Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

THIẾU MÁU THIẾU SẮT TRONG 3 THÁNG GIỮA THAI KỲ ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.61 KB, 26 trang )

THIẾU MÁU THIẾU SẮT TRONG 3 THÁNG GIỮA THAI KỲ

TÓM TẮT
Thiếu máu, thiếu máu thiếu sắt (TMTS) là vấn đề sức khỏe quan trọng ở
những nước đang phát triển cũng như những nước công nghiệp phát triển.
Phụ nữ mang thai và trẻ em dưới 5 tuổi là đối tượng nguy cơ cao trong dân
số. Nghiên cứu này nhằm mục tiêu: xác định tỷ lệ thiếu máu, thiếu máu thiếu
sắt bằng những xét nghiệm thường qui và định lượng ferritin huyết thanh; và
tìm các yếu tố liên quan với thiếu máu thiếu sắt trong thai kỳ
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang mô tả thực
hiện trên 302 thai phụ ở tam cá nguyệt thứ II đến khám thai tại bệnh viện
Đại học Y Dược. Những thai phụ này sẽ được xét nghiệm định lượng nồng
độ hemoglobin (Hb), ferritin huyết thanh và các gía trị huyết học khác.
Những thông tin về dịch tễ học, trình độ học vấn, mức độ ăn uống trong thai
kỳ…sẽ được thực hiện qua bảng câu hỏi mẫu.
Kết quả: Tỷ lệ thiếu máu trong thai kỳ (Hb < 11 g/dl) là 20,19%, nhưng
không có trường hợp nào thiếu máu nặng (Hb < 7 g/dl), tỷ lệ TMTS (Hb <
11 g/dl và ferritin < 12 ng/ml) là 17,21%. Những yếu tố liên quan với tình
trạng TMTS là: việc sử dụng sắt dự phòng trong thai kỳ, việc uống sữa có bổ
sung sắt trong thai kỳ, số con hiện có và số lần bỏ thai
Kết luận: Tỷ lệ thiếu máu, TMTS trong thai kỳ lần lượt là 20,19% và
17,21%. Tỷ lệ này tương ứng với các nước đang phát triển khác (25-35%) và
còn cách xa với các nước công nghiệp phát triển (5-8%)
ABSTRACT
Background: Anemia, Iron – deficiency anemia (IDA) is a public health
problem in the developing and even industrialized countries. Pregnant
women and the children under 5 years of age are among the high – risk
population. Our main in this study were to obtain the prevalence of anemia,
IDA and its association with mesures of IDA among a group of pregnant
women by routine methods and by serum ferritin and rick factors associated
Subjects: A cross – sectional survey the estimates are based on 302


reportedly healthy pregnant women in their second trimester, at hospital of
University of Science Medical and Pharmaceutical. A series of
determinations were conducted to determine heamoglobin concentration
(Hb); serum ferritin and other indexes. Then a questionaire for
epidemiological data, type of diet, level of education, laboratory data, ect.
was filled.
Result: The prevalence of anemia (Hb < 110g/dl) was 20.19%, but severe
anemia (Hb < 70g/dl) was absent; the prevalence of IDA (Hb < 110 g/dl and
serum ferritin < 12 ng/ml) was 17.21%. Iron prophy laxis in pregnancy –
general, milk fortified with iron, number of children, number of abortion
were associated with IDA during pregnancy.
Conclusion: The prevalence of anemia in pregnant women was 20.19%, of
IDA was 17.21%, which is the same as the prevalence found in other
developing countries (25-35%). This show that we are still far behind the
health status in the industrialized countries (5-8%)
Thiếu máu trong thai kỳ là một vấn đề sức khỏe cộng đồng chiếm mối quan
tâm hàng đầu trên toàn thế giới. Theo báo cáo khoảng 56% phụ nữ mang
thai ở các nước đang phát triển bị thiếu máu, trong khi chỉ có 18% ở những
nước phát triển
(6)
. Thiếu máu gây ra những hậu quả nghiêm trọng như: sanh
non, sanh con nhẹ cân, gây tử vong mẹ và con ở những trường hợp thiếu
máu nặng
(7,8)
. Thiếu sắt là nguyên nhân chiếm hàng đầu trong các nguyên
nhân gây thiếu máu. Ở những nước đang phát triển ngoài nguyên nhân thiếu
sắt trong khẩu phần ăn TMTS còn do các bệnh ký sinh trùng đường ruột và
sốt rét. Tỷ lệ TMTS ở những nước công nghiệp phát triển đã giảm trong vài
thập kỉ gần đây nhưng tỷ lệ TMTS chung trên toàn thế giới thay đổi rất ít.
Khoảng 500 triệu người trên thế giới bị TMTS, và tỷ lệ TMTS chiếm 25-

35% ở những nước đang phát triển, trong khi chỉ chiếm khoảng 5-8% ở
những nước công nghiệp phát triển
(4)
.

