Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Chương 3: Những vấn đề cơ bản trong Quản lý rừng dựa vào cộng đồng potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (683.33 KB, 29 trang )

Community Based Forest Management for NTFPs
Chương 3: Những vấn đề cơ bản trong
Quản lý rừng dựa vào cộng đồng
3.1 Các biện pháp và yếu tố để thành công
1

Thành công trong quản lý rừng cộng đồng được xác định đa chiều, đa thông số. Một
thông số đơn lẻ (chẳng hạn như thông số nâng cao độ che phủ rừng, tăng diện tích
rừng trồng, công bằng về chia sẻ lợi ích, hay xóa đói giảm nghèo cho cộng đồng) có
thể làm nổi bật sự thành công này trên một khía cạnh nào đó, nhưng nếu chỉ xem xét
tính thành công dưới một góc độ riêng lẻ thì chúng ta không thể xác định được tính
bền vững cũng như sự thành công của quản lý rừng cộng đồng. Ví dụ: mặc dù điều kiện
rừng (mật độ cây, độ tàn che, và sự đa dạng loài) có thể đã được cải thiện, nhưng việc đáp
ứng đầy đủ nhu cầu của người dân địa phương vẫn chưa được cải thiện đáng kể. Điều này là
do các quy định còn hạn chế, mà các quy định được thiết lập chỉ để giúp cải thiện điều kiện
rừng. Về mặt lý thuyết, định nghĩa về sự thành công trong quản lý rừng cộng đồng cần phải
kết hợp với tích tính bền vững sinh thái, công bằng xã hội, và hiệu quả kinh tế để đáp ứng
mong đợi của xã hội và người sử dụng.
Biện pháp thành công trong quản lý rừng cộng đồng đã được thảo luận và phân chia
thành 3 nhóm chính là: bền vững về mặt sinh thái, công bằng, và hiệu quả.
1. Sinh thái bền vững bao gồm:
• Cải thiện điều kiện rừng (ví dụ: tăng diện tích rừng, tăng đa dạng loài, tăng
năng suất của rừng, và tăng số lượng các loài có giá trị).
• Giải quyết các vấn đề suy thoái môi trường (ví dụ: tái trồng rừng, bảo vệ xói
mòn đất, và quản lý lưu vực).
2. Khía cạnh công bằng liên quan tới:
• Nâng cao công bằng trong chia sẻ chức năng quản lý (quyền quản lý), quyền
hạn (quyền tiếp cận và kiểm soát), và có trách nhiệm đối với vùng được giao
hay đối với các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
1
Adchraporn Pagdee và các cộng sự. 2005


1
Community Based Forest Management for NTFPs
• Cải thiện vấn đề chia sẻ lợi ích công bằng giữa các thành viên
• Tăng đầu tư cho rừng trong tương lai.
3. Hiệu quả bao gồm:
• Đáp ứng các nhu cầu địa phương, cải thiện đời sống của người dân địa phương
và giảm nghèo.
• Giảm xung đột giữa các cộng đồng địa phương và các cấp chính quyền.
• Kiểm soát tham nhũng.
• Giải quyết được các vấn đề trong khúc mắc trong quản lý (ví dụ: sự mất cân
bằng quyền lực hành chính, và sự mất cân bằng giữa giữa sinh thái môi trường
và kinh tế xã hội).
• Giảm việc sử dụng rừng sai mục đích của cá nhân (ví dụ: buôn lậu gỗ).
Tuy nhiên, để quản lý rừng thành công thì quan trọng nhất là phải đáp ứng được nhu
cầu của người dân địa phương, cải thiện điều kiện rừng, giải quyết các vấn đề môi
trường và phân chia lợi ích công bằng. Những biện pháp này là để đạt được các mục
tiêu trước mắt trong quản lý rừng dựa vào cộng đồng.
Các yếu tố quan trọng dẫn đến thành công trong quản lý rừng dựa vào cộng đồng có
thể được chia thành 9 nhóm chính như sau:
1. Hệ thống về quyền sở hữu
• Đảm bảo quyền sở hữu tài nguyên (ví dụ: hưởng lợi lâu dài, đảm bảo quyền sở
hữu đất hợp pháp)
• Xác định rõ quyền sở hữu trong sử dụng và quản lý tài nguyên (ví dụ: chia sẻ
hay độc quyền trong việc ra quyết định).
• Xác định rõ ranh giới địa lý các nguồn tài nguyên rừng trong cộng đồng.
• Xác định mục đích sử dụng của rừng
• Hài hòa giữa năng lực của cộng đồng với các nguồn lực và ranh giới về mặt xã
hội (ví dụ: chuẩn mực xã hội và quy định hạn chế về mặt thời gian, địa điểm,
công nghệ, và sử dụng các nguồn lực).
2

Community Based Forest Management for NTFPs
• Các quy tắc để điều tiết việc sử dụng các sản phẩm rừng trong cả hai hình thức
chính thức và không chính thức.
2. Các tổ chức
• Thực thi hiệu quả các quy tắc bằng các quy định để kiểm soát những người
thực hiện sai nguyên tắc, và mang ra phán xét những người này.
• Giám sát các phương pháp để đánh giá xem khuôn khổ thể chế vẫn còn có thể
áp dụng được đối với cộng đồng hay không.
• Xử phạt bằng phạt tiền.
• Những cán bộ hành chính có kinh nghiệm và kỹ năng trong việc tự quản lý tài
nguyên
• Kiên quyết trong lãnh đạo và tổ chức địa phương có hiệu quả với nguồn tài
chính nhân lực sẵn có.
3. Các ưu đãi và lợi ích
• Lợi ích về giá trị: một nguồn tài nguyên có giá trị ở một mức độ nào, đó là giá
trị mà cộng đồng phải thành lập các nhóm địa phương chịu trách nhiệm để
quản lý tài nguyên.
• Thây đổi chi phí trong đầu tư quản lý rừng cộng đồng và thay đổi thể chế.
• Mang đến lợi ích cho người dân thôn, bản khi tham gia các chương trình quản
lý rừng.
• Phụ thuộc vào rừng. Rừng được coi là một nguồn tài nguyên đáp ứng những
nhu cầu cơ bản của cộng đồng (ví dụ: thực phẩm, củi đun, và các loại thuốc,
và là nơi có những hoạt động truyền thống của người dân địa phương).
• Chia sẻ những lợi ích chung sẽ tạo nên sự quản lý trong cộng đồng.
4. Hỗ trợ tài chính và nguồn nhân lực
• Đồng ý với các cấp chính quyền và nhân viên để thực hiện quản lý rừng cộng
đồng
• Hỗ trợ nguồn tài chính và nhân lực từ các tổ chức phi chính phủ, các cơ quan
chính phủ, các tổ chức quốc tế, và cá nhân.
• Hỗ trợ kỹ thuật từ của các quan trong ngành lâm nghiệp cho cộng đồng địa

