Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

5 câu hỏi về thiếu máu docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.46 KB, 10 trang )

5 câu hỏi về thiếu máu

Gan động vật là loại thực phẩm chứa nhiều sắt

Các khảo cứu tại nhiều quốc gia cho thấy, thiếu máu
do thiếu sắt chiếm tới 95% các trường hợp thiếu máu
dinh dưỡng
 Bệnh thiếu máu
 Món ăn điều trị thiếu máu
 Nhận biết chứng thiếu máu ở trẻ
 Những món ăn dành cho trẻ bị thiếu máu
 Sắt & ảnh hưởng của việc thiếu sắt đối với cơ thể
1. Thiếu máu do thiếu sắt là bệnh lý phổ biến
trong cộng đồng?
- Thiếu máu là tình trạng bệnh lý xảy ra khi có sự
thiếu hụt về kích thước và số lượng hồng cầu hoặc
giảm sổ lượng huyết cầu tố trong hồng cầu. Hậu quả
của bệnh lý thiếu máu là làm giảm sự trao đổi dưỡng
khí và thán khí giữa máu và các tế bào cơ thể, làm
suy giảm chất dinh dưỡng cung cấp cho các mô tế
bào. Có nhiều dạng thiếu máu:
+ Thiếu máu do thiếu một hay nhiều chất dinh dưỡng
cần thiết cho quá trình tạo hermoglobin, như sắt,
vitamin B12, a-xít folic hay vi khoáng đồng.
+ Thiếu máu do băng huyết, các bệnh hủy hoại máu
trong bệnh ung thư bạch cầu, trong một số bệnh
nhiễm, do ký sinh trùng, tác dụng của dược phẩm,
hóa chất
Theo tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế Thới giới (WTO)
thiếu máu xảy ra khi lượng huyết cầu tố ở dưới mức
11mg/100ml máu đối với trẻ em từ 6 tháng đến 6


tuổi; dưới 12mg/100ml máu đối với trẻ từ trên 6 tuổi
đến 14 tuổi; 13mg/100ml máu ở nam giới và 12mg ở
phụ nữ. Đối với phụ nữ mang thai là dưới
11mg/100ml máu.
Các khảo cứu tại nhiều quốc gia cho thấy, thiếu máu
do thiếu sắt chiếm tới 95% các trường hợp thiếu máu
dinh dưỡng. Tại các nước phát triển như Mỹ, tỷ lệ
thiếu máu do thiếu sắt chiếm 25% trẻ sơ sinh, 30%
phụ nữ mang thai, 15% phụ nữ trong thời kỳ hành
kinh và 12% ở các cháu tuổi đang lớn. Tại nhiều
nước nghèo, tỷ lệ thiếu máu do thiếu chất sắt lên tới
60% phụ nữ và trẻ em đang tuổi lớn. Ở Việt Nam có
tới 60% trẻ em từ 6 tháng đến 24 tháng và khoảng
40% phụ nữ có thai bị thiếu máu dinh dưỡng. Thiếu
máu do thiếu chất sắt có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi và
giới tính, từ trẻ sơ sinh đến các cháu đang lớn và ở
người có tuổi và đặc biệt là ở phụ nữ.

Cơ thể con người không thể tự tổng hợp được sắt, thế
nên sắt được cung cấp từ nguồn thực phẩm (ảnh
minh họa)
Thiếu máu có ảnh hưởng tiêu cực tới sức khỏe cộng
đồng như giảm khả năng lao động, giảm khả năng tập
trung học tập, trẻ thiếu máu sẽ thiếu năng lượng cho
việc học tập, vui chơi ảnh hưởng tới kết quả học tập
và phát triển trí tuệ, ở phụ nữ - làm gia tăng nguy cơ
tử vong thai phụ và trẻ em sinh ra có nguy cơ mắc
bệnh cao, yếu ớt, chậm phát triển.
2. Những nguyên nhân và triệu chứng thiếu máu
do thiếu sắt

Nguyên nhân dẫn tới bệnh lý thiếu máu do thiếu sắt
có thể là, thiếu chất sắt do chế độ ăn - uống không
hợp lý, thiếu những thực phẩm giàu chất sắt, cơ thể
không hấp thụ được chất sắt do bệnh tiêu hóa như
tiêu chảy, thiếu một số a-xít trong dạ dày, bệnh
đường ruột, dưới tác dụng của tân dược như các loại
thuốc chữa loét dạ dày tagamet, zantac hay kháng
sinh tetracyline làm giảm dịch vị a-xít trong dạ dày;
không sử dụng chất sắt trong trường hợp mắc bệnh dạ
dày kinh niên; gia tăng nhu cầu sắt để tăng khối
lượng máu ở tuổi đang lớn, có thai, nuôi con bằng
sữa mẹ, thất thoát máu do băng huyết vì thương tích,
loét dạ dày, bệnh trĩ, ung thư đường ruột, ký sinh
trùng ruột hay khi có kinh nguyệt.
Khi bị thiếu máu thường có những triệu chứng như lơ
đễnh, trạng thái mệt mỏi, khó thở khi làm việc nặng,
tim đập mạnh, đau đầu, rối loạn giấc ngủ, đau lưỡi và
vòm họng gây khó nuốt thức ăn, móng tay mỏng và
phẳng, tóc hay rụng và dễ gãy. Một triệu chứng đặc
biệt là bệnh nhân thích ăn đất sét, nước đá cục, mảnh
vụn sơn tường. Triệu chứng thiếu máu do thiếu chất
sắt rất đa dạng, tác động tới tất cả các bộ phận của cơ
thể và các triệu chứng này không rõ ràng và dễ nhầm
lẫn ngay với cả bác sĩ - đặc biệt người bệnh là phụ
nữ. Để chẩn đoán chính xác thiếu máu, cần đến cơ sở
y tế chuyên khoa để làm các xét nghiệm.
3. Vai trò của sắt đối với con người và cách dùng
thực phẩm chứa sắt phòng ngừa bệnh thiếu máu
Trong cơ thể con người có khoảng 5-6g chất sắt,
liên kết với nhiều protein khác nhau. Khoảng 2/3