Những thai phụ có dự trữ sắt tốt, được bổ sung viên sắt đầy đủ trong thai kỳ
này vẫn có khả năng bị TMTS trong thai kỳ sau
(9,10)
. Khi dự trữ sắt trong cơ
thể người mẹ giảm sẽ đưa đến tình trạng giảm sắt trong thai nhi, thậm chí
tình trạng thiếu sắt này kéo dài trong năm đầu tiên của trẻ
(11)
.
Trong những thập kỉ gần đây, việc cải thiện chế độ dinh dưỡng, sử dụng sữa
có bổ sung sắt, sử dụng viên sắt dự phòng đã phần nào giảm tần suất thiếu
máu thiếu sắt
(10,11)
.
Một trong những vấn đề quan trọng là phân biệt TMTS và tình trạng thiếu
máu do những nguyên nhân khác như: sốt rét, nhiễm HIV, tình trạng viêm
mãn tính, bệnh lí hemoglobin
(12)
. Xét nghiệm máu nếu có nồng độ
hemoglobin thấp nhưng nồng độ ferritin bình thường sẽ loại trừ được những
trường hợp này. Nồng độ ferritin huyết thanh là chỉ số đặc trưng sử dụng để
đánh giá tình trạng dự trữ sắt của cơ thể
(13,14)
. Nồng độ hemoglobin (hay
nồng độ hematocrit) không đủ để đánh giá tình trạng thiếu sắt ở thai phụ bởi
vì có rất nhiều trường hợp thai phụ chỉ mới thiếu sắt chưa biểu hiện thiếu

máu.
Nghiên cứu này thực hiện nhằm mục tiêu đánh giá tỷ lệ thiếu máu, TMTS
trong thai kỳ dựa vào nồng độ hemoglobin và ferritin huyết thanh. Và tìm
những yếu tố liên quan đến tình trạng TMTS ở những thai phụ đến khám
thai tại bệnh viện Đại học Y Dược
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được thực hiện tại bệnh viện Đại học Y Dược từ tháng 10/2006
đến tháng 3/2007
Trong nghiên cứu này, 302 thai phụ có tuổi thai từ 12-24 tuần (tính theo siêu
âm hoặc kinh chót) sẽ được phỏng vấn và nhận vào nghiên cứu nếu không
có những yếu tố loại trừ. Những thai phụ có bệnh gan, tim mạch, ung thư
hoặc đang trong tình trạng nhiễm trùng sẽ không được nhận vào nghiên cứu.
Tất cả thai phụ sẽ được rút 2ml máu để xét nghiệm nồng độ hemoglobin và
định lượng nồng độ ferritin huyết thanh tại phòng xét nghiệm bệnh viện Đại
học Y Dược.
Chúng tôi sẽ thu thập những thông tin về tuổi, trình độ học vấn, nghề
nghiệp, chế độ ăn khi mang thai (ăn nhiều hơn, ít hơn hay bình thường), thói
quen ăn uống (thói quen sử dụng trà, cà phê, thuốc lá, rượu-bia, thuốc lá),
việc sử dụng sữa có bổ sung sắt, việc được bổ sung viên sắt dự phòng khi
khám thai, số con hiện có, số lần bỏ thai và biện pháp kế hoạch hóa gia đình.
Phân tích số liệu
Số liệu được quản lí và phân tích trên phần mềm SPSS 15. Sử dụng phép
kiểm 2 để kiểm định yếu tố liên quan.
KẾT QUẢ
Trong mẫu nghiên cứu của chúng tôi:
Tuổi mang thai trung bình của thai phụ là 27,91 ± 5,13 tuổi (18 tuổi – 40
tuổi).
Đa số thai phụ có trình độ học vấn cấp 2 – 3, chiếm 92,4%; tốt nghiệp đại
học và sau đại học (ĐH – SĐH) chiếm 7,6% và không có thai phụ nào có
trình độ cấp 1 hoặc mù chữ.

