Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

SỨC KHỎE CHUNG CỦA THANH THIẾU NIÊN VIỆT NAM pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (854.48 KB, 14 trang )

SỨC KHỎE CHUNG CỦA THANH THIẾU NIÊN VIỆT NAM


TÓM TẮT
Gánh nặng bệnh tật và các vấn đề sức khỏe của vị thành niên đang ngày càng gây sự
quan tâm từ chính phủ cũng như từ cộng đồng.
Mục tiêu Nghiên cứu này nhằm: mô tả sơ bộ sức khỏe và một số bệnh tật của vị thành
niên và thanh niên Việt Nam.
Phương pháp: Nghiên cứu dựa trên phân tích số liệu của cuộc điều tra quốc gia về sức
khỏe vị thành niên và thanh niên 2003 với thiết kế điều tra cắt ngang trên cộng đồng.
Tổng số 7.584 thanh thiếu niên độ tuổi 14-25 đã tham gia trả lời phiếu phát vấn.
Kết quả cho thấy tỷ lệ ốm trong 12 tháng trước cuộc điều tra ở nông thôn cao hơn
thành thị, giảm dần khi tình trạng kinh tế hộ tốt hơn, và có liên quan đến việc hút thuốc
lá, từng say rượu bia. Các bệnh tật mạn tính phổ biến nhất ở thanh thiếu niên là đường
tiêu hóa (5,6%), cận/loạn/viễn thị (4,8%), bướu cổ (3,2%). Một số yếu tố liên quan tới
bệnh mắt và bướu cổ được mô tả. Các khuyến nghị tập trung vào vấn đề an toàn thực
phẩm, dành ưu tiên phòng chống thiếu Iod và phòng chống các tật về mắt, đặc biệt ở đô
thị.
Từ khóa: Điều tra Quốc gia Vị thành niên và Thanh niên, bệnh tật, vị thành niên.
ABSTRACT
Objective: To provide key descriptive information about the illness of adolescents and
youth in Vietnam as well as the related factors with regard to common diseases
patterns, chronic diseases.
Methods: Cross-sectional survey data from Survey Assessement of Vietnamese
Adolescents and Youth 2003. Binary and multivariate analysis was performed. In total
7,584 young people aged 14-25 completed the questionnaire.
Results: About 39.7% of the sampled youth reported an illness in the period twelve
months prior to the survey. Of the diseases and disabilities listed in the study, digestive
problems were the most commonly reported disease among youth with the proportion
of 5.6%, followed by vision problems (4.8%), goiter (3.2%). Several related factors
were described, particularly related to socio-economic status, ethnicity, gender. The


policy implications focused on food safety, iodine defficiency and vision problems
preventio especially in urban area.
Key word: Survey Assessement of Vietnamese Youth, health problems, adolescents.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Gánh nặng bệnh tật và các vấn đề sức khỏe của vị thành niên đang ngày càng gây sự
quan tâm từ chính phủ cũng như từ cộng đồng. Về khía cạnh sức khỏe và bệnh tật toàn
dân của Việt Nam, Điều tra Y tế Quốc gia 2001-2002 được xem là nghiên cứu hộ gia
đình đầu tiên đặc biệt phân tích các vấn đề sức khỏe trên phạm vi toàn quốc. Các kết
quả chính của nghiên cứu này chỉ ra rằng tỉ lệ ốm đau trong thời gian 4 tuần giữa hai
cuộc phỏng vấn thấp nhất trong lứa tuổi 15-24 (7%) so với các nhóm tuổi khác (Bộ Y
tế, 2003). Theo nghiên cứu này, giới trẻ là nhóm dân số khỏe mạnh nhất xét về các vấn
đề sức khỏe nói chung. Chưa có chính sách hay chiến lược sức khỏe nào được xây
dựng một cách cụ thể và dành riêng cho đối tượng thanh thiếu niên dựa trên các kết quả
của Điều tra Y tế Quốc gia. Thủ tướng cũng đưa ra Quyết định 70/2003/QĐ-TTg phê
chuẩn Chiến lược Phát triển Thanh niên Việt Nam đến năm 2010. Mục tiêu số 4 trong
chiến lược này đề cập tới việc nâng cao sức khỏe, đời sống tinh thần, xây dựng nếp
sống văn hóa, ngăn chặn và đẩy lùi tệ nạn xã hội và tình trạng phạm pháp trong thanh
thiếu niên (Chính phủ, 2003). Tuy nhiên chiến lược này không hề đề cập trực tiếp đến
những vấn đề sức khỏe quan trọng ở thanh thiếu niên Việt Nam. Có thể nói rằng cho
đến lúc này chưa có nghiên cứu nào ở qui mô quốc gia có thể cho chúng ta sự hiểu biết
toàn diện về gánh nặng bệnh tật chung của giới trẻ Việt Nam. Vì thế vấn đề sức khỏe
của thanh thiếu niên đòi hỏi cần được chú ý cả ở lĩnh vực chính sách lẫn phạm vi các
chương trình trên toàn toàn quốc.
Cuộc Điều tra Quốc gia về Vị thành niên ở Việt Nam (gọi tắt là SAVY) là cuộc điều tra
mang tính quốc gia đầu tiên trong lĩnh vực này nhằm cung cấp một mô tả toàn diện tình
trạng hiện tại của cuộc sống cá nhân và xã hội cũng như các vấn đề sức khỏe của thanh
thiếu niên Việt Nam. Mục tiêu cụ thể của nghiên cứu này nhằm: mô tả gánh nặng bệnh
tật của vị thành niên và thanh niên Việt Nam cũng như các yếu tố liên quan trên cơ sở
xem xét các loại hình bệnh tật phổ biến và các bệnh mạn tính.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CƯU