lượng sắt nằm trong huyết cầu tố và protein trong
hồng cầu. Sắt tham gia vào quá trình tổng hợp hồng
cầu và là thành phần của huyết cầu tố, giúp chuyên
chở dưỡng khí đi nuôi các tế bào và giúp loại bỏ thán
khí ra khỏi cơ thể; chất sắt cũng là thành phần của
nhiều loại en-zym trong hệ miễn dịch để chống
nhiễm vi khuẩn. Sắt còn giúp chuyển hóa là beta-
carotene thành sinh tố A, tạo ra chất collegene để liên
kết các tế bào với nhau. Sắt còn có chức năng dự trữ
ô-xy cho cơ bắp, vô hiệu hóa một số thành phần lạ
xâm nhập vào cơ thể, tham gia tổng hợp các hoóc-
môn tuyến tiền liệt.
Cơ thể con người không thể tự tổng hợp được sắt, thế
nên sắt được cung cấp từ nguồn thực phẩm. Có hai lại
chất sắt: Một là chất sắt heme (heme iron) có trong
các loại thực phầm nguồn gốc động vật như thịt lợn,
thịt gà, thịt bò, gan động vật và các loại hải sản, mà
cơ thể hấp thụ được khoảng 10-15%, còn loại sắt
nonheme (nonheme iron) cps trong các loại thực
phẩm nguồn gốc thực vật như rau bông cải, súp lơ
xanh, quả đậu, bánh mì đen và trái cây như mơ, quả
bơ, lạ, hạt hướng dương, hạt bí ngô có thể chỉ có
thể hấp thụ được khoảng 2-3%. Do vậy, khi chọn lựa
thực phẩm trong phòng ngừa thiếu chất sắt, điều quan
trọng không phải là hàm lượng sắt có trong thực
phẩm là bao nhiêu mà là nguồn gốc thực phẩm. Có
rất nhiều yếu tố tác động tới mức độ hấp thụ chất sắt
từ thực phẩm của cơ thể con người. Các chất xơ thực

phẩm, chất tanin, can-xi, đồng và thiếc, hợp chất
polifenole có chứa trong cám, đậu phụ, nước chè
xanh, cà phê, lạc, các loại đậu, sô cô la sữa, sữa bò và
pho-mát làm giảm khả năng hấp thụ chất sắt của cơ
thể. Để gia tăng khả năng hấp thụ chất sắt từ thực
phẩm nên dùng những thực phẩm giàu vitamin C và
axit citric như cam, quýt, lê, táo, dứa, mận, chuối,
soài, dưa, bắp cải muối chua, khoai tây, củ cải, bí
ngô, súp lơ xanh.
4. Nhu cầu chất sắt hàng ngày của con người là
bao nhiêu?
Chất sắt là thành phần dinh dưỡng không thể thiếu và
không thể thay thế được đối với sức khỏe con người.
Nhu cầu hàng ngày của cơ thể để đảm bảo không xẩy
ra tình trạng thiếu máu là khoảng 1mg cho cả nam
giới và nữ giới (không trong chu kỳ hành kinh); đối
với phụ nữ trong chu kỳ hành kinh cần được tăng lên
2mg/ngày; phụ nữ mang thai có nhu cầu chất sắt cao
hơn, khoảng 3-4mg/ngày; thiếu niên đang tuổi trưởng
thành -2mg/ngày; trẻ sơ sinh - 1,5mg/ngày. Tuy
nhiên, do khả năng hấp thụ chất sắt từ nguồn thực
phẩm của cơ thể rất thấp, nên trong thực đơn ăn -
uống sắt từ nguồn thực phẩm của cơ thể phải được
tăng lên khoảng 6-10 lần tùy thuộc vào nguồn gốc
thực phẩm. Viện thực phẩm và Dinh dưỡng Ba Lan
đã công bố lương chất sắt trong bữa ăn hàng ngày
theo lứa tuổi và giới tính như sau:
+ Từ 0 đến 1 tuổi: 10-15 mg/ngày
+ Từ 2 đến 9 tuổi: 10mg/ngày
+ Từ 10 tuổi đến 18 tuổi: 16-17mg (cho nữ giới) và

14-15mg (cho nam giới).
+ Từ 19 đến 60 tuổi: 18-19mg (cho nữ giới) và 15mg
(cho nam giới).
+ Trên 60 tuổi: 15mg (cho nữ giới) và 13mg (cho
nam giới).
5. Những loại thực phẩm nào giầu chất sắt
- Thực phẩm giầu chất sắt phải kể tới đầu tiên là gan
động vật và hạt bí ngô, chưa 10mg/100g. Tiếp đến là
lòng đỏ trứng gia cầm, giá gạo, giá đỗ, vừng, các loại
hạt đậu, đỗ: 5-8mg/100g. Hạt hướng dương, các loại
sò, ốc biển, bánh mì đen, lạc, thịt bê, cá biển - 2,5-
5mg/100g. Súp lơ xanh, xu hào, cải bông xanh, gạo
lức, trái bơ, pho-mát - 0,75-1,5mg/100g.

×