Tương ứng với trình độ học vấn, số thai phụ làm nhân viên văn phòng
(NVVP) chiếm tỷ lệ cao nhất trong mẫu nghiên cứu 47,3%, tiếp theo là nội
trợ (37,5%) và những nghành nghề khác (buôn bán, công nhân) chiếm
15,2%.
Vì đặc thù của bệnh viện Đại học Y Dược là bệnh viện bán công nên không
có thai phụ nào đến khám thai có kinh tế nghèo, đa số có tình trạng kinh tế
đủ ăn và khá, chiếm tỷ lệ lần lượt là 57,6% và 42,4%.
Bảng 1. Đặc điểm mẫu nghiên cứu
Đặc điểm
S
ố thai
phụ
T
ỷ lệ
(%)
0 lần 136 45,1
1 lần 105 34,9
2 -3 lần 61 20
S
ố lần
bỏ thai
> 3 lần 0 0
Chưa có
con
166 54,9
Có 1 con 75 25
S
ố con
hiện có
Có 2 con 30 9,9

Đặc điểm
S
ố thai
phụ
T
ỷ lệ
(%)
Có /3 con

31 10,2
Đặt vòng 23 7,6
Thuốc 15 4,9
Bao cao
su
68 22,9
Khác 128 42,7
Biện
pháp
KHHGĐ

Không
ngừa
68 22,4
Nhi
ều hơn

53 17,4
Bình
thường
123 42,4

Tình
tr
ạng ăn
uống
Ít hơn 121 40,2
Trà 61 20,1
Cà phê 52 17,4
Thói
quen ăn
uống
Thuốc lá 0 0
Đặc điểm
S
ố thai
phụ
T
ỷ lệ
(%)
Rượu, bia

22 7,6
Không 167 54,9
Có 219 72,4
S
ử dụng
viên sắt
Không 83 27,6
Có 257 84,9 S
ử dụng
s

ữa bổ
sung sắt
không 45 15,1
Dựa trên bảng 1, chúng tôi nhận thấy:
Chỉ có 4,9% thai phụ nghén nhiều trong thai kỳ, đa số thai phụ nghén ít,
chiếm 59,9% và 35,2% cảm thấy bình thường như lúc không mang thai.
Số liệu thống kê trong mẫu 302 thai phụ, tỷ lệ thai phụ ăn bình thường và ăn
ít hơn khi mang thai tương đương nhau, chiếm 42,4% và 40,2% và chỉ có
17,4% thai phụ ăn nhiều hơn so với lúc không mang thai.
Có 257 thai phụ sử dụng sữa bổ sung sắt trong thai kỳ, chiếm tỷ lệ 84,9% và
chỉ có 45 thai phụ không sử dụng sữa, chiếm tỷ lệ 15,1%.
Hầu hết thai phụ đều có bổ sung viên sắt khi mang thai, chiếm tỷ lệ 72,4%.
Nhóm nghiên cứu ghi nhận đa số thai phụ không có thói quen sử dụng trà, cà
phê, thuốc lá và rượu bia, chiếm tỷ lệ 54,9%.
Đa số thai phụ trong nghiên cứu sanh lần đầu chiếm 54,9%; sanh lần 2, lần 3
và lần 4 lần lượt chiếm tỷ lệ 25%, 9,9% và 10,2%
Chúng tôi ghi nhận trên 302 thai phụ tham gia nghiên cứu: có 45,1% thai
phụ chưa bỏ thai lần nào; 34,9% bỏ thai 1 lần, 20% bỏ thai 2-3 lần và không
có thai phụ nào bỏ thai trên 3 lần
Tỷ lệ thai phụ thiếu máu và TMTS trong thai kỳ
Trong tổng số 302 thai phụ, có 61 thai phụ bị thiếu máu (Hb < 11 g/dl)
chiếm tỷ lệ 20,19% và 241 thai phụ có mức hemoglobin bình thường, chiếm
tỷ lệ 79,81% trên tổng số mẫu nghiên cứu.
Bảng 2: Phân bố mức độ thiếu máu của thai phụ (theo tiêu chuẩn của WHO)
Mức độ thiếu máu