phương.
3
Community Based Forest Management for NTFPs
5. Các đặc trưng tự nhiên của rừng
• Quy mô rừng: rừng rộng lớn hay nhỏ bé.
• Địa điểm: khả năng tiếp cận của cộng đồng địa phương (khả năng khó hay dễ
tiếp cận với cộng đồng bên ngoài)
• Tính đa dạng (ví dụ: các loại rừng, sự đa dạng về mặt sinh thái, mật độ cây
rừng cao hay thấp).
• Mức độ suy thoái tài nguyên hiện tại. Mức độ suy thoái có thể ảnh hưởng tới
động lực tham gia quản lý rừng cộng đồng.
• Xu hướng phá rừng đang gia tăng, ổn định, hay suy giảm.
• Khả năng dự báo các nguồn tài nguyên. (1) Có thể dự đoán được một cách
tương đối và (2) không thể dự báo một cách tương đối.
6. Các đặc trưng của cộng đồng bao gồm:
• Quy mô cộng đồng: cộng đồng có quy mô lớn hay nhỏ.
• Địa điểm: sống gần rừng.
• Dân số tăng nhanh.
• Mức độ di cư tăng.
• Có tranh chấp giữa người dân địa phương và người bên ngoài.
• Social-cultural diversity = heterogeneity.
• Đa dạng về văn hóa xã hội (tính không đồng nhất).
• Điều kiện kinh tế của các thành viên trong cộng đồng.
• Có kinh nghiệm trong các công việc chung.
• Các hoạt động thực tiễn truyền thống. Người dân vẫn duy trì các kỹ thuật
truyền thống để sử dụng và khai thác lâm sản.
7. Mức độ tham gia
• Khi phần lớn các thành viên trong cộng đồng tham gia quản lý, việc quản lý sẽ
trở nên thành công.
8. Cấp độ phân quyền

• Sự công nhận của địa phương.
4
Community Based Forest Management for NTFPs
o Sự công nhận mang tính pháp lý của nhóm người địa phương (có thẩm
quyền trong quản lý rừng).
o Sự công nhận không chính thức của người dân địa phương: không có tư
cách pháp lý của nhóm người địa phương, nhưng các quan chức làm việc
cùng với cộng đồng.
o Sự chấp nhận của người dân địa phương: không có tư cách pháp lý, không
có công việc hợp tác giữa các quan chức và cộng đồng, nhưng những người
dân địa phương vẫn tự cho phép được làm việc.
o Không có sự công nhận của địa phương.
• Xác định rõ các thủ tục quản lý ở địa phương.
• Xây dựng lại chức năng hành chính cho người dân địa phương (địa phương
chịu trách nhiệm).
• Xây dựng lại các nguồn ngân sách cho các cơ quan (chính quyền địa phương)
9. Ảnh hưởng của công nghệ và thị trường
• Thay đổi về mặt kỹ thuật.
• Yêu cầu của thị trường cao hơn về các sản phẩm rừng và tăng giá trị kinh tế
các sản phẩm rừng.
• Giới thiệu về cơ sở hạ tầng.
• Bất ổn và biến động về điều kiện thị trường.
3.2. Vấn đề tổ chức cộng đồng và ra quyết định
Như được mô tả trong chương 1, một cộng đồng là một nhóm người sống chung trong
một khu vực. Nhóm người này có cùng mối quan tâm và cùng làm việc với nhau và
tôn trọng đến lợi ích chung của họ. Một cộng đồng lâm nghiệp là một nhóm người
sống gần rừng hoặc sống trong rừng. Họ cùng quản lý và sử dụng tài nguyên rừng cho
sinh kế của họ. Ở các nước Đông Nam á, một cộng đồng lâm nghiệp bao gồm hộ gia
đình trong một làng hay một xã. Theo truyền thống, một cộng đồng có một người
lãnh đạo và ra quyết định về các hoạt động của cộng đồng.

5
Community Based Forest Management for NTFPs
Ở Lào PDR, thôn bản được nhận công nhận như một đơn vị có tính pháp lý pháp lý
và chính thức của chính phủ. Đây cũng là cấp thấp nhất trong các tổ chức quản lý
rừng có thẩm quyền ban hành các quy định và thực hiện chính sách của chính phủ.
Với sự công nhận này, thôn bản có quyền thành lập các đơn vị rừng thôn để hỗ trợ
chính quyền địa phương trong quản lý, bảo tồn và bảo vệ rừng trong phạm vi ranh
giới của thôn bản. Phù hợp với quy định của chính phủ, chính quyền thôn cũng có
quyền ban hành quy tắc thôn bản để điều tiết việc sử dụng đất đai và tài nguyên rừng
trong phạm vi thôn bản. Thôn bản có thể thành lập các hiệp hội quản lý rừng trong
thôn (viết tắt là VFMA) để tham gia quản lý rừng sản xuất trên cơ sở hợp đồng có
trước
2
. Trưởng thôn là người đứng đầu trong thôn và là người hướng dẫn việc đưa ra
quyết định trong các cuộc họp thôn.
Ở Campuchia, một cộng đồng thôn bản chỉ đơn giản là một nhóm người cùng sống
và làm việc trong một khu vực, chia sẻ những giá trị chung, các ý tưởng chung, và
những lợi ích trong và ngoài ngoài thôn.Thôn bản là đơn vị hành chính của chính phủ.
Thường có bốn đến 7 thôn trong một xã. Trong thôn có vài nhóm người cùng chung
sống với nhau, và thuộc một hay nhiều gia tộc khác nhau. Thôn bản là nơi mà người
dân địa phương trao đổi với nhau trong cuộc sống đời thường. Thông thường, trưởng
thôn là người có ảnh hưởng lớn đối với các thành viên trong thôn
3
.
Ở Việt Nam, thôn bản không phải là một đơn vị hành chính, mà nó được định nghĩa
như là một đơn vị địa lý nhân văn. Thôn bản không phải là tổ chức thuộc nhà nước,
tuy nhiên, nhà nước công nhận tổ chức lâu đời này gồm có trưởng thôn, già làng, các
hộ gia đình, và các cá nhân, ban quản lý rừng của thôn, tổ chức đảng và các tổ chức
cộng đồng, các nhóm hộ gia đình, các nhóm sở thích, hoặc tổ chức cộng đồng về bảo
vệ rừng, các cán bộ khuyến nông-lâm trong thôn

