Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

Nghiên cứu xác định giá trị giống để nâng cao tính trạng số con sơ sinh sống/ổ đối với nhóm lợn Móng Cái tổng hợp bằng chương trình PIGBLUP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (510.85 KB, 56 trang )

§å ¸n tèt nghiÖp Vò ThÞ Hêng - KN 901
Lời cảm ơn
Nhân dịp hoàn thành đồ án tốt nghiệp, cho phép tôi được bày tỏ lòng
biết ơn chân thành đến Tiến sĩ Giang Hồng Tuyến - giảng viên khoa Kỹ thuật
Nông nghiệp, trường ĐHDLHP - người hướng dẫn nhiệt tình, có trách nhiệm
trong quá trình thực hiện đề tài và hoàn thành đồ án.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới toàn thể các thầy cô giáo
ngành Kỹ thuật Nông nghiệp, trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng cùng các
thầy cô đã tham gia giảng dạy trong suốt quá trình tôi học tập tại trường.
Cuối cùng cho phép tôi được gửi lời cảm ơn tới lãnh đạo, các cán bộ
công nhân viên tại Trung tâm giống Tràng Duệ - Công ty cổ phần đầu tư và
phát triển Nông nghiệp Hải Phòng - nơi tôi thực tập và làm đồ án tốt nghiệp.
Những người đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài này.
Nhân dịp này tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với sự quan
tâm, giúp đỡ, động viên đó.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hải phòng, ngày tháng năm 2009
Sinh viên
Vũ Thị Hường
§å ¸n tèt nghiÖp Vò ThÞ Hêng - KN 901
MỤC LỤC
Nội dung Trang
TÀI LIỆU THAM KHẢO
§å ¸n tèt nghiÖp Vò ThÞ Hêng - KN 901
PHẦN I
MỞ ĐẦU
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Cùng với sự phát triển chung của nhiều ngành kinh tế trong thời kì đổi
mới đất nước, ngành Nông nghiệp có những bước phát triển mạnh cả về trồng
trọt và chăn nuôi. Chăn nuôi chiếm phần quan trọng trong nền sản xuất Nông
nghiệp, nhu cầu về các sản phẩm chăn nuôi của thị trường trong và ngoài


nước ngày càng cao. Những năm gần đây, sản lượng lương thực tăng nhanh
đã góp phần thúc đẩy chăn nuôi phát triển, trong đó có ngành chăn nuôi lợn
phát triển cả về số lượng và chất lượng.
Ngành chăn nuôi lợn đã đóng góp một phần thu nhập chính cho người
nông dân. Thịt lợn trở thành nguồn thực phẩm chính của người tiêu dùng.
Theo thống kê, tổng đàn lợn trong cả nước là 27.434.895 con (2005),
tăng 35,86% so với năm 2000 và 68,25% so với năm 1995. Ngành chăn nuôi
lợn ở Việt Nam đứng vị trí thứ 2 sau Trung Quốc ở khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương, thịt lợn chiếm gần 80% trong tổng số các loại thịt gia súc, cung
cấp phần lớn nhu cầu tiêu thụ trong nước và một phần cho xuất khẩu. Phương
hướng phấn đấu của nước ta là không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng
của đàn lợn để đáp ứng ngày càng cao nhu cầu của người tiêu dùng trong
nước và xuất khẩu.
Nâng cao năng suất, chất lượng con giống, hiệu quả chăn nuôi lợn là
nhu cầu của Nhà chăn nuôi từ quy mô nhỏ theo chăn nuôi hộ gia đình đến quy
mô lớn theo hướng trang trại. Ngoài ra, nâng cao năng suất vật nuôi là yêu
cầu thiết thực vì nó phục vụ cho mục tiêu phát triển tăng năng suất và chất
lượng của sản phẩm trong sản xuất Nông nghiệp, góp phần vào sự phát triển
kinh tế trong giai đoạn hội nhập hiện nay.
3
§å ¸n tèt nghiÖp Vò ThÞ Hêng - KN 901
Để nâng cao năng suất chất lượng đàn lợn, trong thời gian qua, các nhà
chăn nuôi đã áp dụng nhiều biện pháp kỹ thuật mới về giống, thức ăn, kỹ
thuật chăn nuôi, thú y, cũng như cải tiến các chế độ quản lí tổ chức. Trong
lĩnh vực công tác giống, các nhà nghiên cứu đã tiến hành chọn lọc các giống
lợn thuần, nhập nội một số giống lợn ngoại (Landrace, Yorkshire, Duroc..) có
năng suất cao và tạo các tổ hợp lợn lai có giá trị kinh tế. Song trong điều kiện
nền kinh tế nông thôn còn nhiều yếu kém, kỹ thuật chăn nuôi chưa tốt dẫn đến
nuôi lợn ngoại còn nhiều hạn chế, khả năng sinh sản và sức sản xuất thịt chưa
cao. Việc sử dụng các giống lợn nhập nội này và đặc biệt khi ưu thế lai càng

được khai thác nhiều đã gây nên hiện tượng lãng quên đi các giống địa
phương mặc dù chúng có một số đặc tính tốt. Trước thực tế này, đòi hỏi cần
phải có một chính sách và sự quan tâm nhất định của Nhà nước đến việc lưu
giữ các giống nội đó nhằm khai thác triệt để những đặc tính tốt góp phần nâng
cao sản lượng thịt cho đất nước.
Lợn nội, phổ biến nhất nước ta là giống Móng Cái, bên cạnh những đặc
điểm tốt: dễ nuôi, có khả năng sinh sản cao, sức chịu đựng tốt với điều kiện
ngoại cảnh và tính thích nghi rộng, song do khả năng tăng khối lượng và tỉ lệ
nạc thấp nên giống Móng Cái không được người chăn nuôi ưa chuộng trong
lĩnh vực khai thác thịt.
Trước thực tế đó đòi hỏi các nhà khoa học tạo chọn giống lợn phải
chọn lọc nâng cao khả năng sinh sản, đặc biệt số con sơ sinh sống/ổ cao. Vì
đó là cơ sở vật chất di truyền đóng góp quan trọng cho sự phát triển ngành
chăn nuôi lợn, để giống lợn Móng Cái có thể phát triển nhanh, đáp ứng nhu
cầu sản xuất, đặc biệt cho các hộ chăn nuôi ở những nơi chưa có điều kiện tốt,
nhóm lợn này cần được nghiên cứu nhằm cải thiện, nâng cao chất lượng đàn giống.
Vì vậy chúng tôi chọn đề tài: “Nghiên cứu xác định giá trị giống để
nâng cao tính trạng số con sơ sinh sống/ổ đối với nhóm lợn Móng Cái tổng
hợp bằng chương trình PIGBLUP”.
4
§å ¸n tèt nghiÖp Vò ThÞ Hêng - KN 901
1.2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
- Xác định được các tham số thống kê của các tính trạng cơ bản về sinh
sản của lợn Móng Cái tổng hợp.
- Xác định được giá trị giống về tính trạng số con sơ sinh sống/ổ của
lợn Móng Cái tổng hợp.
- Xác định được mối tương quan di truyền giữa các lứa đẻ của lợn
Móng Cái tổng hợp
- Ước tính hiệu quả chọn lọc ở các thế hệ sau. Từ đó giúp cho quá trình
chọn lọc tính trạng số con sơ sinh sống/ổ nhanh và chính xác.