S
ố thai
phụ
T

ỷ lệ
(%)
Nh
ẹ (Hb từ 10 –
10,9 g/dl)
38 62,3
Trung bình (Hb từ 7-
9,9 g/dl)
23 37,7
Mức độ thiếu máu

S
ố thai
phụ
T
ỷ lệ
(%)
Nặng (Hb từ 4 –
6,9
g/dl)
0 0
R
ất nặng (Hb < 4
g/dl)
0 0
Tổng 61 100
Trong tổng số 61 thai phụ bị thiếu máu có 38 thai phụ thiếu máu nhẹ (chiếm
62,3%) và 23 thai phụ thiếu máu trung bình (chiếm 37,7%); không có thai
phụ nào thiếu máu nặng hoặc rất nặng
Căn cứ xét nghiệm nồng độ hemoglobin và ferritin huyết thanh, tỷ lệ thai

phụ bị thiếu máu thiếu sắt (khi nồng độ hemoglobin < 11 g/dl và nồng độ
ferritin huyết thanh < 12 ng/ml) là 17,21%, chiếm 85,25% trong tổng số thai
phụ bị thiếu máu.
Mối liên quan giữa TMTS trong thai kỳ và một số yếu tố nguy cơ
Về trình độ học vấn
Không có thai phụ học vấn dưới cấp 1. Trong nhóm thai phụ trình độ học
vấn đại học – sau đại học chỉ có 1 thai phụ bị TMTS (chiếm 4,3%), nhóm
thai phụ còn lại có 52 người bị TMTS (chiếm 18,5%). Mối liên quan này
không có ý nghĩa thống kê với p = 0,889.
Về nghề nghiệp
Nhóm nghề nội trợ chiếm tỷ lệ cao nhất và có 20,8% thai phụ bị TMTS,
trong những người làm việc văn phòng có 19,3% bị TMTS và ở những thai
phụ làm nghề khác (công nhân, buôn bán…) tỷ lệ TMTS là 2,2%. Mối quan
hệ này không có ý nghĩa thống kê với p =0,211
Về kinh tế
Trong 302 mẫu nghiên cứu của chúng tôi không có thai phụ có kinh tế
nghèo, trong nhóm thai phụ có kinh tế đủ ăn tỷ lệ TMTS chiếm 21,7% và
trong nhóm thai phụ kinh tế khá tỷ lệ TMTS chỉ chiếm 10,9%. Với phép
kiểm 2 chúng tôi nhận thấy giữa TMTS thai kỳ và tình trạng kinh tế không
có mối liên quan có ý nghĩa thống kê p=0,763
Về chế độ ăn
Những thai phụ có chế độ ăn nhiều hơn khi mang thai có tỷ lệ TMTS là
1,9%, nhóm thai phụ ăn bình thường so với lúc không mang thai có TMTS
là 12,9% và nhóm thai phụ ăn ít hơn khi có thai tỷ lệ TMTS là 31,1%. Với
phép kiểm 2 chúng tôi nhận thấy chế độ ăn lúc mang thai và TMTS không
có mối liên quan có ý nghĩa thống kê, p = 0,667.
Về thói quen ăn uống
Chúng tôi nhận thấy không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với tình
trạng TMTS trong thai kỳ, p = 0,231.
Biện pháp ngừa thai và TMTS trong thai kỳ

Cũng không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê, p = 0,118.
Bảng 3. Liên quan giữa TMTS trong thai kỳ và một số yếu tố nguy cơ
Thi
ếu máu thiếu
sắt
Y
ếu tố nguy

Có Không
Giá
trị P

15
(6,8%)
204
(93,2%)
Sử
dụng
viên
sắt
Không

36
(44%)
47 (56%)

0,041

30
(11,6%)


227
(88,4%)
Sử
dụng
s
ữa bổ
sung
sắt
Không

21
(47,8%)

24
(52,2%)
0,023
Không

1
(0,7%)
135
(99,3%)
1 lần
22
(22,8%)

83
(77,2%)
S

ố lần
bỏ thai

2-3 lần

30
(49,2%)

31
(51,8%)
0,007
0 con 15 (9%)

151(91%)

0,011
1 con
14
(18,7%)

61
(81,3%)

2 con
1
(3,3%)
30
(96,7%)

S

ố con
hiện có

3 con
22
(74,2%)

8 (25,8%)