4
.
2
Khamphay Manivong & Phouthone Sophathilath 2007
3
KEA KIRI Renol 2005
4
Nguyen Ba Ngai và các cộng sự. 2005
6
Community Based Forest Management for NTFPs
Trong quản lý rừng dựa vào cộng đồng, cộng đồng địa phương thành lập nên các tổ
chức để quản lý bền vững các khu rừng trong ranh giới của thôn bản. Các tổ chức
được đặt tên khác nhau, phụ thuộc vào địa điểm và các quốc gia, chẳng hạn như nhóm
quản lý rừng của thôn, hay các đơn vị, hiệp hội, tổ chức hoặc các ủy ban nhân dân. Tổ
chức đó có một nhà lãnh đạo/ chủ tịch được các thành viên của thôn bầu ra thông qua
cuộc họp thôn. Cơ cấu các tổ chức quản lý rừng thôn bản thay đổi theo quốc gia. Tuy
nhiên, việc đưa ra quyết định về quản lý và sử dụng rừng, càng có nhiều người tham
gia thì càng tốt. Tốt nhất là khi cả cộng đồng tham gia vào quá trình ra quyết định.
Tại thôn Nampheng (huyện Namo, tỉnh Oudomaxay, Lào), nơi triển khai dự án Lâm
sản ngoài gỗ của IUCN (IUCN-NTFP) với sự hỗ trợ tài chính của chính phủ Hà Lan,
trưởng thôn chính là trưởng nhóm tiếp thị lâm sản ngoài và nhận được được một
khoản tiền khuyến khích của nhóm tiếp thị lâm sản ngoài gỗ trong thôn. Dự án thành
lập các nhóm tiếp thị lâm sản ngoài gỗ bằng cách tiếp cận có sự tham gia dựa trên nhu
cầu của người dân. Mục tiêu của nhóm tiếp thị là cải thiện khả năng thương thảo của
người dân trong thôn với các nhà tiểu thương, thiết lập hệ thống quản lý măng đắng
bền vững, tăng thu nhập cho hộ gia đình, và tăng quỹ phát triển dựa vào thôn bản.
Trong nhóm tiếp thị cộng đồng có các nhóm nhỏ như sau: nhóm tiếp thị cộng đồng,
nhóm giám sát, nhóm tài chính và kế toán, và tất cả các thành viên trong thôn đều là
thanh viên của nhóm. Một người trong hộ gia đình đại diện tham dự các cuộc họp
nhóm, để cùng tham gia trong quá trình ra quyết định và các quy định. Thông qua

nhóm này, tất cả các hộ gia đình đều tham gia vào các hoạt động tiếp thị và quản lý
5
.
Cấu trúc của các nhóm tiếp thị lâm sản ngoài gỗ trong thôn được thể hiện trong sơ đồ
sau:
5
ISHIKAWA Miyuki và DOUANGPHOSY Boonthavy. 2003
7
Community Based Forest Management for NTFPs
Nguồn: ISHIKAWA Miyuki và DOUANGPHOSY Boonthavy 2003
Trong các dự án Quản lý rừng bền vững và dự án Phát triển nông thôn, có nhu cầu
thành lập một tổ chức lâm nghiệp trong thôn (VFO). Một VFO về cơ bản gồm có: (1)
các thành viên VFO nói chung bao gồm những người đăng ký là thành viên của VFO,
và (2) tập hợp cán bộ những người cùng nhau lập nên Ủy ban lâm nghiệp thôn bản
(VFC) của VFO. Một VFC gồm có chủ tịch VFO, một thư ký, một thủ quỹ, và ít nhất
một người làm lâm nghiệp trong thôn. Nên có ít nhất một người phụ nữ là thành viên
trong VFC. Ngoài chủ tịch VFO, người đồng thời là trưởng thôn, những cán bộ VFO
khác nên được các thành viên trong VFO lựa chọn. Tiếp theo là thành lập các nhóm
trong thôn để phụ trách các hoạt động cụ thể của PSFM, ví dụ như điều tra rừng.
Những người trong thôn làm nghề rừng lập nên các nhóm với xác nhận của chủ tịch
VFO
6
.
Cơ cấu tổ chức của hội lâm nghiệp thôn được trình trong sơ đồ sau
7
:
6
Ministry of Agriculture and Forestry 2008
7
Ministry of Agriculture and Forestry 2001

8
Organizational Structure of Village Forestry Association
Community Based Forest Management for NTFPs
Ở Ratanakiri, Campuchia, ủy ban lâm nghiệp cộng đồng thôn bản (VCFC) và các ủy
ban lâm nghiệp cộng đồng xã (CCFC) được thành lập thông qua sự bầu cử dân chủ
của các thành viên của các thôn liên quan. Các thành viên của ủy bản lâm nghiệp cộng
động xã được lựa chọn từ các đại diện của ủy ban lâm nghiệp cộng đồng thôn. Nhiệm
vụ của VCFC tập trung vào việc tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý tài nguyên
thiên nhiên có sự tham gia trong thôn có liên quan, bao gồm có việc lập kế hoạch,
thực hiện, tuần tra, cũng như giải quyết xung đột trong thôn. Cơ cấu tổ chức ủy ban
lâm nghiệp cộng đồng thôn bản ở Ratanakiri, Campuchia được trình bày như sau:
9
Organizational Structure of Village Community Forestry
Committee in Ratanakiri, Cambodia
Community Based Forest Management for NTFPs
3.3 . Cơ chế chia sẻ lợi ích
8
Thuật ngữ "chia sẻ lợi ích" được hiểu khác nhau tùy theo mỗi người. Quản lý rừng
dựa vào cộng đồng có thể mang lại cho cộng đồng những lợi ích như sau:
• Thu nhập bằng tiền mặt từ bán tài nguyên hoặc từ công việc quản lý rừng dựa
vào cộng đồng.
• Những lợi ích không tính được bằng tiền như sử dụng nguồn tài nguyên phục
vụ cho cuộc sống đời thường, yên tâm hơn về quyền sử dụng các nguồn tài
nguyên, trao quyền hợp pháp của chính phủ cho các nhóm bị cách ly với xã
hội, nâng cao năng lực cộng đồng và học tập được từ các thành viên và các
nhóm, giữ gìn các giá trị văn hóa, tôn giáo gắn liền với tài nguyên thiên nhiên.
Đồng thời, lợi ích của những người tham gia vào quản lý rừng dựa vào cộng đồng là -
lợi ích về mặt môi trường, bao gồm cả việc duy trì các dịch vụ môi trường như bảo vệ
vùng phòng hộ đầu nguồn, tích lũy carbon, và bảo tồn đa dạng sinh học.
8