5
§å ¸n tèt nghiÖp Vò ThÞ Hêng - KN 901
PHẦN II
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
2.1. NGUỒN GỐC VÀ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA LỢN MÓNG CÁI
Các giống vật nuôi địa phương đã được hình thành từ lâu đời trong
hoàn cảnh các nền sản xuất kết hợp giữa trồng trọt và chăn nuôi với các tập
quán canh tác khác nhau của các vùng sinh thái Nông nghiệp khác nhau. Đặc
điểm chung của các giống địa phương thường là có hướng sản xuất kiêm dụng
vì vậy tầm vóc nhỏ, năng suất thấp. Tuy nhiên ưu điểm lớn nhất của các giống
địa phương là phù hợp với điều kiện sản xuất chăn nuôi, tận dụng điều kiện
thiên nhiên cũng như sản phẩm phụ của cây trồng, thích ứng với môi trường
khí hậu nóng ẩm, khả năng chống chịu bệnh tật cao.
Trước đây Móng Cái và Ỉ là 2 giống lợn chính được nuôi và phát triển
rộng rãi trong ngành chăn nuôi của miền Bắc và miền Trung nước ta.
Do đặc điểm sinh thái tốt nên từ những năm 1960 - 1970 lợn Móng Cái
lan nhanh ra khắp đồng bằng Bắc Bộ dẫn đến diện tích lợn Ỉ ngày càng thu
hẹp dần. Từ năm 1975 lợn Móng Cái được lan nhanh ra các tỉnh miền Bắc,
miền Trung và miền Nam.
2.1.1. Nguồn gốc lợn Móng Cái
Lợn Móng Cái là giống lợn phổ biến nhất của Việt Nam, có nguồn gốc
từ huyện Hà Cối, nay thuộc huyện Đầm Hà và Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh
hiện nay được nuôi ở một số tỉnh đồng bằng sông Hồng và một số tỉnh phía
Đông Bắc nước ta (Nguyễn Văn Đức, 2007).
2.1.2. Đặc điểm sinh học của lợn Móng Cái
Lợn Móng Cái thuộc lớp động vật có vú Maminalia, bộ guốc chẵn
Artiodactyla, thuộc họ Sllidae, chủng Sus, thuộc loài Sus domesticus (Nguyễn
Văn Đức 2007).
6
§å ¸n tèt nghiÖp Vò ThÞ Hêng - KN 901

Lợn Móng Cái có ngoại hình đặc trưng: lông da có màu đen vá trắng.
Lưng và mông có dải đen hình yên ngựa (đây là đặc điểm ngoại hình nổi bật
nhất), da mỏng mịn, lông thưa và thô. Đầu to, đen, có đốm trắng ở giữa trán
hình tam giác hoặc hình thoi. Tai đen, nhỏ và nhọn. Miệng nhỏ dài, trắng, có
nếp nhăn to và ngắn ở miệng.
Giữa vai và cổ có một vành trắng cắt ngang kéo dài đến bụng và bốn
chân. Cổ to, ngắn. Ngực nở và sâu. Lưng dài hơi võng, bụng xệ nhưng tương
đối gọn so với lợn Ỉ, mông rộng và xuôi.
Bốn chân trắng, tương đối cao, thẳng, móng xoè.
Nhìn chung, lợn Móng Cái có khả năng sinh sản tốt hơn lợn Ỉ (đẻ 10 - 16
con/lứa), có từ 12 - 16 vú, tuổi phối lần đầu tiên có hiệu quả nhất từ 6 - 8 tháng,
số con sơ sinh sống/ổ và số con cai sữa/ổ cao, trung bình từ 9 đến 11 con.
Khối lượng sơ sinh thấp: 0,5 - 0,6 kg và khối lượng cai sữa lúc 45 - 50 ngày:
5 - 6 kg/con. Số lứa đẻ khá cao, trung bình từ 1,9 - 2,1 lứa/năm. Lợn Móng
Cái có khả năng sinh sản kéo dài, cho 10 - 15 lứa/nái. Khả năng tăng khối
lượng 327g/ngày, lợn thịt có tốc độ tăng trọng 390 - 420g/ngày. Khả năng tiêu
tốn thức ăn 5,0 - 5,5 kg thức ăn/kg tăng trọng, tỉ lệ thịt nạc thấp 35 - 39%, độ
dày mỡ lưng cao.
Hiện nay, lợn Móng Cái chủ yếu được sử dụng làm nái nền lai với lợn
đực ngoại sản xuất lợn lai F1 nuôi thịt hoặc dùng làm nái trong các công thức
lai phức tạp.
2.2. MỘT SỐ TÍNH TRẠNG SINH SẢN CỦA LỢN NÁI
Sinh sản là một trong những thuộc tính trọng yếu của sinh vật trong đó
có gia súc, đó là đặc trưng quan trọng bậc nhất để duy trì nòi giống và đảm
bảo cho sự tiến hoá của con vật. Ở gia súc nói chung và lợn nói riêng thì sinh
sản là một chức năng quan trọng mang ý nghĩa tái sản xuất phục vụ đời sống
con người. Chính vì vậy sinh sản là một trong những tính trạng được người
7
§å ¸n tèt nghiÖp Vò ThÞ Hêng - KN 901
chăn nuôi hết sức chú ý, với mục đích làm sao trong thời gian ngắn nhất gia

súc sinh sản được nhiều nhất, đàn con sinh ra có sức sống cao nhất nhằm thu
lại hiệu quả kinh tế cao nhất.
Phần lớn các tính trạng có giá trị kinh tế của vật nuôi đều là các tính
trạng số lượng. Tính trạng số lượng là những tính trạng mà sự sai khác nhau
giữa các cá thể, là sự sai khác nhau về mức độ hơn là sự sai khác nhau về
chủng loại và như C.Darwin đã chỉ rõ: sự sai khác nhau này chính là nguồn
vật liệu trong chọn lọc tự nhiên cũng như chọn lọc nhân tạo.
Tính trạng số lượng còn được gọi là tính trạng đo lường vì sự nghiên
cứu của chúng phụ thuộc vào đo lường chứ không phải là đếm. Tuy nhiên có
những tính trạng mà giá trị của chúng có được bằng cách đếm như: số lượng
lợn con đẻ ra trong một lứa,... vẫn được coi là tính trạng số lượng, đó là
những tính trạng số lượng đặc biệt.
Các chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh sản của lợn nái
Để đánh giá khả năng sinh sản của lợn nái thực tế người ta thường dùng
các chỉ tiêu sinh sản sau:
- Tuổi phối giống lần đầu
- Tuổi đẻ lứa đầu
- Khoảng cách giữa các lứa đẻ
- Số con sơ sinh sống/ổ
- Khối lượng sơ sinh
- Số con cai sữa
- Khối lượng cai sữa
2.2.1. Tuổi phối giống lần đầu
Tuổi phối giống lần đầu là số ngày tính từ khi lợn cái đó được sinh ra
cho đến ngày được phối giống lần đầu tiên. Đơn vị tính là ngày. Thông
thường ta chọn lợn nái phối lần đầu vào chu kì động dục lần thứ hai hoặc lần
thứ ba, tuổi phối lần đầu sớm hay muộn đều ảnh hưởng tới tuổi đẻ lứa đầu.
8
§å ¸n tèt nghiÖp Vò ThÞ Hêng - KN 901
2.2.2. Tuổi đẻ lứa đầu