Nghiên cứu phân tích này sử dụng số liệu của cuộc Điều tra Quốc gia về vị thành niên
và thanh niên Việt Nam năm 2003 (SAVY). Đối tượng nghiên cứu của SAVY là các vị
thành niên và thanh niên từ 14-25 tuổi. SAVY được thực hiện trên cơ sở chọn mẫu đại
diện cho toàn bộ vị thành niên và thanh niên từ 14-25 tuổi sống trong hộ gia đình trên
toàn quốc, theo 8 vùng kinh tế, khu vực thành thị/nông thôn. Đây là mẫu hệ thống được
lựa chọn từ dàn mẫu 45.000 hộ của cuộc khảo sát mức sống hộ gia đình năm 2002
(VLSS 2002). Mẫu của cuộc điều tra SAVY bao gồm 42 tỉnh thuộc 61 tỉnh và thành
phố trong mẫu của VLSS 2002, chọn theo xác suất tỷ lệ với qui mô dân số (PPS) để
đảm bảo tính đại diện. Tại mỗi tỉnh được chọn, tiến hành chọn các địa bàn điều tra. Đối
tượng điều tra là tất cả các thanh niên độ tuổi từ 14 – 25 của 20 hộ điều tra thuộc địa
bàn được chọn của VLSS 2002. Trong dàn mẫu 42 tỉnh điều tra của SAVY có 446 địa
bàn được chọn để tham gia điều tra SAVY. Dân số tại 446 địa bàn này là 40.140 người,
trong đó ước tỉnh 24.5% là thanh thiếu niên tuổi 14-25. SAVY có số thanh thiếu niên
thực tế tham gia trả lời phỏng vấn là 7.584 người.
Số liệu được Tổng cục Thống kê làm sạch và quản lý, sau đó kết xuất dưới dạng dành
cho phần mềm SPSS, xử lý trên phiên bản SPSS 12.0. Trong quá trình phân tích có sử
dụng phương pháp thống kê đơn biến và đa biến để kiểm soát các yếu tố gây nhiễu.
KẾT QUẢ
Tình hình bệnh tật chung ở thanh thiếu niên
Trong cuộc điều tra SAVY, thanh thiếu niên Việt Nam được hỏi một số câu hỏi nhằm
xác định xem: đối tượng có từng ốm đau trong 12 tháng qua hay không, đối tượng có
những triệu chứng bệnh tật trong tháng ngay trước cuộc điều tra, đối tượng có một số
bệnh tật mạn tính hay không, và việc đối tượng đã sử dụng dịch vụ y tế như thế nào
trong lần chấn thương hoặc bệnh tật gần đây nhất.
Hình 1 thể hiện tỷ lệ đã từng ốm đau trong vòng 12 tháng trước cuộc điều tra dẫn tới
việc phải nghỉ làm hoặc nghỉ học. Tỷ lệ này ở nông thôn nhìn chung cao hơn ở thành
thị và ở nữ cao hơn ở nam giới.
Khi so sánh theo nhóm dân tộc, tỷ lệ ốm đau ở các nhóm tuổi dân tộc khác đều cao hơn
các nhóm người Kinh và người Hoa. Phân tích theo vùng địa lý cho thấy tỷ lệ này cao
nhất ở vùng Tây Nguyên (50,6%) và thấp nhất ở vùng Bắc Trung bộ (35,2%) (χ