Nghiên cứu trên 302 thai phụ chúng tôi nhận thấy đa số phụ nữ mang thai
được bổ sung viên sắt trong thai kỳ. Trong nhóm có sử dụng viên sắt số thai
phụ TMTS chiếm tỷ lệ 6,8%, trong khi ở nhóm không được bổ sung viên sắt
tỷ lệ TMTS là 44%. Qua phép kiểm 2, nhóm nghiên ghi nhận mối liên quan
giữa TMTS và vấn đề bổ sung sắt trong thai kỳ có mối liên quan có ý nghĩa
thống kê, với p = 0,04
Về vấn đề sử dụng sữa có bổ sung sắt trong thai kỳ, chúng tôi nhận thấy
trong nhóm thai phụ có sử dụng sữa có bổ sung sắt có tỷ lệ TMTS là 11,6%
và nhóm không sử dụng sữa bổ sung sắt có tỷ lệ TMTS là 47,8%. Mối liên
quan này có ý nghĩa thống kê, p = 0,023
Qua khai thác tiền căn sản khoa chúng tôi nhận thấy những thai phụ chưa bỏ
thai lần nào chỉ có 0,7% bị TMTS thai kỳ, và những thai phụ bỏ thai 1 lần,
2-3 lần bị TMTS thai kỳ chiếm tỷ lệ lần lượt là 20,8% và 49,2%. Mối liên
quan này có ý nghĩa thống kê (p=0,007).
Ở những thai phụ chưa có con, tỷ lệ TMTS chiếm khoảng 9% và tỷ lệ này
tăng lên cùng với số con hiện có (thai phụ có 3 con, tỷ lệ TMTS chiếm
74,2%). Qua phép kiểm 2 chúng tôi nhận thấy mối liên quan giữa TMTS
và số con hiện có của thai phụ có ý nghĩa thống kê, với p = 0,011.
BÀN LUẬN
Tỷ lệ thiếu máu và TMTS ở phụ nữ mang thai

Từ 302 thai phụ tham gia nghiên cứu được phân tích, chúng tôi ghi nhận tỷ
lệ thiếu máu trong thai kỳ tại bệnh viện Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí
Minh là 20,19%, tỷ lệ TMTS là 17,21%.
Những kết quả nghiên cứu trong trước đây cho thấy:
- Tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ mang thai theo công bố của Viện bảo vệ sức
khoẻ Bà mẹ – Trẻ em và trường Đại học Y Khoa Hà Nội vào năm 1994 là
40,4% trên toàn mẫu nghiên cứu
(1)
.

Năm 1996, Viện Dinh Dưỡng quốc gia thống kê trên 53 tỉnh thành trong cả
nước ghi nhận tỷ lệ thiếu máu trong thai kỳ tại Việt Nam là 52,3%
(3)
.
Riêng tại thành phố Hồ Chí Minh, nghiên cứu của Đặng Thị Hà thực hiện
trên 2.084 phụ nữ mang thai trên 22 quận nội, ngoại thành ghi nhận tỷ lệ
thiếu máu ở phụ nữ mang thai là 38,1% và tỷ lệ TMTS là 31,53%
(2)
.
So sánh với các tác giả trong nước, tỷ lệ thiếu máu, TMTS ở phụ nữ mang
thai theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn nhiều
(1-3)
. Điều này là do
nghiên cứu của chúng tôi thực hiện tại một bệnh viện, mà đặc thù của dân số
nghiên cứu ở đây đa số là có kinh tế đủ ăn và khá giả. Thai phụ đến khám
thai hầu hết đều ý thức được vấn đề quan trọng của việc khám và theo dõi
sức khỏe bà mẹ và bé. Trong khi đó, những nghiên cứu của các tác giả khác
được thực hiện tại cộng đồng, đặc biệt là nghiên cứu của Viện Dinh Dưỡng
Quốc Gia, khảo sát đến tận các vùng nông thôn sâu, nơi điều kiện kinh tế
còn nhiều khó khăn, ý thức về chăm sóc sức khỏe y tế và chăm sóc thai kỳ