Tuổi đẻ lứa đầu là số ngày tính từ khi lợn cái đó được sinh ra cho đến
ngày lợn cái đẻ lứa đầu tiên. Đơn vị tính là ngày. Đây cũng chính là tuổi phối
giống có kết quả cộng với thời gian mang thai.
Tuổi đẻ lứa đầu phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: tuổi phối giống lần
đầu, kết quả phối giống, thời gian mang thai và từng giống lợn khác nhau. Đối
với lợn nái nội tuổi đẻ lứa đầu thướng sớm hơn so với lợn ngoại do tuổi thành
thục về tính dục ngắn hơn.
2.2.3. Khoảng cách giữa các lứa đẻ
Khoảng cách giữa các lứa đẻ là khoảng thời gian hình thành một chu kì
sinh sản. Bao gồm: thời gian chửa, thời gian nuôi con, thời gian chờ động dục
lại sau cai sữa và phối giống. Nói cách khác, khoảng cách lứa đẻ là số ngày
tính từ ngày đẻ lứa này đến ngày đẻ lứa tiếp theo. Đơn vị tính là ngày.
Nếu thời gian nuôi con và thời gian chờ động dục lại sau cai sữa ngắn
thì rút ngắn khoảng cách giữa các lứa đẻ, từ đó tăng số lứa đẻ/nái/năm. Như
vậy hiệu quả sử dụng lợn nái càng cao.
2.2.4. Số con sơ sinh sống/ổ
Đây là chỉ tiêu kinh tế, kĩ thuật rất quan trọng, nó nói lên khả năng đẻ
nhiều hay ít con của giống, nói lên kĩ thuật chăm sóc lợn nái có chửa và kĩ
thuật thụ tinh của dẫn tinh viên. Trong công tác giống lợn, tính trạng số lượng
được quan tâm nhất là số con sơ sinh sống/ổ đối với loại tính trạng sinh sản.
Vì vậy tính trạng này được các nhà khoa học tập trung nghiên cứu
nhiều nhất vì đó là thành phần chính của hiệu quả kinh tế trong ngành chăn
nuôi lợn. Vì là tính trạng số lượng nên do nhiều kiểu gen điều khiển, mỗi gen
đóng góp một mức độ nhất định vào cấu thành năng suất. Giá trị kiểu hình
9
§å ¸n tèt nghiÖp Vò ThÞ Hêng - KN 901
của tính trạng này có sự phân bố liên tục và chịu tác động nhiều bởi yếu tố
ngoại cảnh (Falconer,1993).
Lợn là loài động vật đa thai, nên tính trạng số con sơ sinh sống/ổ được
dùng làm chỉ tiêu cơ bản nhất để đánh giá khả năng sinh sản của lợn nái.

Số con sơ sinh sống/ổ là tổng số lợn con còn sống trong vòng 24 giờ kể
từ khi lợn mẹ đẻ xong con cuối cùng của lứa đó. Đơn vị tính là con. Theo
quan điểm về hiệu quả kinh tế của chăn nuôi lợn nái, năng suất sinh sản của
đàn lợn nái giống được xác định bởi chỉ tiêu số con cai sữa/ổ và số lợn con cai
sữa/nái/năm. Để có số con cai sữa/ổ và số lợn con cai sữa/nái/năm lớn thì số
con sơ sinh sống/ổ phải cao. Ngoài ra, tính trạng khối lượng cai sữa toàn ổ
cũng đóng góp đáng kể vào hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi lợn nái. Khối
lượng cai sữa toàn ổ càng cao, hiệu quả kinh tế càng lớn. Muốn có khối lượng
cai sữa toàn ổ cao, số con sơ sinh sống/ổ phải lớn. Như vậy tính trạng số con
sơ sinh sống/ổ là tính trạng năng suất sinh sản quan trọng nhất góp phần vào
viếc quyết định số con cai sữa/ổ và số lợn con cai sữa/nái/năm.
2.2.5. Khối lượng sơ sinh/con
Khối lượng sơ sinh là khối lượng của một lợn con đẻ ra còn sống được
cân lúc lợn con chưa bú sữa đầu. Đơn vị tính là kg. Chỉ tiêu này nói lên khả
năng nuôi dưỡng thai của lợn mẹ, kỹ thuật chăn nuôi, chăm sóc quản lý và
phòng bệnh cho lợn nái chửa ở một số cơ sở chăn nuôi.
2.2.6. Số con cai sữa/ổ
Số con cai sữa/ổ là số lợn con do chính nái đó nuôi còn sống cho đến
khi cai sữa mẹ (45 - 50 ngày với lợn Móng Cái). Đơn vị tính là con. Chỉ tiêu
này đánh giá khả năng nuôi con của lợn nái, kỹ thuật chăm sóc và nuôi dưỡng
đàn lợn con của cơ sở chăn nuôi. Chỉ tiêu này phụ thuộc vào nhiều yếu tố
như: tuổi thành thục về tính, tỷ lệ thụ thai, số con đẻ ra…
10
§å ¸n tèt nghiÖp Vò ThÞ Hêng - KN 901
2.2.7. Khối lượng cai sữa
Khối lượng cai sữa là số khối lượng của lợn con được tính từ lúc sinh
cho đến khi cai sữa. Đơn vị tính là kg.
2.3. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TÍNH TRẠNG SINH SẢN
2.3.1. Yếu tố di truyền
Giống là quần thể vật nuôi đủ lớn trong cùng 1 loài, có một nguồn gốc

chung, có một số đặc điểm chung về hình thái và ngoại hình, sinh lí và năng
suất sinh vật học, khả năng chống chịu bệnh, đồng thời có thể truyền đạt các
đặc điểm đó cho đời sau (Nguyễn Văn Thiện, 1995). Tất cả các chức năng
trong cơ thể động vật đều chịu sự điều khiển của yếu tố di truyền để đạt đến
mức lớn hơn hay bé đi. Đồng thời các tính trạng sinh sản đều chịu ảnh hưởng
trực tiếp của yếu tố di truyền. Với giống khác nhau thì yếu tố di truyền cũng
ảnh hưởng đến các tính trạng sinh sản là khác nhau.
Để phân tích đặc tính di truyền của quần thể phải phân chia giá trị kiểu
hình thành các phần khác nhau tuỳ theo tính chất của chúng. Giá trị đo lường
được của tính trạng trên một cá thể được gọi là giá trị kiểu hình của cá thể đó.
Sự phân chia đầu tiên của giá trị kiểu hình là sự phân chia nó thành các
thành phần có thể bị ảnh hưởng của kiểu gen và môi trường. Quan hệ trên biểu
thị như sau:
P = G + E
Trong đó: P là giá trị kiểu hình, G là giá trị kiểu gen và E là sai lệch môi trường.
Giá trị G có thể phân thành giá trị cộng gộp của các gen (A), giá trị trội
của các gen (D) và giá trị át gen (I). Giá trị E gồm hai thành phần là sai lệch
môi trường chung (Eg) và sai lệch môi trường đặc biệt hay sai lệch môi
trường riêng (Es).
Tóm lại, khi một kiểu hình của một cá thể được cấu tạo từ hai lôcut trở
lên thì giá trị kiểu hình của nó được biểu thị bằng:
P = A + D + I + Eg + Es
11
§å ¸n tèt nghiÖp Vò ThÞ Hêng - KN 901
2.3.2. Yếu tố ngoại cảnh
Ngoài yếu tố di truyền, yếu tố ngoại cảnh cũng gây ảnh hưởng lớn đến
các tính trạng sinh sản.
Ảnh hưởng của năm đẻ: năm đẻ ảnh hưởng rõ rệt đến các tính trạng
năng suất sinh sản. Năm đẻ ảnh hưởng rõ rệt nhất đến các tính trạng như số con sơ
sinh sống/ổ, khối lượng sơ sinh/con, số con cai sữa/ổ, khối lượng cai sữa/ổ.