Mahanty, S. và các cộng sự. 2007
10
Cơ cấu tổ chức nhóm sử dụng rừng (FUGs) ở Nepal
Khác các cộng đồng có thứ bậc theo kiểu truyền thống thường gặp,
FUGs nâng cao tính dân chủ trong việc ra quyết định và các hoạt động tổ
chức. Quyền và trách nhiệm của các thành viên của FUG được thể hiện
trong quy chế, điều lệ và quy định. Tư cách thành viên của một nhóm
bao gồm các thành viên đại diện cho các hộ gia đình. Các thành viên
cùng tham gia vào Ban đại diện (một tổ chức hoạch định chính sách cao
nhất của FUG). Họ bầu ra các cán bộ tạo thành ủy ban thực thi hay ủy
ban của những người sử dụng rừng (FUC) có trách nhiệm quản lý hoạt
động của nhóm cùng với các quyết định kịp thời hơn.
Community Based Forest Management for NTFPs
Ngoài lợi ích nói trên, còn có khoản tiền hỗ trợ cho những người tham gia quản lý
rừng cộng đồng. Ví dụ, cộng đồng địa phương đồng ý sử dụng nguồn tài nguyên có
giới hạn, đồng ý cam kết thời gian vào các hoạt động quản lý rừng dựa vào cộng đồng
– đó là chi phí cơ hội cho việc người tham gia phải bỏ thời gian, công sức, đất đai, và
các tài nguyên khác để thực hiện quản lý rừng. Các chi phí cơ hội khác bao gồm:
• Thu thập thông tin để lập kế hoạch quản lý tài nguyên, các quyền hạn truyền
thống, các loại hình sử dụng tài nguyên hiện tại, những nguyên nhân dẫn đến
suy thoái nguồn tài nguyên, và các điều kiện xã hội.
• Xây dựng các quyền hạn của cộng đồng để sử dụng và quản lý một khu vực.
Ví dụ: các thủ tục trong quá trình đăng ký để thành lập nhóm sử dụng rừng,
hoặc để xin cấp giấy chứng nhận hợp pháp của nhà nước.
• Thỏa thuận về đề quản lý, bao gồm có việc xây dựng các quy định về quản lý,
ra soát lại quy định có trước, và dung hòa những tranh chấp nếu có;
• Phục hồi những nguồn tài nguyên đã bị suy thoái
• Kiểm tra việc tuân thủ các quy định, giám sát, bảo vệ
Đi đôi với hưởng lợi, các chi phí quản lý rừng dựa vào cộng đồng của các nhóm khác
nhau trong một cộng đồng có thể không đồng đều. Để hiểu được cơ chế chia sẻ lợi ích

này, đòi hỏi chúng ta phải xem xét ai là người phải trả phí, và số lượng chi phí tương
đối trên lợi ích của các nhóm khác nhau.
Có hai vấn đề chính được đề cập khi phân tích cơ chế chia sẻ lợi ích: Thông qua hoạt
động quản lý tài nguyên có sự của cộng đồng, lợi ích nào thực sự dành cho cộng
đồng? Lợi ích và chi phí sẽ được phân bổ như thế nào trong cộng đồng?
Các vấn đề về quản lý, điều kiện tài nguyên cũng như các điều kiện kinh tế xã hội
trong cộng đồng có thể đóng vai trò chủ chốt trong việc phân bổ chi phí và lợi ích.
Trong khi sự tổ chức quản lý cấp địa phương và các điều kiện kinh tế xã hội (các điều
kiên cộng đồng) có thể làm sáng tổ việc phân bổ lợi ích cấp cộng đồng, các điều luật
và chính sách, nhân tố liên quan đến tài nguyên có thể góp phần hiểu rõ dòng chảy lợi
ích vào cộng đồng.
11
Community Based Forest Management for NTFPs
Khung phân tích chia sẻ lợi ích
Dòng chảy lợi ích vào cộng đồng
Cần có kiến thức về các điều kiện quản lý (quyền sở hữu: cộng đồng có những loại
quyền nào?; và các điều luật và chính sách khác: có chính sách và điều luật hiện hành
hướng dẫn về dòng chảy lợi ích, thí dụ như: trả thuế và tiền quyền bản quyền; nếu có
các chính sách và điều luật liên quan thì tính khả kha và công bằng của chúng sẽ như
thế nào?; và các điều kiện tài nguyên (xác định điều kiện tài nào nằm dưới sự quản lý
của cộng đồng, thí dụ như như giá trị tài nguyên cao hay bị suy giảm?, và xác định
các mối liên quan đó đối với dòng chảy lợi ích?)
Phân bổ lợi ích trong cộng đồng
Cần có thông tin về cơ cấu quản lý cấp địa phương (các quyết định về chia sẻ lợi ích
được hình thành như thế nào? Và vai trò của các tổ chức địa phương hiện có và mới
thành lập trong phân bổ lợi ích là gì?) và các thông về điều kiện địa phương (điều kiện
cộng động ảnh hưởng như thế nào đên việc phân chia cơ chế hưởng lợi gồm có nội
lực, mối quan tâm, năng lực, trách nhiệm, và mối quan hệ khác nhau giữa các cá nhan
và các nhóm trong cộng đồng?
12

Community Based Forest Management for NTFPs
Cơ chế chia sẻ lợi ích trong quản lý tài nguyên thiên nhiên dựa vào cộng đồng ở
Cambodia
Để giải quyết vấn đề suy giảm tài nguyên rừng ở khu vực Tonle Sap, Siem Reap, một
dự án quản lý tài nguyên thiên nhiên có sự tham gia đã được thành lập với mục tiêu
nâng cao tinh thần trách nhiệm của người dân trong cộng đồng, duy trì tài nguyên
thiên thiên theo yêu cầu địa phương, và phát triển quá trình có sự tham gia để đạt
được mục tiêu tổng quát. Một Ủy ban lâm nghiệp cộng đồng đã được các thành viên
cộng đồng bầu chọn. 10% kinh phí được dành cho xã củng cố tinh thần trách nhiệm
và cơ cấu chia sẻ lợi ích, 90% được cộng đồng sử dụng trong việc trồng cây, bảo vệ
rừng, phát triển cơ sở hạ tầng, và hỗ trợ những người nghèo nhất trong xã. Cho tới
nay, khai thác đem lại lợi ích lớn nhất cho cộng đồng Siem Reap. Số tiền thu được đã
được sử dụng để xây trường học, đầu tư các hoạt động phát triển khác. Chia sẻ lợi ích
bao gồm việc đảm bảo sử dụng bền vững các sản phẩm rừng và lâm sản ngoài gỗ
(NTFPs) theo cách truyền thống, quản lý thương mại, và phân bổ lợi ích trực tiếp và
gián tiếp. Ngoài ra, cũng cần phải thiết lại nguồn tài nguyên rừng để đảm bảo nó có
tính bền vững lâu dài.
Các yếu tố chính xác định sự thành trong chia sẻ lợi ích của quản lý tài nguyên thiên
nhiên dựa vào cộng đồng ở Campuchia được trình bày như sau:
13
Community Based Forest Management for NTFPs
Chia sẻ lợi ích trong quản lý tài nguyên thiên nhiên dựa vào cộng đồng tại Lào
Ở Lào, người ta đã tiến hành thử nghiệm các hệ thống khác nhau trong quản lý rừng
bền vững và việc phân chia lợi ích về sự tham gia của cộng đồng. Tuy nhiên, Bộ
Nông và Lâm nghiệp đã đưa ra các quy định về cơ chế chia sẻ lợi ích của những
người tham gia trong quản lý rừng bền vững. Trong đó, phần thu nhập cố định của
chủ sở hữu rừng từ việc khai thác gỗ được nộp cho ngân sách quốc gia, phần thu nhập
dư ra từ bán gỗ sẽ được phân chia như sau:
• 30% dành cho ngân sách nhà,
• 20% cho quỹ phát triển rừng quốc gia,