của người dân còn nhiều hạn chế, vì vậy tỷ lệ thiếu máu, TMTS trong các
nghiên cứu rất cao.
So sánh với nghiên cứu của các tác giả nước ngoài thì tỷ lệ thiếu máu thai kỳ
của chúng tôi nằm trong giới hạn thay đổi chung của các nước đang phát
triển, từ 25-35%
(18)
. Nhưng tỷ lệ này cao rất nhiều so với những nước công
nghiệp phát triển, tỷ lệ thiếu máu thai kỳ ở các nứơc này chỉ từ 5-8%. Và
thấp hơn tỷ lệ thiếu máu trong thai kỳ các nước thuộc thế giới thứ 3
(18)
.
Nghiên cứu tại Mexico năm 1995 cho thấy thiếu máu gặp nhiều ở thai phụ
với tỷ lệ là 18,17%
(12)
.
Quan sát trên 3.591 phụ nữ mang thai của 15 tỉnh, Lao QK ghi nhận tỷ lệ
thiếu máu vào năm 2004 của thai phụ Trung Quốc là 19,1%
(15)
.
Tại Ấn Độ, nghiên cứu trên 15 quận cho thấy tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ mang
thai là 84,9%, trong đó tỷ lệ thiếu máu nặng (hemoglobin < 70 g/dl) chiếm
đến 13,1%
(17)
.
Nghiên cứu tại Malaysia năm 2005 ghi nhận tỷ lệ thiếu máu trên 52 thai phụ
tham gia nghiên cứu là 34,6%
(5)
.
Tỷ lệ thiếu máu thai kỳ trong nghiên cứu của chúng tôi là 20,19%, có nhiều
khác biệt so với nghiên cứu của các tác giả nước ngoài. Sự khác biệt này là

do cách chọn mẫu khác nhau, điều kiện chăm sóc y tế và chăm sóc tiền thai
ở mỗi quốc gia có sự khác nhau. Tuy nhiên, nhìn chung tỷ lệ thiếu máu trong
thai kỳ của các nghiên cứu trên (cả Việt nam và nước ngoài) đều nằm trong tỷ lệ
thiếu máu chung ở những nước đang phát triển theo thống kê trên toàn thế giới
(5-
12),(15-17)
.
Riêng tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ mang thai tại Ấn Độ cao gấp nhiều lần so với
kết quả nghiên cứu của chúng tôi; điều này có thể do tác giả lựa chọn đối
tượng nghiên cứu và chọn mẫu nghiên cứu có sự khác biệt.
Trong mẫu nghiên cứu của chúng tôi không có trường hợp nào thai phụ đến
khám thai trong tình trạng thiếu máu nặng, chủ yếu là thiếu máu nhẹ và
trung bình, trong khi đó nghiên cứu ở Ấn Độ vẫn có tỷ lệ thai phụ bị thiếu
máu nặng trong thai kỳ
(17)
.
Trong số những thai phụ thiếu máu trong nghiên cứu của chúng tôi, chiếm
đa số là thiếu máu ở mức độ nhẹ (Hb từ 10-10,9 g/dl), một số nhỏ thiếu
máu ở mức độ trung bình (Hb từ 7-9,9 g/d) và không có thai phụ nào thiếu
máu ở mức độ nặng (Hb từ 4-6,9 g/dl) và rất nặng (Hb < 4 g/dl).
Nghiên cứu của Đặng Thị Hà trên 22 quận nội, ngoại thành thành phố Hồ
Chí Minh ăm 2000 cho thấy tỷ lệ TMTS chiếm 82,64% tổng số thai phụ
thiếu máu và chiếm 31,53% trên toàn mẫu nghiên cứu
(2)
.
So với tổng số thai phụ bị thiếu máu, tỷ lệ thai phụ bị TMTS trong nghiên
cứu của chúng tôi chiếm 85,25%, kết quả này tương đương với kết quả
nghiên cứu của các tác giả khác trong cả nước. Điều này cho thấy thiếu máu
trong thai kỳ ở Việt Nam chủ yếu là do thiếu dinh dưỡng và trong đó do
thiếu sắt chiếm đa số.