Ảnh hưởng của lứa đẻ: yếu tố lứa đẻ có ảnh hưởng rất lớn đến tính
trạng số con/ổ. Nhiều nghiên cứu đã đưa ra kết luận số con/lứa tăng dần từ lứa
đẻ thứ 1 đến lứa thứ 4 - 5 sau đó giảm dần đến lứa thứ 8 - 9. Một số nghiên
cứu cho rằng khi tuổi thụ thai lần đầu tăng thì số con ở lứa đầu tiên cũng tăng.
Lợn nái đẻ lứa thứ nhất có số con/lứa ít hơn nái đẻ từ lứa thứ hai trở đi, điều
này có thể do tỉ lệ rụng trứng tăng lên từ lứa thứ hai.
Ảnh hưởng của mùa vụ: Ở Việt Nam, do điều kiện thời tiết thay đổi
theo mùa nên ảnh hưởng đến khối lượng của lợn con. Ví dụ lợn con đẻ vào
mùa đông có khối lượng sơ sinh và cai sữa cao hơn các mùa khác trong năm.
Ảnh hưởng của đực phối: Vị trí ô chuồng nuôi lợn đực, thời điểm phối
giống và phương thức phối giống thích hợp là nguyên nhân làm tăng khả năng
sinh sản của lợn nái. Nếu vị trí ô chuồng lợn đực được bố trí xen kẽ với các ô
lợn nái hậu bị thì sẽ kích thích tuổi thành thục về tính sớm hơn và làm tăng tỉ
lệ thụ thai. Tuy nhiên việc lạm dụng lợn đực cũng làm giảm khả năng sinh sản
của lợn nái. Vì vậy, vị trí ô chuồng lợn đực và thời gian nghỉ ngơi một cách
hợp lí là biện pháp để nâng cao số con sơ sinh sống/ổ.
Bên cạnh một số nhân tố cố định đó, năng suất sinh sản của lợn còn
chịu những yếu tố khác như: dinh dưỡng, chuồng trại, bệnh tật và ngoại cảnh
xã hội…
Ảnh hưởng của nhân tố dinh dưỡng: thức ăn là nguồn cung cấp dinh
dưỡng, năng lượng cho tất cả các hoạt động sống của cơ thể, nó đóng vai trò
quan trọng trong việc nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Lợn nái
12
§å ¸n tèt nghiÖp Vò ThÞ Hêng - KN 901
sau cai sữa có thể động dục bình thường hay động dục chậm đều phụ thuộc
vào chế độ dinh dưỡng trong thời kì nuôi con. Nhiều nghiên cứu đã kết luận
rằng với khẩu phần ăn hạn chế trong thời kì mang thai và ăn tự do trong thời
kì nuôi con thì lợn nái sẽ cho năng suất tốt hơn. Cần chú ý dinh dưỡng đối với
lợn nái ở 3 tuần đầu và 3 tuần cuối, vì 3 tuần cuối khối lượng thai tăng lên rất
nhanh nên cần nhiều dinh dưỡng. Tuy nhiên nếu tăng hàm lượng năng lượng

và prôtêin trong khẩu phần ăn của lợn nái sẽ làm cho lợn nái chóng béo, ảnh
hưởng xấu đến năng suất sinh sản.
Ảnh hưởng của nhân tố chuồng trại và ngoại cảnh xã hội: phương thức
chăn nuôi không phù hợp, điều kiện chăn nuôi không đảm bảo, chuồng trại
không sạch sẽ, quy mô đàn quá lớn, trình độ chuyên môn không được nâng
cao, phương thức chăn nuôi yếu kém,… tất cả đều ảnh hưởng đến năng suất
sinh sản của lợn nái.
Ảnh hưởng của yếu tố bệnh tật: bệnh sẽ làm giảm khả năng sinh sản của
lợn nái: mất khả năng thụ thai, số con sơ sinh sống/ổ ít, số con sơ sinh chết
tăng... Ở vùng có độ ẩm cao là điều kiện thuận lợi cho vi sinh vật gây bệnh
phát triển. Nếu hệ thống chuồng trại không đảm bảo, công tác phòng bệnh và
kiểm tra chưa tốt thì bệnh dịch sẽ lây lan và làm mất khả năng sinh sản của
lợn nái. Và điều này ảnh hưởng rõ rệt nhất với quy mô lớn - trong chăn nuôi
công nghiệp.
2.4. GIÁ TRỊ GIỐNG
Giá trị giống của một cá thể là một đại lượng biểu thị khả năng truyền
đạt các gen từ bố mẹ cho đời con. Vì các gen quy định tính trạng số lượng rất
nhiều, do đó người ta không thể biết được một cách thật chính xác giá trị
giống của một cá thể nào đó. Trong thực tế, người ta chỉ có thể xác định được
giá trị gần đúng của chúng từ các nguồn thông tin khác nhau và được gọi là
giá trị giống ước lượng hay giá trị giống dự đoán.
13
§å ¸n tèt nghiÖp Vò ThÞ Hêng - KN 901
Giá trị giống được Galconer D.S định nghĩa như sau: “Giá trị giống của
một con vật chính là năng suất trung bình của các con cái của nó. Nếu một
con vật được phối ngẫu nhiên với nhiều con khác trong quần thể thì giá trị
giống của nó được tính bằng hai lần mức chênh lệch của nhóm con của nó so
với giá trị trung bình của quần thể. Sở dĩ phải nhân lên gấp đôi vì nó chỉ đóng
góp một nửa số gen cho thế hệ con cái. Giá trị giống có thể được thể hiện
bằng giá trị tuyệt đối, nhưng thông thường được thể hiện bằng mức độ chênh

