tuy nhiên tỉ lệ này đã tăng lên 41% sau
TTGD.
Bệnh nhân ĐTĐ nếu biết tiêm insulin đúng cách sẽ giúp kiểm soát tốt đường huyết và
hạn chế được các biến chứng như hạ đường huyết, nhiễm khuẩn trong nghiên cứu này
chúng tôi có tổng cộng 30 bệnh nhân phải tiêm insulin, nhưng trước TTGD chỉ có
36,6% biết tiêm insulin và sau TTGD tỉ lệ này tăng lên đến 93,3%.
Kết quả này phù hợp các nghiên cứu trong và ngoài nước
(0,Error! Reference source not
found.,Error! Reference source not found.)
thấy bệnh nhân ĐTĐ có thay đổi nhận thức và thái độ
thực hành theo chiều hướng tốt sau khi được giáo dục.
Đánh giá kết quả điều trị trước và sau TTGD
Béo phì và béo phì bụng
Tần suất béo phì gia tăng theo tuổi và thay đổi tuỳ theo tiêu chuẩn chẩn đoán khác
nhau
(Error! Reference source not found.)
. Qua nghiên cứu thực tế WHO đã các khuyến cáo các

quốc gia Châu Á lấy tiêu chuẩn ban hành năm 2000 làm tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh
béo phì khi BMI ≥ 25
(0)
và béo phì bụng khi vòng eo ≥ 80cm đối với nữ và vòng eo ≥
90cm đối với nam. Tình trạng béo phì và béo phì bụng làm gia tăng tỉ lệ đề kháng
insulin và là yếu tố nguy cơ cho bệnh mạch vành. Trong nghiên cứu này chúng tôi ghi
nhận trước TTGD tỉ lệ béo phì là 31,7% và béo phì bụng là 62,1%. Tỉ lệ này có giảm
sau TTGD còn 29,8% và 60,9% nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
Tương tự, giảm vòng eo và cân nặng sau TTGD cũng không có ý nghĩa thống kê. Kết
quả này cũng cho thấy đáng khích lệ bởi vì để giảm cân cần phải có thời gian luyện
tập dài hơn mới có thể có hiệu quả (bảng 5).
Tăng huyết áp
Tăng huyết áp rất thường gặp ở bệnh nhân ĐTĐ típ 2, chiếm tỉ lệ 20 – 60% tại thời
điểm mới chẩn đoán
(Error! Reference source not found.)
và gấp 2 lần so với người không ĐTĐ.
Tăng HA được xem là yếu tố nguy cơ của bệnh mạch vành
(Error! Reference source not found.),
bệnh mạch máu não đồng thời cũng góp phần làm gia tăng sự phát triển bệnh võng
mạc và bệnh thận ĐTĐ. Kiểm soát tốt huyết áp sẽ làm giảm các nguy cơ trên và là
vấn đề then chốt trong việc làm giảm nhu cầu lọc thận và ghép thận từ 78% xuống
còn 31% sau 16 năm sau khi có bệnh thận lâm sàng. Nghiên cứu UKPDS cho thấy
nếu kiểm soát HA tích cực sẽ làm giảm tất cả biến chứng liên quan đến ĐTĐ 25%, tử
vong liên quan đến ĐTĐ giảm 32%, tai biến mạch máu não giảm 44%
Chúng tôi ghi nhận HA trung bình trong nhóm can thiệp giảm rõ rệt sau TTGD từ
128/78 mmHg xuống còn 116/72mmHg (p = 0,001). Có đến 60,2% bệnh nhân đạt
HA < 130/80 mmHg sau giáo dục so với trước giáo dục chỉ có 24,2% (Bảng 1 và 3).
Đường huyết và HbA1c
Theo y văn
(Error! Reference source not found.)

tình trạng tăng đường huyết kéo dài làm gia tăng
sự phát triển biến chứng mạch máu lớn và biến chứng mạch máu nhỏ. Nghiên cứu
UKPDS
(Error! Reference source not found.)
thực hiện trên 5.102 bệnh nhân ĐTĐ típ 2 tiến hành
tại 23 trung tâm ở Anh quốc, kết quả cho thấy nếu kiểm soát tích cực đường huyết sẽ
làm giảm tất cả biến chứng liên quan đến ĐTĐ 12%, nhồi máu cơ tim giảm 16%,
biến chứng vi mạch giảm 25%, diễn tiến đến microalbumin niệu giảm 33%. Trong
nghiên cứu này chúng tôi ghi nhận đường huyết trung bình trong nhóm can thiệp
giảm rõ rệt sau TTGD từ 179,7mmol/l xuống còn 126,5mmol/l; HbA1c từ 8,4% giảm
còn 7,6% và có ý nghĩa thống kê. Có 29,8% bệnh nhân đạt HbA1c < 7% sau giáo dục
so với trước giáo dục chỉ có 18,6%. Theo y văn chỉ cần làm giảm HbA1c xuống 0,9%
sẽ làm giảm hầu hết các biến chứng liên quan đến ĐTĐ. Người có HbA1c < 7% có ít
tổn thương hơn người có HbA1c 7,9%.
Tiểu đạm
Bệnh thận ĐTĐ là hậu quả của các tác động bất lợi về chuyển hoá và huyết động học
lên vi tuần hoàn thận
(Error! Reference source not found.).
Theo y văn tình trạng tăng đường
huyết kéo dài làm gia tăng sự phát triển bệnh thận ĐTĐ. Trong nghiên cứu Cohort
cho thấy khi kiểm soát đường huyết tích cực sẽ làm giảm 39% tiểu đạm vi thể và 54%
tiểu đạm đại thể, trong đó những người tham gia là những đối tượng có tiểu đạm ngay
từ lúc bắt đầu nghiên cứu. Trong nghiên cứu này chúng tôi ghi nhận tình trạng tiểu
đạm giảm rõ rệt từ 37,9% xuống còn 23,6% sau TTGD trong đó tiểu đạm vi thể từ
29,2% xuống còn 19,9%.
Rối loạn lipid máu
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng rối loạn lipid máu là yếu tố nguy cơ cho bệnh
thận ĐTĐ, trong đó tăng LDL và tăng trigycerid là yếu tố tiên đoán của vi đạm
niệu
(Error! Reference source not found.).