• 25% để thực hiện kế hoạch quản lý rừng và
• 25% cho quỹ phát triển địa phương.
Nguồn thu từ lâm sản ngoài gỗ rất khó kiểm soát. Người dân trong thôn thu được
nhiều lợi ích từ lâm sản ngoài gỗ, việc phân chia nguồn tài nguyên này trong cộng
đồng phụ thuộc chủ yếu vào việc thu hái lâm sản ngoài gỗ của từng người. Do đó, lâm
sản ngoài gỗ có tiềm tăng lớn trong việc tạo thu nhập và bảo đảm lương thực cho hộ
gia đình. Những kinh nghiệm ở Lào cho thấy, bằng cách thêm giá trị cho các chuỗi
bán hàng thông qua khâu chế biến, tiếp thị nhóm, có khả năng sẽ mang lại lợi ích
nhiều hơn cho cộng đồng và để tạo ra các lựa chọn mới trong chia sẻ lợi ích giữa các
bên liên quan. Kết quả là nó sẽ khuyến khích cộng động và các nhóm hưởng lợi khác
quản lý nguồn tài nguyên NTFPs bền vững.
Chia sẻ lợi ích trong quản lý tài nguyên thiên nhiên dựa vào cộng đồng ở Việt Nam
Qúa trình quản lý rừng cộng đồng đề xuất ra một số cơ chế chia sẻ lợi ích dựa trên
quyết định của cộng đồng thông qua việc xây dựng các quy định bảo vệ rừng. Khi sử
dụng các sản phẩm NTFPs cần phải trả phí quản lý cho cho chủ sở hữu từ 5-25% tùy
thuộc vào loài. Chủ sở hữu rừng cộng đồng và rừng cá nhân thu 100% giá gỗ từ
rừng đã được trồng (chủ quản lý chung phải trả 2% thuế). Đối với “rừng nghèo”, giá
14
Community Based Forest Management for NTFPs
gỗ trong rừng sẽ được tính toán dựa theo số năm mà rừng được bảo vệ. Đối với gỗ
thương phẩm, giá thuế là 15-45% tùy thuộc theo loài. Chủ sở hữu rừng tự nhiên có
thể giữ 2% giá trị gỗ thu được kể từ khi rừng được giao
9
.
Chia sẻ lợi ích gỗ thương phẩm khai thác trong rừng cộng đồng được phân chia như
sau
10
:
9
MAHANTY, S. và các cộng sự. 2009

10
Bao Huy. 2007
15
Community Based Forest Management for NTFPs
3.4. Sở hữu và quyền sở hữu đất
Sở hữu được định nghĩa là các quyền mà một người hay một cộng đồng nắm giữ về
đất, cây hay các nguồn lực khác. Sở hữu tài nguyên gồm các mối quan hệ xã hội, các
tổ chức cầm quyền tiếp cận, sử dụng đất và các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Vì vậy,
sở hữu tài nguyên xác định người được phép sử dụng tài nguyên theo một cách nào
đó và ở một thời điểm nào đó.
Ngoài ra, việc sở hữu xác định người có quyền chuyển giao quyền sử dụng tài nguyên
cho người khác.
Sở hữu đất là mối quan hệ giữa con người với con người, là cá nhân hay nhóm tập thể
về mặt pháp lý hay phong tục tập quán với nguồn tài nguyên đất và các nguồn tài
nguyên thiên nhiên có liên quan. Sở hữu đất là một thể chế, ví dụ như các quy định
được cộng đồng đề ra để điều chỉnh hành vi của các thành viên. Các điều luật về sở
hữu quy định rõ cách giao quyền sử dụng đất trong cộng đồng. Các điều luật quy định
16
Example of Benefit Sharing from Commercial Timber from Bu Nor
Community Forestry, Quang Tam commune, Tuy Duc district,
Dak Nong province.
Community Based Forest Management for NTFPs
rõ cách tiếp cận quyền sử dụng, quyền kiểm soát, và quyền chuyển giao đất đai và
các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác, cũng như trách nhiệm và các hạn chế liên
quan. Một cách đơn giản là hệ thống sở hữu đất xác định rõ người có thể sử dụng các
nguồn tài nguyên trong thời hạn, và điều kiện xác định.
Sở hữu đất là một phần quan trọng trong cấu trúc xã hội, kinh tế và chính trị. Nó là đa
chiều. Nó phát huy khía cạnh xã hội, kỹ thuật, kinh tế, thể chế, pháp lý và chính trị,
những khía cạnh thường bị bỏ qua, nhưng lại cần phải đưa vào các điều khoản quy
định. Những mối liên hệ trong sở hữu đất có thể được làm rõ và thi hành tại một tòa

án pháp luật chính thức hoặc theo tập quán văn hóa của cộng đồng.
Sở hữu đất đai thường được phân chia như sau:
• Sở hữu tư nhân: những người sở hữu tư nhân về đất có quyền sử dụng đất đai
của họ theo quy định của cộng đồng. Sở hữu tư nhân không nhất thiết ám chỉ
một cá nhân, mà một gia đình, một tổ chức thôn bản hoặc các đơn vị tập thể
khác. Do đó, sở hữu tư nhân là không đồng nghĩa với quyền sở hữu cá nhân và
hoàn toàn không đối lập với tài sản chung. Quyền sở hữu tư nhân đầy đủ bao
gồm quyền chuyển nhượng tài nguyên cho người khác (quyền chuyển
nhượng) và quyền không cho người khác sử dụng tài nguyên đó (độc quyền).
• Sở hữu cộng đồng: chế độ sở hữu cộng đồng (có thể là một gia tộc hoặc đơn
giản là một nhóm sở thích) với số lượng thành viên hạn chế và độc quyền
trong sử dụng tài nguyên. Nhóm/cộng đồng này có quy định về sử dụng tài
nguyên của các thành viên trong nhóm bằng cách thống nhất một số quy tắc và
giới hạn. Hầu hết các chế độ sở hữu tập thể có liên quan đến việc quản lý và
quyền không cho nguời khác sử dụng tài nguyên nhưng không có quyền được
bán những quyền này cho những người không phải là thành viên của
nhóm/cộng đồng.
• Sở hữu Nhà nước: chế độ sở hữu nhà nước là kết quả của việc quốc hữu hóa
sở hữu tập thể và cá nhân. Trong sở hữu nhà nước, các quyền sở hữu tập thể
hay cá nhân được xác định bằng việc kiểm soát các tổ chức như các cơ quan
hành chính lâm nghiệp. Người sử dụng có nghĩa vụ tuân thủ việc sử dụng và
tiếp cận các quy định của pháp luật.
17
Community Based Forest Management for NTFPs
• Tiếp cận mở: là kết quả của việc thiếu một hệ thống quản lý mà trước kia đã
giới thiệu và thi hành các quy định giữa những người sử dụng tiềm năng một
nguồn tài nguyên xác định. Tiếp cận mở là kết quả của sự sụp đổ của chế độ
sở hữu tập thể hay chế độ sở hữu nhà nước yếu kém. Trong những tình huống
tiếp cận mở, không được cộng động kiểm soát việc sử dụng và khai thác quá
mức có thể. Dưới chế độ sở hữu nhà nước, một chế độ tiếp cận mở trên thực