lệch so với trung bình quần thể. Chính vì thế chúng ta không thể nói về giá trị
giống của một con giống mà không nói đến quần thể cụ thể của nó”.
Giá trị giống của từng giống được thể hiện bởi kiểu gen thông qua kiểu
hình với sự tác động của môi trường.Vì thế, giá trị giống của 1 con vật là
thước đo cân bằng về khả năng di truyền từ vốn gen của bố mẹ cho đời sau.
Chọn lọc qua đánh giá giá trị giống sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Qua đánh giá giá trị giống về tính trạng sinh sản sẽ xác định được những
cá thể ưu tú để chọn, giữ lại, bổ sung vào đàn hạt nhân ở thế hệ sau. Nhờ đó
con giống luôn luôn được cải thiện chất lượng và tăng năng suất qua từng thế hệ.
2.4.1. Nguồn thông tin trong ước lượng giá trị giống
Giá trị giống của một con vật là thước đo về khả năng truyền lại vốn
gen của nó cho đời sau. Chúng ta chưa biết chính xác con vật đó mang gen gì
và mang bao nhiêu gen, vì vậy không đánh giá đúng giá trị giống của nó, mà
chỉ xác định được giá trị giống ước lượng thông qua một số nguồn thông tin:
Năng suất của bản thân cá thể con vật về tính trạng đó hoặc các tính trạng
khác. Nếu một tính trạng được xác định đo được nhiều lần, số liệu thu được
của cá thể đó có thể bao hàm nhiều số đo lặp lại đối với tính trạng đó như: số
con/ổ, khối lượng con/ổ,…
Năng suất của anh chị em thân thuộc của con vật về tính trạng đó hoặc
các tính trạng khác. Năng suất của các cá thể đời sau của con vật về tính trạng
đó hoặc các tính trạng khác. Năng suất của tổ tiên con vật.
14
§å ¸n tèt nghiÖp Vò ThÞ Hêng - KN 901
2.4.2. Ước tính giá trị giống bằng phương pháp BLUP
BLUP là phương pháp ước tính giá trị giống bằng mô hình hồi quy
không sai lệch và chính xác nhất dựa trên cơ sở giá trị kiểu hình của bản thân
con vật cũng như các con vật họ hàng. Khi sử dụng BLUP sự ảnh hưởng của
một số nhân tố cố định được ngoại trừ như: năm, mùa, giống, tính biệt, cơ sở...
Trong các phương pháp chọn lọc đang được ứng dụng trên thế giới hiện
nay, phương pháp BLUP được thừa nhận có độ chính xác cao nhất, bởi vì

BLUP có những ưu điểm sau:
- Sử dụng được tất cả các nguồn thông tin về giá trị kiểu hình của các
con vật họ hàng
- Loại trừ được các nhân tố ảnh hưởng của các nhân tố cố định như:
năm, mùa vụ, đực phối, lứa đẻ, giống, cơ sở, tính biệt...
- Đánh giá được khuynh hướng di truyền của đàn gia súc do xử lí các
nguồn thông tin thu được trong một khoảng thời gian nhất định.
- Sử dụng các nguồn thông tin dưới dạng số liệu giữa các nhóm không
cân bằng.
- Đánh giá được phẩm chất của giống và từng con giống.
Do vậy, giá trị giống thu được có độ chính xác cao và nhờ đó BLUP
giúp tính giá trị giống của các cá thể không có số liệu trên bản thân con vật.
BLUP có thể xác định được giá trị giống cho cả 2 giới tính đực và cái.
BLUP có thể giải quyết tốt nhất trong các trường hợp giao phối có chọn lọc
và có xem xét đến ảnh hưởng của cận huyết.
2.4.3. Độ chính xác của ước tính giá trị giống
Có nhiều phương thức và nhiều nguồn thông tin khác nhau dùng để ước
tính giá trị giống của vật nuôi. Để có thể đánh giá độ chính xác của các ước
tính này, người ta sử dụng khái niệm độ chính xác của các ước tính giá trị
giống. Về bản chất, độ chính xác của một phương thức đánh giá giá trị giống
15
§å ¸n tèt nghiÖp Vò ThÞ Hêng - KN 901
hay của một nguồn thông tin dùng để đánh giá giá trị giống là hệ số tương
quan giữa phương thức đánh giá hoặc nguồn thông tin với giá trị giống của
con vật.
Độ chính xác của ước tính giá trị giống có giá trị từ 0 đến 1. Giá trị của
độ chính xác càng lớn chứng tỏ phương thức ước tính hoặc nguồn thông tin sử
dụng để ước tính giá trị giống càng chính xác.
2.4.4. Chỉ số chọn lọc
Để đáp ứng yêu cầu chọn lọc vật nuôi có giá trị giống cao không chỉ đối

với 1 tính trạng mà đối với nhiều tính trạng khác nhau, chẳng hạn lợn đực
giống vừa có sức tăng khối lượng nhanh, tiêu tốn ít thức ăn lại vừa có độ dày
mỡ lưng thấp người ta đã đề ra các phương pháp khác nhau: chọn lọc lần lượt,
loại thải độc lập, và chỉ số chọn lọc. Trong đó chỉ số chọn lọc là phương pháp
có nhiều ưu điểm hơn.
Chỉ số chọn lọc là phương pháp phối hợp giá trị kiểu hình của các tính
trạng xác định được trên bản thân con vật hoặc trên các họ hàng thân thuộc
của nó thành một điểm tổng hợp và căn cứ vào điểm này để chọn lọc hoặc
loại thải con vật.
Về bản chất, chỉ số chọn lọc là một hàm tuyến tính của các số liệu quan
sát được để ước tính giá trị giống của con vật. Các số liệu quan sát được chính
là các giá trị kiểu hình của 1 hay nhiều tính trạng theo dõi được trên bản thân
con vật hoặc trên các con vật họ hàng. Các giá trị kiểu hình này có thể là 1 giá
trị duy nhất của 1 quan sát hoặc có thể là giá trị trung bình của nhiều quan sát
nhắc lại trên 1 con vật hoặc trên nhiều con vật khác nhau nhưng có cùng quan
hệ họ hàng với con vật mà ta cần ước tính giá trị giống. Chỉ số chọn lọc có
dạng công thức sau:

1=
2211
=
+...++=
n
i
ii
nnα
Xb
XbXbXbI
16
§å ¸n tèt nghiÖp Vò ThÞ Hêng - KN 901

Trong đó: I
α
: giá trị chỉ số của vật α.
X
i
: giá trị kiểu hình của các tính trạng mà ta quan sát được trên
bản thân vật α hoặc trên con vật họ hàng của vật α.
b
i
: hệ số tương ứng với từng tính trạng hoặc từng con vật họ hàng.
Một trong những hệ thống phân tích cơ bản nhất của chương trình đánh
giá giá trị giống các vật nuôi được so sánh một cách trực tiếp với nhau là
chúng đều phải có cơ hội như nhau để hình thành, sinh ra cùng một thời gian.
Có nghĩa là chung một điều kiện quản lí nuôi dưỡng như nhau gọi là nhóm
tương đồng. Vậy nhóm tương đồng là tập hợp những cá thể được nuôi trong
điều kiện chịu sự tác động giống nhau về thời tiết, khí hậu và chăm sóc nuôi
dưỡng.
( ) ( ) ( )
nnn
XXbXXbXXbI
−++−+−=
...
222111
α

( )