2
= 35,3,
p<0,001).

Hình 1. Tỷ lệ ốm trong 12 tháng qua

Hình 2. Tỷ lệ ốm trong 12 tháng qua theo tình trạng kinh tế hộ gia đình
Phân tích theo các nhóm điều kiện kinh tế của hộ gia đình cho thấy tỷ lệ ốm trong 12
tháng trước cuộc điều tra giảm dần khi tình trạng kinh tế hộ tốt hơn (Hình 2). Nhìn
chung, chỉ có 32,9% các thanh thiếu niên trong nhóm được phân loại là “khá – giàu”
nói rằng họ từng bị ốm đau trong 12 tháng qua so với 47,9% ở nhóm có tình trạng kinh
tế hộ thuộc diện “nghèo” (χ
2
= 89,7, p<0,001). Sự khác biệt này cũng tồn tại trong tất cả
các nhóm tuổi 14-17, 18-21 và 22-25.
Mô hình hồi qui logic cũng cho thấy những biến số sau có liên quan tới việc thanh thiếu
niên bị ốm đau trong 12 tháng trước cuộc điều tra: dân tộc ít người (OR hay nguy cơ
tăng thêm 1,5 lần, số biểu hiện bệnh tật hoặc tàn tật mạn tính (OR=1,53), hút thuốc lá
(OR=1,20), thuộc gia đình nghèo (OR=1,39), từng bị say rượu bia ít nhất một lần trong
tháng trước (OR=1,23). Những kết quả này một lần nữa khẳng định rằng dân tộc ít
người và thanh thiếu niên nghèo là những nhóm có nguy cơ cao hơn. Đặc biệt, việc hút
thuốc lá và say rượu có liên quan tới việc bị ốm đau của thanh thiếu niên.

Hình 3. Tỷ lệ mắc các triệu chứng bệnh trong tháng trước
Các đối tượng điều tra cũng được hỏi trong tháng trước cuộc điều tra có bị các
triệu chứng ốm đau không. Tỷ lệ này nhìn chung ở nữ cao hơn ở nam, tỷ lệ ở nữ ở
thành thị là 46,1% so với ở nông thôn là 45,7%; nam ở thành thị là 34,3% so với ở
nông thôn là 37,2%. Trong số 3120 thanh thiếu niên có biểu hiện ốm đau trong tháng
trước (chiếm 41,1% mẫu nghiên cứu), 70,2% có biểu hiện sốt, đau đầu, 63,8% cảm
cúm, 42,8% có đau bụng, 21,2% có biểu hiện khó thở và 11,8% bị tiêu chảy. Tỷ lệ