tế thường xảy ra khi cơ quan nhà nước thiếu nhân sự và thiếu phương tiện để
thực thi pháp luật.
Trong thực tế, cá nhân hay một nhóm người khác nhau có thể sở hữu các quyền khác
nhau. Điều này làm tăng khái niệm “bó quyền”. Các quyền khác nhau, chẳng hạn như
quyền bán đất, quyền sử dụng đất thông qua một hợp đồng thuê, hoặc quyền đi lại
trên các vùng đất, các quyền đó có thể được hình tượng hóa như "đũa trong bó", và
mỗi bên khác nhau sở hữu một quyền. Các bó quyền có thể được chia sẻ giữa chủ sở
hữu và người thuê đất để tạo ra một hợp đồng cho phép những người thuê đất có
quyền sử dụng đất theo những điều khoản và điều kiện cụ thể.
Giải thích việc tiếp cận đất đai đôi khi rất hữu ích, bao gồm việc tiếp cận các quyền sử
dụng (quyền sử dụng đất để trồng cây nông nghiệp trong gia đình, quyền thu thập các
sản phẩm lâm sản phụ…), tiếp cận quyền kiểm soát (quyền ra quyết định về cách nên
sử dụng các nguồn tài nguyên như thế nào và hưởng lợi tài chính từ việc bán các loại
cây trồng,…), và tiếp cận quyền chuyển nhượng (quyền sử dụng đất thế chấp khoản
vay, quyền bán đất…). Vấn đề tiếp cận đất đai của người nghèo ở nông thôn thường
dựa vào văn hóa. Ví dụ các quyền về đất đai theo theo văn hóa truyền thống của các
cộng đồng bản địa thường được tạo ra theo các truyền thống của họ và thông qua các
cách mà những người lãnh đạo cộng đồng giao quyền sử dụng đất cho các thành việc
trong cộng đồng qua thời gian.
Quyền sở hữu đất đảm bảo chắc chắn rằng quyền về đất đai của một người sẽ được
công nhận bởi những người khác và được bảo vệ trong những trường hợp cụ thể.
Những người không có quyền sở hữu đất phải đối mặt với các vấn đề rủi ro. Quyền
đất đai của họ sẽ bị đe dọa do tranh chấp đất, và thậm chí bị mất đất hay thu hồi đất.
Không có sự đảm bảo quyền sử dụng đất, các hộ gia đình bị giảm đáng kể khả năng
đảm bảo đủ lương thực và để tận hưởng sinh kế nông thôn bền vững.
18
Community Based Forest Management for NTFPs
Đảm bảo quyền sở hữu đất liên quan đến thời gian sở hữu đất, trong trường hợp cần
thời gian để thu hồi chi phí đầu tư. Vì vậy, người có quyền sử dụng đất trong thời hạn
ngắn (6 tháng) sẽ không trồng cây dài ngày, hoặc sử dụng các biện pháp ngăn chặn

xói mòn đất, bởi vì thời gian là quá ngắn để người đó hưởng lợi được từ đầu tư. Sử
dụng đất dài hạn cũng không được đảm bảo ngay cả khi nó đảm bảo trong những
trường hợp ngắn hạn.
Sử dụng đất là một yếu tố quản trọng để xác định mục tiêu và sự thành công của quản
lý lâm sản ngoài gỗ dựa vào cộng đồng (lựa chọn các loài cây lâm sản ngoài gỗ…)
Ở Campuchia, Luật Đất đai phân chia đất thành ba loại đất: Đất chung thuộc nhà
nước sở hữu , đất tư nhân do nhà nước sở hữu và đất cá nhân
11
.

• Đất tư nhân: tư nhân sử dụng đất bao gồm tất cả đất ở, vườn, ruộng lúa, đất
canh tác, theo sở hữu truyền thống. Đất tư nhân có được là do sử dụng đất
truyền thống khi đất đó đã được sử dụng hơn 5 năm.
• Đất chung của nhà nước: là tất cả đất đai có nguồn gỗ tự nhiên như rừng,
nguồn nước, các khu bảo tồn thiên nhiên, các khu vực công ích…cần được bảo
vệ đặc biệt. Đất chung của Nhà nước không được cho thuê, bán, chuyển
nhượng cho các tổ chức pháp nhân khác.
• Đất tư nhân của nhà nước: đất tư nhân của nhà nước là tất cả các loại đất khác,
nó không phải là đất sở hữu tư nhân hay đất chung của nhà nước. Trên thực tế,
điều này thường bao gồm phần diện tích lớn nhất của một làng hoặc một xã.
Rừng thứ sinh hoặc rừng bị suy thoái, các ao, hồ chính, các khu canh tác và
trồng rừng trên cao đều là đất tư nhân của nhà nước (đất không được giao theo
pháp lý). Trong đất tư nhân của nhà nước, chính phủ có thể cho phép quyền
chuyển nhượng về kinh tế, xã hội.
Ở Việt Nam có tám nhóm sử dụng đất khác nhau:
11
Kalyan Hou và các cộng sự. 2004
19
Community Based Forest Management for NTFPs
Các hộ gia đình cá thể: Quản lý rừng theo các hộ gia đình không tồn tại trong quá