=
−=
n

i
iii
XXb
1
Trong đó:
i
X
: giá trị kiểu hình trung bình của các tính trạng mà ta quan sát
được trên các con vật trong nhóm tương đồng.
Phương pháp BLUP có thể so sánh giá trị giống giữa các con vật mà các
thông tin thu thập được từ các đàn có chế độ nuôi dưỡng khác nhau, qua các
thời gian khác nhau trong các điều kiện ngoại cảnh khác nhau.
Phương pháp BLUP có thể dự đoán được giá trị gây giống có kết hợp
với các giá trị kinh tế của con vật qua tất cả các thông tin có được của con vật
bất kể có bao nhiêu thông tin, các thông tin đó là của bản thân con vật hoặc
của các con vật thân thuộc, thuộc một đàn hay nhiều đàn khác nhau, dưới điều
kiện nuôi dưỡng khác nhau, ở các nơi và thời gian không giống nhau. Đồng
thời BLUP có thể phân biệt được hiệu quả di truyền và không di truyền đối
với các tính trạng, sự thay đổi di truyền qua các thời gian khác nhau. Ước
lượng giá trị trung bình quần thể và các yếu tố môi trường cố định khác nếu ta
đưa vào mô hình phân tích. Do đó, tiến bộ di truyền đạt được khi sử dụng
17
§å ¸n tèt nghiÖp Vò ThÞ Hêng - KN 901
phương pháp BLUP để chọn lọc cao hơn tiến bộ di truyền đạt được khi sử
dụng các phương pháp khác, nhất là đối với các tính trạng có hệ số di truyền
thấp như khả năng sinh sản.
Tuy nhiên phương pháp BLUP đòi hỏi phải có hệ thống công tác giống
tương đối hoàn chỉnh, phương pháp thu thập số liệu, chế độ ghi chép kiểm tra
năng suất đầy đủ, tiến hành trên đàn lợn có quan hệ huyết thống với nhau và
có máy tính tương đối hiện đại.

Trên cơ sở nguyên tắc của phương pháp BLUP, các ứng dụng ngày
càng được áp dụng rộng rãi trong sản xuất. Điều đáng lưu ý là các ứng dụng
này thường được dùng để đánh giá chọn lọc đối với một quần thể lớn, sử dụng
một tập hợp lớn các số liệu theo dõi của nhiều cá thể có quan hệ họ hàng với
nhau. Sau đây là một số ứng dụng:
- Mô hình đánh giá con đực: mô hình này sử dụng các số liệu đời con để
ước tính giá trị giống của con đực.
- Mô hình gia súc: dùng để ước tính giá trị giống của bản thân con vật và
ước tính ảnh hưởng của các nhân tố cố định.
- Mô hình lặp lại: dùng để ước tính giá trị giống khi phép đo của cùng
một tính trạng của con vật được lặp lại một số lần. Ví dụ: các tính trạng trong
một lứa đẻ của lợn. Mô hình này còn được gọi là mô hình với các ảnh hưởng
ngoại cảnh ngẫu nhiên.
- Mô hình nhiều tính trạng: dùng để ước tính giá trị giống với hai hoặc
nhiều tính trạng dựa trên mối quan hệ kiểu hình và quan hệ di truyền giữa các
tính trạng này.
Để xác định giá trị giống bằng BLUP, 2 loại mô hình thống kê và tính
toán cần được xây dựng:
Mô hình thống kê
Mô hình thống kê trong tính giá trị giống của vật nuôi được Henderson
nghiên cứu ứng dụng từ năm 1975, phương pháp của ông đang được ứng
dụng rộng rãi trong chọn giống vật nuôi từ những năm 1980 đến nay. Phương
pháp này cho phép tính toán đồng thời ảnh hưởng của các yếu tố cố định do
môi trường và ảnh hưởng ngẫu nhiên do di truyền của cá thể con vật, trên cơ
18
§å ¸n tèt nghiÖp Vò ThÞ Hêng - KN 901
sở xem xét mối quan hệ huyết thống của các cá thể trong hệ phả. Mô hình
tuyến tính cơ bản trong tính giá trị giống có dạng sau:
y = Xb + Za + e
Trong đó: y: là vectơ giá trị kiểu hình đo được trên cá thể.

b: là vectơ ảnh hưởng cố định của môi trường biết trước bao gồm
cả trung bình quần thể.
a: là vectơ ảnh hưởng ngẫu nhiên do di truyền hay gọi là giá trị
giống của cá thể.
X: ma trận tần suất liên quan đến biến ảnh hưởng cố định b.
Z: ma trận tần suất liên quan đến biến ngẫu nhiên a.
e: vectơ ảnh hưởng ngẫu nhiên do môi trường đến giá trị kiểu
hình của cá thể.
Mô hình tính toán
Dựa trên các mô hình thống kê người ta đã xây dựng các mô hình tính
toán khác nhau. Các mô hình thường được dùng để dự đoán giá trị giống của
vật nuôi có thể được chia làm hai cách:
- Các mô hình theo định nghĩa của các hiệu ứng ngẫu nhiên bao gồm:
Mô hình bố: hiệu ứng ngẫu nhiên là hiệu ứng bố của các con vật quan
sát, tức là 1/2 giá trị giống của bố. Trong phần lớn các ứng dụng, hiệu ứng cố
định được dùng để tính sự khác nhau trong môi trường mà ở đó các con vật
tồn tại.
Mô hình bố - ông ngoại: là mô hình mở rộng đối với mô hình bố. Nó
nối liền quan sát qua ma trận Z không phải chỉ đối với hiệu ứng của bố mà
con đối với 1/2 hiệu ứng của ông ngoại.
Mô hình động vật: được áp dụng nhiều trong thực tế. Giá trị giống đối
với tất cả các con vật đều được dự đoán ở mô hình này.
- Các mô hình theo sự xử lí của các tính trạng, bao gồm mô hình một
tính trạng chỉ một tính trạng được phân tích, mô hình nhiều tính trạng đồng
thời phân tích trên nhiều tính trạng, cần tính đến mối quan hệ tương quan di
truyền và môi trường giữa các tính trạng, mô hình với sự đo lường lặp lại
19
§å ¸n tèt nghiÖp Vò ThÞ Hêng - KN 901
phân tích mô hình một tính trạng hoặc nhiều tính trạng với tính trạng được đo
lường nhiều lần.

Các mô hình phân tích thống kê khác nhau cho kết quả khác nhau về giá
trị giống cả về độ lớn cũng như trong phân loại con vật.
Một trong những hệ thống phân tích cơ bản nhất của chương trình đánh
giá giá trị giống các vật nuôi được so sánh một cách trực tiếp với nhau là
chúng đều phải có cơ hội như nhau để hình thành, sinh ra cùng một thời gian,
có nghĩa là có chung một điều kiện quản lý nuôi dưỡng như nhau gọi là nhóm
tương đồng.
Các yếu tố môi trường và điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng có thể thay
đổi theo thời gian. Như thay đổi về thời tiết nóng lạnh hay thay đổi về loại
thức ăn giữa các thời điểm trong năm. Nhưng có thể giả định sự thay đổi này
là không đáng kể trong một khoảng thời gian ngắn. Vì vậy ta có thể định
nghĩa các cá thể sinh ta trong cùng một thời điểm nhất định đều chịu tác động
của yếu tố môi trường tương đối đồng nhất và tập hợp các cá thể này gọi là
nhóm tương đồng. Số cá thể trong cùng nhóm tương đồng có ý nghĩa về độ
chính xác trong hiệu chỉnh giá trị giống.
Với trại giống lớn, số cá thể sinh ra trên cùng một thời điểm lớn hay
nhóm tương đồng lớn. Nhưng ở nước ta quy mô thường nhỏ nên nhóm tương
đồng nhỏ. Để làm tăng số lượng cá thể ở nhóm tương đồng là tăng khoảng
thời gian như cá thể sinh cùng quý hay mùa. Dù vậy phương pháp này sẽ tạo
sự không đồng nhất về môi trường.
Phương pháp BLUP cho phép sử dụng các thông tin có từ tất cả các
thân thuộc của một con vật. Do đó, BLUP có thể dự đoán tương đối chính xác
giá trị giống của con vật đó. Bằng phương pháp BLUP, có thể so sánh giá trị
giống giữa các con vật mà các thông tin thu thập được từ các đàn có chế độ
nuôi dưỡng khác nhau, qua các thời gian khác nhau trong các điều kiện ngoại
cảnh khác nhau.
Phương pháp BLUP có thể biết được hiệu ứng di truyền và không di
truyền đối với các tính trạng số lượng, đồng thời nó giúp các nhà tạo chọn
20
§å ¸n tèt nghiÖp Vò ThÞ Hêng - KN 901