xuất hiện các triệu chứng này trong toàn bộ mẫu nghiên cứu được mô tả trong hình 3.
Trong số các trường hợp có triệu chứng bệnh, số triệu chứng trung bình ở thanh thiếu
niên nông thôn là 2,21, cao hơn so với thanh thiếu niên ở thành thị là 2,06 (p<0,01).
Bệnh tật mạn tính ở thanh thiếu niên
Điều tra SAVY cũng tìm hiểu các thông tin về tình trạng bệnh tật mạn tính ở thanh
thiếu niên thông qua một số câu hỏi về những biệu hiện bệnh mạn tính và tàn tật. Trong
số các bệnh tật mạn tính, những biểu hiện sau đây là phổ biến nhất ở thanh thiếu niên:
các biểu hiện đường tiêu hóa (5,6%), cận/loạn/viễn thị (4,8%), bướu cổ (3,2%). Ngoài
ra những bệnh tật khác ít phổ biến hơn bao gồm: bệnh tim mạch 2,4%, hen 1,9%, các
bệnh hô hấp khác 1,9%, cong vẹo cột sống 0,5%, lao 0,3%, bại liệt 0,2%. Các biểu hiện
bệnh tiêu hóa ghi nhận được ở nữ là 6,0% so với nam là 5,3%, ở thành thị là 6,4% so
với ở nông thôn là 5,4%, tuy nhiên những sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê.
Khác với những biểu hiện bệnh đường tiêu hóa, các biểu hiện bệnh mắt thể hiện sự
khác biệt rõ nét giữa thành thị và nông thôn cũng như giữa hai giới (hình 4). Tỷ lệ bị
các bệnh về mắt nói chung ở nữ cao hơn ở nam một cách có ý nghĩa thống kê (5,6% ở
nữ so với 3,9% ở nam, p<0,001), ở thành thị cao hơn ở nông thôn (13,9% so với 1,8%,
p<0,001); và ở người Kinh-người Hoa cao hơn ở các nhóm dân tộc khác (5,4% so với
0,9%, p<0,001). Hình 4 cũng cho thấy tỷ lệ bệnh mắt khá cao ở nhóm nữ trong độ tuổi
14-17 ở thành thị (20,1%) so với các nhóm tuổi, giới và địa dư khác. Tỷ lệ này ở nhóm
nữ cùng độ tuổi ở nông thôn chỉ là 2,4%.

Hình 4. Tỷ lệ mắc các bệnh mắt ở hai giới theo thành thị / nông thôn
Nhằm hiểu rõ hơn về các yếu tố liên quan tới bệnh mắt ở thanh thiếu niên, phương
pháp phân tích đa biến (multivariate analysis) sử dụng hồi qui logic đã được sử dụng.
Mô hình hồi qui (logistic model) đã được xây dựng nhằm dự đoán nguy cơ bị các tật ở
mắt (thông qua tính toán tỷ suất chênh – odds ratios), dựa trên một loạt các biến số độc
lập như: độ tuổi, giới tính, thành thị/nông thôn, dân tộc, tình trạng giàu nghèo, thời gian
tiếp xúc với TV, tần suất xem các chương trình video hàng ngày, sử dụng Internet, v.v.
Mô hình hồi qui thể hiện rõ một số yếu tố liên quan tới tình trạng bệnh mắt: so sánh với
nhóm tuổi từ 22-25 nhóm tuổi học trung học (14-17) có nguy cơ bệnh mắt cao gấp 2