Một nghiên cứu của tác giả N. T. T. Thảo khi khảo sát
biến chứng mạn trên 92 bệnh nhân ĐTĐ típ 2 mới phát hiện cũng tìm thấy có mối
liên hệ giữa rối loạn lipid máu và biến chứng thận
(Error! Reference source not found.)
.
Trong nghiên cứu này chúng tôi ghi nhận các thành phần cholesterol, triglycerid,
LDL và tăng HDL giảm rõ rệt sau TTGD. Tuy nhiên do chúng tôi lấy mục tiêu hạ
lipid máu chặt chẽ theo IDC với LDL < 100mg/dl cho toàn bộ đối tượng trong nhóm
nghiên cứu thì rối loạn lipid máu nói chung trong nghiên cứu chưa cải thiện sau
TTGD.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 161 bệnh nhân mắc bệnh đái tháo đường típ 2 đến khám hoặc nằm
viện tại bệnh viện NDGĐ, chúng tôi nhận thấy tuổi mắc bệnh trung bình 57 ± 12,7, tỉ
lệ bệnh nhân nữ mắc bệnh nhiều hơn bệnh nhân nam.
Bệnh nhân có cải thiện tốt về kiến thức và thái độ thực hành sau TTGD
- Bỏ điều trị: 9,3% (trước TTGD là 31,7%)
- Tự chỉnh liều thuốc: 13,7% (trước TTGD 29,2%).
- Uống thuốc không đều: 14,3% (trước TTGD 36,6%).
- Ăn đường hấp thu nhanh: 53,4% (trước TTGD 88,2%).
- Ngâm chân nước nóng: 2,5% (trước TTGD 11,2%).
- Đi chân trần: 26,1% (trước TTGD 75,2%).
- Hút thuốc: 51,9% (trước TTGD 82,3%).
- Không luyện tập thể lực: 59% (trước TTGD 83,2%).
- Không biết chích insulin: 6,7% (trước TTGD 63,4%).
Đánh giá các chỉ số kiểm soát sau TTGD
Cải thiện rõ rệt HbA1c, ĐH đói, huyết áp, các thành phần lipid máu, đạm niệu sau
TTGD, trong đó HbA1c (8,4 ± 1,9%  7,6 ± 1,5%), ĐH đói (179,7 ± 72,4 mg/dl
 126,5 ± 48mg/dl), tiểu đạm (37,9%  23,6%), tiểu đạm vi thể (29,2% 
19,9%), huyết áp (128/78 mmHg  116/72 mmHg).
Đạt mục tiêu HbA1c < 7% chiếm 29,8% (trước TTGD là 18,6%)

Đạt mục tiêu HA < 130/80mmHg chiếm 60,2% (trước TTGD là 24,2%)
Cân nặng, vòng eo, béo phì và béo phì bụng có giảm nhưng không có ý nghĩa thống
kê.
HẠN CHẾ ĐỀ TÀI
Thời gian theo dõi tương đối ngắn nên chưa đánh giá hết hiệu quả của truyền thông
giáo dục; bởi vì để cân nặng, vòng eo giảm đạt mục tiêu cần phải có thời gian để bệnh
nhân luyện tập lâu hơn và có thể thích ứng được với sự thay đổi của chế độ ăn.
Nghiên cứu cần có nhóm chứng so sánh để đề tài có giá trị hơn.
ĐỀ XUẤT
- T4G cần tổ chức rộng rãi và thường xuyên các lớp TTGD để thầy thuốc thấy được
tầm quan trọng của việc truyền thông trong việc góp phần gia tăng hiệu quả điều trị.
- Các T3G thường xuyên đôn đốc, kiểm tra công tác TTGD tại bệnh viện dưới sự hỗ
trợ của T4G, giúp bệnh viện ngày càng phát triển và tạo niềm tin cho bệnh nhân.
- Các thầy thuốc cần chú trọng vấn đề giáo dục cho bệnh nhân trong công tác khám
chữa bệnh hàng ngày, giúp bệnh nhân có nhận thức và thái độ thực hành đúng mang
lại hiệu quả điều trị; giảm được chi phí điều trị và thời gian nằm viện, giảm sự xuất
hiện các biến chứng và tử vong.
- Các bác sĩ chuyên khoa cần tổ chức nhiều lớp tư vấn định kỳ và giáo dục thường
xuyên cho bệnh nhân dưới nhiều hình thức (câu lạc bộ BN, góc giáo dục sức khỏe, tờ
bướm, video,…)

×