khứ, không có trong luật hay trong thực tế. Hình thức sử dụng này chỉ được giới thiệu
ở hai tỉnh thông qua FLA.
Các cộng đồng: trong quản lý rừng dựa vào cộng đồng, các nhóm dân tộc thiểu số có
các hình thức quản lý khác nhau. Người ta cho rằng quản lý rừng cộng đồng theo
truyền thống (CFM) vẫn còn tồn tại trong hầu hết các thôn bản truyền thống, mặc dù
trên thực tế, nó có thể đã bị ảnh hưởng từ bên ngoài. Ở Đắc Lắc, FLA thiết lập một
hình thức quản lý rừng cộng đồng được công nhận hợp pháp. Cộng đồng đó có thể là
toàn bộ một thôn bản hoặc đơn giản chỉ là một nhóm từ 5 đến 10 hộ gia đình. Sự khác
biệt lớn giữa hình thức quản lý rừng cộng đồng truyền thống và hình thức này là sau
khi là sử dụng đất có tên chủ theo văn bản đảm bảo việc công nhận về mặt pháp lý
quyền và lợi ích của các thành viên trong cộng đồng có liên quan đến nguồn tài
nguyên rừng.
Ủy ban nhân dân xã (CPCs): là tổ chức trông coi tạm thời những khu vực rừng mà
trước đây các lâm trường quốc doanh quản lý. Đó là quá trình giao đất cho các hộ gia
đình hoặc các nhóm cộng đồng quản lý. Do đó, Ủy ban nhân dân xã không có đủ
quyền sử dụng các khu vực rừng được giao. Trong thực tế, các khu vực như vậy
thường chuyển thành khu vực không chính thức “tiếp cận mở”, bởi vì rất nhiều Ủy
ban nhân dân các xã thiếu cán bộ để giám sát khu vực đó.
Ban quản lý rừng phòng hộ( MB-PFs) là tổ chức nhà nước có nhiệm vụ chính quản
lý các diện tích rừng được phân chia theo mục đích phòng hộ. Ban quản lý rừng
phòng hộ nhận được tài trợ của nhà nước (chủ yếu là từ chính quyền tỉnh) để quản lý
rừng.
Ban quản lý rừng đặc dụng (MB-SUFs ): tương tự như Ban quản lý rừng phòng hộ,
Ban quản lý rừng phòng hộ đặc dụng cũng được thành lập và điều hành bởi nhà nước.
Tuy nhiên, Ban quản lý rừng đặc dụng tập trung vào quản lý các khu rừng bảo tồn (ví
dụ như diện tích rừng được xem như là có giá trị đa dạng sinh học cao, có ý nghĩa văn
hóa).
Các công ty nhà nước (SOCs), trước đây gọi là doanh nghiệp lâm nghiệp nhà nước,
được thành lập và thuộc sở hữu của nhà nước. Nhiệm vụ chính của công ty là quản lý
và thương mại hóa các khu vực rừng được giao cho công ty. Nhóm sử dụng này gần

đây đã trải qua một quá trình đổi mới.
20
Community Based Forest Management for NTFPs
Công ty liên doanh (JVCs): quản lý các khu rừng bao gồm các công ty nhà nước và
các công ty thuộc sở hữu tư nhân. Họ có trách nhiệm bảo vệ an toàn các khu rừng
phòng hộ và thương mại hóa các rừng sản xuất được giao.
Các lực lượng vũ trang: Các lực lượng vũ trang chủ yếu là phụ trách khu vực rừng
được sử dụng cho mục đích an ninh quốc gia.
Ở Lào, đất thuộc sở hữu của quốc gia, trong đó Nhà nước có trách nhiệm và quản lý
tập trung thống nhất trong cả nước bằng việc giao đất có các cá nhân, hộ gia đình và
các tổ chức kinh tế sử dụng, cho thuê hoặc nhượng quyền cho các lực lượng vũ trang,
các tổ chức nhà nước, các tổ chức chính trị, Mặt trận xây dựng đất nước Lào, và các
tổ chức đoàn thể sử dụng, chuyển nhượng cho các tổ chức và cá nhân nước ngoài cho
thuê hoặc nhượng quyền
12
.
3.5. Vấn đề giải quyết về xung đột tài nguyên
Xung đột là một mối quan hệ giữa hai bên hoặc nhiều bên đối lập cho dù có bạo
lực hay không, dựa trên sự khác biệt về thực tế hay nhận thức về nhu cầu, lợi ích
và mục tiêu. Xung đột là một phần thông thường trong sự tương tác của con
người, và nhiều cuộc tranh chấp được giải quyết hiệu quả
13
.
Xung đột thường phức tạp. Thường thì những mâu thuẫn trong sử dụng tài nguyên
rừng có nhiều nguyên nhân và xảy ra ở các cấp độ khác nhau, liên quan đến nhiều cá
nhân, các nhóm và tổ chức khác nhau. Họ có những giai đoạn phát triển khác nhau, và
có thể khu vực của họ được mở rộng về mặt địa lý, xã hội và chính trị quy mô. Các
cuộc xung đột về quản lý rừng dựa vào cộng đồng thường xuất phát từ bên trong và
giữa các cộng đồng, và giữa các cộng đồng với những người bên ngoài. Những người
12

Government of Laos 2003
13
FAO 2002
21
Community Based Forest Management for NTFPs
bên ngoài có thể là các cộng đồng láng giềng, các tổ chức chính quyền địa phương và
các tổ chức phi chính phủ.
Nhiều người coi "xung đột" la tiêu cực, là một cái gì đó là "xấu" và cần phải tránh.
Kết quả của xung đột có thể là một kìm hãm lớn đối với cộng đồng. Nếu bỏ qua xung
đột và cho phép leo thang, nó có thể ngăn ngừa tích cực, những thay đổi xã hội cần
thiết và có thể dẫn đến suy thoái tài nguyên hơn nữa. Tệ hơn, nó có thể phá hủy sự
hợp tác và các mối quan hệ lâu dài cần thiết cho sự thành công trong quản lý rừng
cộng đồng.
Ngoài ý nghĩa tiêu cực, xung đột là một phần bình thường và phổ biến của đời sống
xã hội và chính trị. Điều căn bản là cách chúng ta làm việc theo cộng đồng và liên hệ
với các các mối quan tâm và các lực lượng bên ngoài như thế nào. Xung đột có thể có
kết quả mang tính xây dựng và tích cực, tùy thuộc vào cách chúng ta xử lý nó. Xung
đột có thể là chất xúc tác quan trọng cho sự thay đổi xã hội. Nó cảnh báo chúng ta
rằng:
• Vấn đề bất bình đẳng;
• Mất tiềm năng hoặc những tác động không thể chấp nhận;
• Những tiềm năng trở ngại cho sự tiến bộ;
• Nhu cầu hoặc mong muốn của cộng đồng đòi quyền, lợi ích và sự ưu tiên.
Xung đột có thể làm cho các vấn đề không rõ ràng nhìn thấy và nếu được giải quyết
có hiệu quả, nó có thể giúp xác định nguồn gốc của các vấn đề và đề xuất các giải
pháp mang tính ổn định và trật tự.
Điều quan trọng là phải giải quyết tranh chấp khi nó bắt đầu ảnh hưởng đến cách mọi
người hành động hoặc đưa ra quyết định. Ở giai đoạn này, mâu thuẫn chỉ đơn giản là
một mối đe dọa tiềm năng, nó ẩn trong quan hệ của cộng đồng với người khác. Ở các
hình thức khác, xung đột đang nổi lên, ngày càng trở nên rõ ràng theo thời gian. Nó