lần, nhóm tuổi 18-21 có nguy cơ cao gấp 1,7 lần. Nữ giới có nguy cơ cao gấp 1,57 lần
so với nam giới. Thanh thiếu niên nông thôn có ít nguy cơ bị bệnh mắt hơn thanh thiếu
niên thành thị khoảng 70% (OR=0,32). Trong 3 nhóm tình trạng kinh tế, nhóm thanh
thiếu niên thuộc các hộ trung bình có khả năng bị bệnh mắt cao gấp 1,8 lần các thanh
thiếu niên trong các hộ nghèo. Nguy cơ này còn cao hơn ở nhóm kinh tế khá-giàu (4,5
lần). Tần suất xem TV không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với tỷ lệ bệnh mắt.
Tuy nhiên, tần suất xem các chương trình video (có thể là băng đĩa, phim ảnh) có liên
quan tới tình trạng bệnh mắt. Cụ thể, những thanh thiếu niên xem không nhiều quá
hoặc ít quá có nguy cơ bệnh mắt thấp hơn những người không xem video trong tháng
qua. Kết quả tuy vậy chưa chỉ ra rằng những người xem nhiều (hàng ngày) có nguy cơ
cao hơn so với những người không xem. Đặc biệt, việc sử dụng Internet có liên quan rõ
rệt với tình trạng bệnh mắt: những người đã từng dùng Internet có nguy cơ mắc các
bệnh mắt cao gấp 3,2 lần so với những người chưa từng dùng. Tuy nhiên tất cả các phát
hiện này có thể bi ảnh hưởng bởi tình trạng kinh tế chung từng nhóm vì thanh thiếu
niên trong nhóm thu nhập cao có điều kiện tiếp cận nhiều hơn với các phương tiện điện
tử cũng như điều kiện khám thị lực.
Vấn đề sức khỏe mạn tính phổ biến khác ở thanh thiếu niên mà SAVY quan tâm là
bệnh bướu cổ. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy sự khác biệt rõ nét giữa thành thị và
nông thôn, giữa nhóm dân tộc ít người so với người Kinh, người Hoa, cũng như giữa
hai giới. So sánh hai biến cho thấy tỷ lệ bị bướu cổ ở nữ cao hơn ở nam một cách có ý
nghĩa thống kê (5,4% ở nữ so với 1,1% ở nam, p<0,001), ở nông thôn cao hơn ở
thành thị (3,5% so với 2,5%, p<0,05); và các nhóm dân tộc ít người có tỷ lệ mắc cao
hơn ở người Kinh-người Hoa (6,8% so với 2,6%, p<0,001).
Nghiên cứu cho thấy nhóm nữ người dân tộc ít người có tỷ lệ mắc bướu cổ cao nhất,
đặc biệt trong độ tuổi 18-21(13,2%), tiếp đó là nhóm tuổi 14-17 (11,3%). Các tỷ lệ này
chứng tỏ bướu cổ do thiếu Iod vẫn còn là một vấn đề sức khỏe đáng quan tâm đối với
nữ thanh thiếu niên, đặc biệt ở những vùng dân tộc ít người. Phân tích theo giới ở các
vùng địa lý sinh thái (hình 5) cũng cho thấy tỷ lệ mắc bướu cổ ở nữ luôn luôn cao hơn ở
nam trên cả nước và cao nhất ở những vùng miền núi: miền núi Đông bắc: 12,1%, Tây
bắc: 8,4%, và Tây nguyên: 9,1%.


Hình 5. Tỷ lệ mắc mắc bướu cổ ở hai giới theo vùng sinh thái
Mô hình hồi qui logic tìm ra một số các yếu tố liên quan tới bướu cổ (p<0,05): dân tộc
ít người có nguy cơ cao hơn dân tộc Kinh/Hoa là 1,7 lần; ở mức ý nghĩa p<0,001: nữ có
nguy cơ cao hơn nam giới 8,7 lần; thanh thiếu niên các gia đình kinh tế ở mức trung
bình và nghèo có nguy cơ cao hơn những người ở các hộ khá-giàu là 4,8 và 3,7 lần.
Như vậy, cũng tương tự như các vấn đề sức khỏe khác, thanh thiểu niên trong các hộ
gia đình không thuận lợi về kinh tế có nguy cơ bi bướu cổ cao hơn. Điều này đặc biệt
đúng đối với nữ thanh thiếu niên.
BÀN LUẬN
Nghiên cứu SAVY chỉ ra rằng 39,7% của thanh thiếu niên được nghiên cứu báo cáo có
bệnh khiến phải nghỉ làm, nghỉ học trong vòng 12 tháng trước cuộc phỏng vấn. Tỉ lệ
ốm đau này cao hơn ở nhóm nông thôn so với thành thị, ở các nhóm thiểu số hơn là
Kinh/Hoa. Quan trọng là càng nghèo thì thanh thiếu niên càng dễ đau ốm trong tháng
trước hoặc 12 tháng trước cuộc khảo sát. Các kết quả này cũng cho thấy tình hình bệnh
tật nói chung cao hơn báo cáo điều tra Y tế quốc gia (Bộ Y tế, 2003).
Trong số 12 bệnh tật và tình trạng tàn tật liệt kê trong nghiên cứu, bệnh về đường tiêu
hoá được coi là bệnh phổ biến nhất trong thanh thiểu niên (5,6%), tiếp theo là bệnh về
mắt (4,8%), bướu cổ (3,2%). Các vấn đề về đường tiêu hoá trong thanh thiếu niên thành
thị và nông thôn có tỉ lệ tương đương – các kết quả này chỉ ra một số khác biệt về mô
hình bệnh tật so với một số nghiên cứu cộng đồng khác (Lê và cs, 2002; Bộ Y tế,
2003). Điều này nói lên rằng vấn đề này là chung toàn quốc và có thể là do vấn đề an
toàn thực phẩm. Không giống như vấn đề tiêu hóa, nhóm thanh niên thành thị có tỷ lệ
gặp phải những bệnh về mẳt cao hơn những người cùng lứa ở nông thôn (13,9% so với
1,8%), đặc biệt là đối với nữ. Có tới 1/5 số em gái ở thành thị có vấn đề về mắt so với
2,4% ở các vùng nông thôn. Sau khi đã kiểm soát những yếu tố nhiễu, một số yếu tố
được xác nhận là có liên quan đến nguy cơ bệnh mắt cao. Nhóm học sinh cấp 3 (14-17
tuổi) có tỉ lệ về bệnh mắt cao gấp hai lần so với nhóm 22-25 tuổi. Phụ nữ có nguy cơ
cao hơn nam giới 1,6 lần. Thanh thiếu niên từ các gia đình giàu dễ có bệnh mắt hơn 4,5
lần các bạn từ các gia đình nghèo. SAVY cũng cho thấy rằng những người có sử dụng