giống biết được khuynh hướng kiểu hình, di truyền và ngoại cảnh qua các thời
gian khác nhau. Phương pháp BLUP tự động ước lượng giá trị trung bình
quần thể và các yếu tố môi trường cố định khác nếu ta đưa vào mô hình phân
tích. Tuy nhiên, phương pháp BLUP đòi hỏi hệ thống công tác giống hoàn
chỉnh, phương pháp thu thập số liệu, chế độ ghi chép kiểm tra năng suất đầy
đủ và máy tính tương đối hiện đại.
2.4.5. Chương trình PIGBLUP
Một hệ thống BLUP được soạn thảo riêng để phân tích, đánh giá giá trị
di truyền trong chăn nuôi lợn gọi là PIGBLUP. PIGBLUP được soạn thảo bởi
các nhà khoa học di truyền giống ở AGBU (Australia). Trước đây, PIGBLUP
chỉ đánh giá được giá trị di truyền cho từng đàn lợn. Từ năm 2000, PIGBLUP
đã được cải tiến mở rộng phạm vi phân tích đánh giá giá trị di truyền giữa các
đàn với nhau và số tính trạng cũng được nâng lên nhiều hơn. Vì vậy, PIGBLUP
đã và đang được sử dụng một cách rộng rãi ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Đặc trưng của PIGBLUP là BLUP nhưng chỉ sử dụng duy nhất cho lợn,
là một công cụ để tính giá trị giống cho lợn. Từ những tính toán đó,
PIGBLUP có khả năng so sánh tất cả các lợn giống có trong trại về giá trị di
truyền đạt được và đánh giá tiến bộ di truyền trong toàn đàn. Từ việc sử dụng
giá trị giống, người làm công tác giống sẽ quản lí chương trình nhân giống
của trại họ tốt hơn và làm tăng tốc độ cải tiến di truyền nhanh hơn.
Giá trị giống trong PIGBLUP là mô tả lượng di truyền cao hơn hoặc
thấp hơn so với giá trị giống trung bình của đàn cho tính trạng số con sơ sinh
sống/ổ để truyền đạt cho đời con của mỗi gia súc. Theo Hammond (1991),
trong mô hình PIGBLUP đã đồng thời xử lí cả giá trị giống và cả yếu tố môi
trường cho nên sự khác nhau về di truyền giữa các đàn lợn được phân biệt
một cách chính xác.
2.5. HỆ SỐ TƯƠNG QUAN
21
§å ¸n tèt nghiÖp Vò ThÞ Hêng - KN 901
Hệ số tương quan di truyền là mối tương quan do các gen quy định

đồng thời hai hoặc nhiều tính trạng gây ra. Có thể là do trường hợp một gen
quy định hai hay nhiều tính trạng hoặc có thể là 2 hệ thống gen liên kết điều
khiển cả hai tính trạng. Ví dụ, các gen làm tăng tốc độ lớn sẽ làm tăng cả thể
vóc và khối lượng của nó, do đó chúng sẽ gây ra mối tương quan giữa hai loại
tính trạng. Còn các gen làm tăng tốc độ béo thì làm tăng khối lượng nhưng
không có ảnh hưởng đến thể vóc, vì vậy chúng không có tương quan với
nhau. Một số gen có thể làm tăng hoặc giảm đồng thời cả hai tính trạng
(tương quan thuận), một số gen có thể làm tăng tính trạng này nhưng lại làm
giảm tính trạng khác (tương quan nghịch).
Mối liên hệ giữa hai tính trạng có thể trực tiếp quan sát được là giá trị
tương quan kiểu hình. Hệ số tương quan kiểu hình được xác định từ việc đo
lường hai tính trạng trên một số cá thể của quần thể. Tuy nhiên, chúng ta biết
không chỉ giá trị kiểu hình của các cá thể được đo lường, mà còn biết giá trị
kiểu gen và sai lệch môi trường của chúng đối với cả hai tính trạng. Hơn nữa
nếu chúng ta biết giá trị giống của các cá thể thì chúng ta cũng có thể xác định
được tương quan của giá trị giống.
Hệ số tương quan được tính theo công thức:
( )( )
( ) ( )
∑ ∑

1 1
22
1
--
- -
n
i
n
i

ii
n
i
ii
YX
XY
XY
YYXX
YYXX
r
= =
=








==
δδ
δ
Trong đó: δ
XY
: hiệp phương sai di truyền cộng gộp của 2 tính trạng X, Y.
δ
X
: độ lệch chuẩn giá trị di truyền cộng gộp của X.
δ

Y
: độ lệch chuẩn giá trị di truyền cộng gộp của Y.
Hệ số tương quan di truyền có giá trị từ -1 đến 1.
Nếu r
A
> 0 tương quan giữa 2 tính trạng đó là tương quan thuận.
Nếu r
A
< 0 tương quan giữa 2 tính trạng đó là tương quan nghịch.
0≤r
A
≤ 0,33: hai tính trạng có mối tương quan không chặt chẽ
22
§å ¸n tèt nghiÖp Vò ThÞ Hêng - KN 901
0,33< r
A
≤ 0,67: hai tính trạng có mối tương quan chặt chẽ.
0,67< r
A
≤ 1: hai tính trạng có mối tương quan rất chặt chẽ.
Ví dụ: Hệ số tương quan giữa dày mỡ lưng và tỉ lệ nạc là: - 0,90 đến - 0,95.
Diện tích cơ thăn và tỉ lệ nạc là: 0,86 đến 0,92.
Khi xem xét mối quan hệ giữa 2 tính trạng X và Y, ta có thể đánh giá
mức độ tương quan qua 3 hệ số tương quan:
- Tương quan kiểu hình giữa X và Y, kí hiệu r
P
- Tương quan di truyền giữa X và Y (tương quan di truyền cộng hoặc
tương quan giữa 2 giá trị giống), kí hiệu r
A
- Tương quan ngoại cảnh giữa X và Y (bao gồm sai lệch ngoại cảnh