có thể bắt đầu từ một vấn đề nhỏ nhưng sau đó bắt đầu phát triển. Nó có thể phát triển
nhanh chóng bởi một vài sự kiện quan trọng. Chính bởi sự gia tăng khác biệt, xung
đột trở nên rõ nhất, một vấn đề lớn không thể tránh được.
22
Community Based Forest Management for NTFPs
Mặc dù quy mô và cường độ có thể khác nhau, song hầu hết các cuộc xung đột về
quản lý rừng dựa vào cộng đồng đều tập trung vào việc đảm bảo quyền tiếp cận tài
nguyên rừng và đất rừng yêu cầu theo số lượng hoặc chất lượng. Người quản lý và sử
dụng tài nguyên thường bất đồng về:
• Các vấn đề sở hữu và quyền sử dụng;
• Các quy định thu hoạch;
• Vấn đề cạnh tranh với những người sử dụng khác về một nguồn tài nguyên
giới hạn;
• Vấn đề sử dụng không bền vững;
• Sự không công bằng trong phân chia lợi ích.
Xác định các yếu tố khác nhau trong xung đột, hiểu được cách các tình huống thay đổi
theo thời gian như thế nào và có thể thiết lập ranh giới là những bước đầu tiên quan
trọng nhất trong việc quản lý một xung đột. Phân tích xung đột giúp các bên liên quan
hiểu được việc xung đột một cách tốt hơn và quyết định làm thế nào là tốt nhất để
hành động. Trong phân tích xung đột chúng ta bắt đầu xem xét các nguyên nhân, bối
cảnh và những người liên quan. Các bên liên quan tìm hiểu vấn đề quan trọng để giúp
họ xác định phương pháp thích hợp nhất để quản lý các xung đột. Phân tích xung đột
nên tìm cách:
• Làm rõ các vấn đề cần được giải quyết;
• Xác định các tác động của xung đột;
• Xác định và dành ưu tiên những nguyên nhân của cuộc xung đột;
• Xác định các bên liên quan và lợi ích của họ, nhu cầu và quan điểm về cuộc
xung đột;
• Xem xét cụ thể các yếu tố đặc biệt tạo thành xung đột (Ví dụ: chính sách, văn
hóa, giới tính);

• Xác định các thông tin về xung đột đang tồn tại và những thông tin cần thiết;
• Xây dựng mối quan hệ và sự hiểu biết giữa các bên liên quan, nếu có thể
• Tăng cường giải quyết vấn đề và kỹ năng phân tích của các bên liên quan ở địa
phương trong việc giải quyết các cuộc xung đột hiện tại và tương lai;
• Tăng cường sự hiểu biết về mối liên hệ trong trong bối cảnh về mặt xã hội,
chính trị , kinh tế và xung đột trong sử dụng tài nguyên rừng.
23
Community Based Forest Management for NTFPs
Chúng ta cần phải lưu ý rằng các vấn đề khác nhau có thể gây ra xung đột khác nhau
và các phản ứng khác nhau sẽ dấn tới xung đột. Các vấn đề thường rơi vào một trong
năm loại nói chung.

Các dạng vấn đề đó tạo nên xung đột
Các dạng vấn đề Các yếu tố
Xung đột về lợi ích
• Xung đột về các nhu cầu và mong muốn khác nhau,
chia sẻ về lợi ích và sử dụng tài nguyên
• Bao gồm vấn đề nhận thức và cạnh tranh thực tế về
lợi ích
• Xung đột có thể xuất hiện từ một nhận thức hoặc từ
vấn đề thiếu sự chia sẻ lợi ích trên thực tế
Các vấn đề về thông tin
• Xung đột do thiếu thông tin hoặc sự khác biệt trong
giải thích các thông tin
• Có thể liên kết với các phương pháp khác nhau trong
đánh giá hoặc giải thích thông tin
• Ít giao tiếp (lắng nghe hay truyền đạt) hoặc việc
truyền đạt sai lệch giữa các bên tranh chấp
Các dạng vấn đề tạo nên xung đột (tiếp)
Dạng vấn đề Các yếu tố

Khó khăn trong mối quan
hệ
• Sự khác biệt trong tính cách và cảm xúc, cũng như
trong nhận thức sai lầm giữa các bên, trong khuôn
mẫu và định kiến
• Các hành vi không phù hợp (thói quen, phương
pháp, phong cách), khác nhau về kỳ vọng, thái độ và
cách tiếp cận để giải quyết vấn đề
• Lịch sử của cuộc xung đột và những cảm nhận
không tốt giữa các bên
Các vấn đề về cấu trúc
• Các ý tưởng khác biệt về quy trình quản lý phù hợp,
quy tắc, vai trò và quyền lực; có thể đưa ra trong các
hội nghị của các ủy ban hoặc các tổ chức
• Nhận thức hay bất bình đẳng trong thực tế hoặc
không công bằng về quyền lực, kiểm soát, quyền sở
hữu hoặc các cấu trúc ảnh hưởng đến việc tiếp cận
hoặc phân bổ các nguồn lực.
24
Community Based Forest Management for NTFPs
• Những yếu tố cản trở sự hợp tác như quá trình ra
quyết định và trách nhiệm, sử ràng buộc về thời
gian, địa lý hoặc những sắp đặt mang tính tự nhiên.
Xung đột về các giá trị
• Những khác biệt về mặt văn hóa, xã hội hay tín
ngưỡng cá nhân hoặc những quan điểm khác nhau
trên thế giới và khác nhau theo truyền thống
• Có thể bao gồm các mục tiêu khác nhau, những kỳ
vọng hoặc giả định việc phản ánh lịch sử riêng và
vấn đề giáo dục

Có các công cụ khác nhau để kiểm tra nguyên nhân của cuộc xung đột bao gồm: phân
tích các bên liên quan, phân tích nguồn gốc của nguyên nhân, phân tích các vấn đề
xung đột theo thời gian, lập bản đồ và các nguồn lực. Cách thức mà con người (ngay
cả những người cùng trong một cộng đồng hoặc một tổ chức) phản ứng với các xung
đột rất khác nhau, nhưng mặc dù các chiến lược cụ thể có thể khác nhau, song người
ta thường dựa vào các phương thức cơ bản giống nhau để xử lý xung đột. Họ có thể
quyết định:
• Hành động riêng biệt;
• Cùng nhau đưa ra quyết định;
• Tuân thủ quyết định của bên thứ ba như tòa án hoặc người quản lý.
Cách giải quyết xung đột có thể chính thức hoặc không chính thức, bạo lực hay không
bạo lực, công bằng hay không công bằng. Các hành động phản ứng dựa vào cách tiếp
cận toàn diện xung đột. Bảng sau đây miêu tả khái quát một số phản ứng có thể xảy
ra.
Các đặc điểm phản ứng của những xung đột khác nhau
Các phản ứng
Các đặc điểm
Vũ lực
• Sự áp đặt lợi ích của một nhóm lên những người khác
• Điều này có thể liên quan đến bạo lực, mối đe dọa, phiền nhiễu,
sử dụng sức mạnh siêu nhiên, áp lực đe dọa, sự trừng phạt kinh
tế và chính trị, và những áp lực bằng các phương tiện truyền
thông đại chúng
• Tạo ra thái độ thù địch và oán giận
• Kết quả của xung đột vũ trang không chắc chắn
• Các bên liên quan không có quan tâm trong việc duy trì một
25

×