Internet có nguy cơ mắc phải các vấn đề về thị lực cao hơn 3,2 lần so với những người
khác. Tình hình bệnh mắt ở trên cho thấy thanh thiếu niên ở thành thị, nhóm dân tộc
Kinh, Hoa có nguy cơ bị cận/viễn/loạn thị cao hơn hẳn các bạn cùng lứa ở nông thôn và
các nhóm dân tộc ít người. Điều này có thể liên quan tới nhiều yếu tố kinh tế xã hội
khác nhau, chẳng hạn như các bạn trẻ ở thành thị tiếp cận nhiều hơn với các chương
trình TV, các sản phẩm video, cũng như các trò chơi điện tử, dùng Internet sử dụng
màn hình TV và màn hình máy tính, cũng như có thể dành nhiều thời gian cho việc học
tập ở trường, ở nhà, học thêm hơn các bạn cùng lứa ở nông thôn. Mặt khác, cũng có thể
dịch vụ y tế và việc khám sàng lọc, chẩn đoán các tật ở mắt chưa được phổ biến ở nông
thôn và các vùng dân tộc ít người so với ở thành thị, do vậy một tỷ lệ nhất định thanh
thiếu niên ở những khu vực này chưa được phát hiện và chẩn đoán.
Ngược lại với các bệnh mắt, bướu cổ tỏ ra là vấn đề của thanh thiếu niên khu vực nông
thôn và dân tộc thiểu số, những người sinh sống ở vùng núi, đặc biệt là nữ giới. Sau khi
khống chế các yếu tố nhiễu, nguy cơ bị bướu cổ ở nữ cao hơn gần 9 lần so với nam.
Thanh thiếu niên nghèo cũng có nguy cơ mắc cao hơn thanh thiếu niên khá giả.
Những ý nghĩa về mặt chính sách
1. Tình hình chung về sức khỏe của thanh thiếu niên sẽ được cải thiện nếu chính phủ,
đặc biệt là ngành y tế cải thiện vấn đề an toàn thực phẩm và dành nhiều ưu tiên hơn cho
vấn đề này.
2. Các chương trình truyền thông thay đổi hành vi (Behavior change communication -
BBC) nhằm vào việc giảm tỷ lệ mắc các bệnh về thị lực sẽ có hiệu quả hơn nếu chúng
ta nhằm vào các nhóm nguy cơ cao như là học sinh nữ, trẻ em ở những khu vực thành
thị, trẻ em ở tầng lớp kinh tế-xã hội cao).
3. Chương trình tuyên truyền về phòng tránh bướu cổ và thiếu i-ốt sẽ đạt tỉ lệ thành
công cao hơn nếu chúng ta tập trung vào các vùng núi và các vùng khó khăn; nếu
chúng ta tạo điều kiện thuận tiện hơn trong việc tiếp nhận muốn i-ốt và các sản phẩm
tương tự cho người nghèo kết hợp với các chương trình truyền thông thay đổi hành vi
tốt hơn để nâng cao tỉ lệ sử dụng các sản phẩm này. Đặc biệt, chương trình cần ưu tiên
nhắm tới đối tượng đích là nữ vị thành niên vì họ đang là nhóm có nguy cơ cao và sẽ
làm mẹ sau này.


×