và các sai lệch không phải do ảnh hưởng cộng gây nên), kí hiệu r
P
.
2.6. ƯỚC TÍNH HIỆU QUẢ CHỌN LỌC
Mục tiêu chủ yếu của chọn lọc gia súc là tạo được thế hệ sau có năng
suất, chất lượng sản phẩm cao hơn thế hệ bố mẹ. Ước tính quả chọn lọc là
thước đo của mục tiêu này. Khi đó ta biết được số lượng giống được chọn và
loại thải để có biện pháp chăn nuôi và nhân giống phù hợp. Ước tính hiệu quả
chọn lọc sẽ nâng cao hiệu quả kinh tế nếu ta lựa chọn đúng tỉ lệ chọn lọc.Tỉ lệ
chọn lọc càng nhỏ thì chất lượng con giống càng tốt và hiệu quả kinh tế càng cao.
Ước tính hiệu quả chọn lọc có thể được tính theo công thức:
R = h
2
S
Trong đó: R: hiệu quả chọn lọc.
h
2
: hệ số di truyền.
S: là ly sai chọn lọc.
2.7. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC
2.7.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến tính trạng số con sơ sinh sống/ổ
Khi nghiên cứu trên lợn Móng Cái, các tác giả Nguyễn Văn Đức
(1997), Nguyễn Văn Đức và Trần Thị Minh Hoàng (2002) cho biết, yếu tố di
23
§å ¸n tèt nghiÖp Vò ThÞ Hêng - KN 901
truyền nhóm giống lợn Móng Cái đều ảnh hưởng đến tính trạng năng suất
sinh sản của lợn.
Tạ Thị Bích Duyên (2003) nghiên cứu trên 2 giống lợn Landrace và
Yorkshire nuôi tại An Khánh, Thụy Phương và Đông Á cho biết, các yếu tố
cố định giống ảnh hưởng rõ rệt đến các tính trạng năng suất sinh sản.

Năm đẻ ảnh hưởng rất rõ rệt đến tính trạng số con sơ sinh sống/ổ, khối lượng
sơ sinh/con, số con cai sữa/ổ và khối lượng cai sữa/ con với mức P < 0,01 - 0,001
(Nguyễn Văn Đức, 1997)
Johansson và Kennedy (1985) nghiên cứu mức độ ảnh hưởng của các
yếu tố cố định đàn và năm đẻ thấy rằng sự sai khác có ý nghĩa đối với tính
trạng tuổi đẻ lứa đầu và khoảng cách giữa 2 lứa đẻ của 2 giống lợn Yorkshire
và Landrace (sai khác này dao động trong phạm vi 17,4 - 19,9 % đối với tính
trạng tuổi đẻ lứa đầu và 11,5 - 13,9% đối với tính trạng khoảng cách giữa 2
lứa đẻ, tương ứng cho hai giống nói trên)
Nhiều nghiên cứu liên quan đến yếu tố lứa đẻ cũng đưa ra kết luận
chung là số con/ổ tăng từ lứa đẻ thứ nhất đến lứa đẻ thứ 4 và 5 sau đó giảm chậm
dần đến lứa đẻ thứ 10 (Nguyễn Văn Đức, 1997, Tạ Thị Bích Duyên, 2003).
Lợn nái đẻ lứa thứ nhất có số con/ổ ít hơn nái đẻ từ lứa thứ 2 trở đi
Phùng Thị Vân và cộng sự, 1999) điều này có thể do tỉ lệ rụng trứng tăng lên
từ lứa thứ 2 (Đặng Vũ Bình, 1993). Dan và Summer(1995) cho rằng, khi tuổi
thụ thai lần đầu tăng, số con/ổ ở lứa đầu cũng tăng.
Trong các công trình nghiên cứu của nhiều tác giả đã cho biết yếu tố
đực phối có nhiều ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của lợn nái (Nguyễn Văn
Đức, 1997, Nguyễn Văn Đức và Trần Thị Minh Hoàng, 2002, Nguyễn Văn
Đức và cộng sự, 2002, Nguyễn Văn Nhiệm và cộng sự, 2002).
Ngoài các yếu tố trên, năng suất sinh sản của lợn còn chịu nhiều ảnh
hưởng của các yếu tố ngoại cảnh như: dinh dưỡng, chuồng trại, bệnh tật,
chăm sóc…
24
§å ¸n tèt nghiÖp Vò ThÞ Hêng - KN 901
2.7.2. Tính trạng số con sơ sinh sống/ổ
Tính trạng số con sơ sinh sống/ổ là tính trạng năng suất sinh sản rất
quan trọng góp phần vào việc quyết định số con cai sữa và số con cai
sữa/nái/năm.
Trong các nghiên cứu về khả năng sinh sản của giống lợn Móng Cái,

Nguyễn Văn Đức (1997) phân tích trên bộ số liệu tổng hợp của cả nước đã
công bố số con sơ sinh sống/ổ là 10,94 con/ổ, Lê Viết Ly (1999) cho biết tính
trạng này biến động trong phạm vi 10 - 14 con/ổ, Nguyễn Văn Đức và Giang
Hồng Tuyến (2000) công bố 11,31 con/ổ. Bên cạnh đó, Nguyễn Văn Nhiệm
và cộng sự (2002) công bố, số con sơ sinh sống/ổ của đàn lợn Móng Cái nuôi
ở Quảng Bình là 8,39 - 10,7 con/ổ. Nguyễn Quế Côi và cộng sự (2005) công
bố số con sơ sinh sống/ổ của đàn lợn Móng Cái nuôi ở Quảng Trị là 11 con/ổ.
Năm 2006, Nguyễn Văn Đức và cộng sự cho biết, số con sơ sinh sống/ổ của 2
nhóm lợn Móng Cái MC
15
và MC
3000
trong 3 lứa đẻ đầu là 10,81 và 12,77 con/ổ.
2.7.3. Giá trị giống về tính trạng số con sơ sinh sống/ổ
Từ đầu những năm 90, cùng với sự phát triển của máy vi tính, các nhà
chọn giống đã công bố nhiều kết quả nghiên cứu phân tích giá trị giống của
các giống lợn ở nước Tạ Thị Bích Duyên. Nguyễn Văn Thiện và cộng sự
(1999), nghiên cứu về giá trị giống trên 145 lợn nái Móng Cái tại Nông
trường Thành Tô theo 3 chỉ tiêu cơ bản số con sơ sinh sống/ổ, khối lượng cai
sữa/ổ và khối lượng 2 tuần/ổ đã xác định được 61 lợn nái Móng Cái có giá trị
giống đạt từ mức trung bình trở lên so với toàn đàn. Trong số đó, 10 cá thể có
giá trị giống cao nhất có điểm tổng hợp từ 119 đến 129 điểm.
Tạ Thị Bích Duyên và Nguyễn Văn Đức (2001) đã sử dụng phầm mềm
PIGBLUP để xác định giá trị giống cho mỗi cá thể lợn về số con sơ sinh
sống/ổ. Tạ Thị Bích Duyên (2003), Tạ Thị Bích Duyên và cộng sự (2003) đã
công bố các kết quả ước tính giá trị giống về số con sơ sinh sống/ổ từ -1,32
đến +1,26 trên đàn lợn Landrace và Yorkshire nuôi tại Đông Á và Thụy
25

×