Những kết quả nghiên cứu ở các nước khác trên thế giới cũng cho chúng tôi
thấy nguyên nhân gây thiếu máu ở phụ nữ mang thai chủ yếu là TMTS.
Tại Malaysia, Hassan và cộng sự tìm thấy tỷ lệ TMTS trên tòan bộ mẫu
nghiên cứu là 21,2%, và riêng trên những thai phụ có thiếu máu thì nguyên
nhân gây thiếu máu trong thai kỳ chủ yếu là TMTS, chiếm tỷ lệ 61,1%
(5)
.
Thống kê từ nghiên cứu của Liao QK trên 3.591 thai phụ Trung Quốc cho
thấy tỷ lệ TMTS ở phụ nữ mang thai là 19,1%
(17)
.
Tỷ lệ TMTS trong thai kỳ trên nghiên cứu của chúng tôi chiếm tỷ lệ 17,21%,
tỷ lệ này tương đương với tỷ lệ TMTS thai kỳ ở những nước đang phát triển
khác trên thế giới. Tuy nhiên vẫn có một số khác biệt so với nghiên cứu của
các tác giả trong cùng khu vực, điều này có thể giải thích do có sự khác nhau
về cách chọn đối tượng nghiên cứu, cỡ mẫu và do có sự khác nhau về tập
quán sinh hoạt, chế độ ăn uống, các dịch vụ chăm sóc y tế.
Nguyên nhân thiếu máu thai kỳ trong nghiên cứu của chúng tôi và nghiên
cứu của các tác giả trên thế giới chủ yếu là do TMTS (chiếm tỷ lệ từ 50,72
đến 85,25%).
Các yếu tố liên quan đến TMTS trong thai kỳ
Trong 302 mẫu nghiên cứu, với phép kiểm x
2
chúng tôi nhận thấy trình độ
học vấn và TMTS trong thai kỳ không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê
(p=0,889); kết quả này giống với kết quả của Đặng Thị Hà
(2)
.
Đặc thù nghề nghiệp sẽ chịu ảnh hưởng của tình trạng học vấn. Trong mẫu
nghiên cứu 302 thai phụ của chúng tôi, đa số thai phụ là nhân viên văn

phòng (chiếm 47,3%), tiếp theo là nội trợ (chiếm 37,5%) và những nghề
khác (buôn bán, công nhân…) chiếm tỷ lệ thấp nhất 15,2%.
Kiểm định 2 cho chúng tôi kết quả không có mối liên quan có ý nghĩa
thống kê giữa tình trạng TMTS và nghề nghiệp, p = 0,211.
Theo y văn, tình trạng kinh tế thấp sẽ dẫn đến việc bổ sung chất đạm cho
bữa ăn không đảm bảo đủ nhu cầu của cơ thể, từ đó nguy cơ TMTS sẽ tăng
lên. Qua phép kiểm 2, với p = 0,763 chứng tỏ mối liên quan giữa TMTS
trong thai kỳ và tình trạng kinh tế trong mẫu nghiên cứu của chúng tôi không
có ý nghĩa thống kê. Kết quả này khác biệt với kết quả nghiên cứu của Đặng
Thị Hà thực hiện tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2000. Sự khác biệt này là
do trong mẫu nghiên cứu của chúng tôi chỉ bao gồm những thai phụ có tình
trạng kinh tế trung bình và khá, không có thai phụ nào có tình trạng kinh tế
nghèo
(2)
.
Khi mang thai, do sự biến đổi sinh lí của cơ thể, thai phụ sẽ thay đổi khẩu vị
dẫn đến có sự thay đổi trong chế độ ăn hàng ngày. Tuy nhiên, chế độ dinh
dưỡng không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với tình trạng TMTS thai
kỳ. Phép kiểm 2 cho p = 0,667.
Kết quả này có sự khác biệt với nghiên cứu của Đặng Thị Hà trên 2.084 thai
phụ tại thành phố Hồ Chí Minh. Theo Đặng Thị Hà trường hợp ăn ít hơn
bình thường khi có thai sẽ tăng nguy cơ TMTS trong thai kỳ
(2)
.
Sự khác nhau này có thể do mẫu nghiên cứu của chúng tôi thực hiện ở bệnh
viện và nghiên cứu của Đặng Thị Hà thực hiện trong cộng đồng và cỡ mẫu
của tác giả lớn hơn của chúng tôi.
Ngoài những chất tăng khả năng hấp thu, sắt cũng bị ức chế hấp thu khi
được sử dụng chung với những chất như: trà, cà phê, rượu bia và thuốc
Canxi; cơ thể cũng khó hấp thu sắt nếu chế độ ăn quá nhiều chất xơ. Thói

quen chung của người Việt Nam là sử dụng nhiều ngũ cốc trong chế độ ăn,
lượng phytate trong ngũ cốc cũng làm khả năng hấp thu sắt giảm.
Phép kiểm 2 cho thấy giữa thói quen sử dụng trà, cà phê, rượu – bia và
TMTS trong thai kỳ không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê, p = 0,231.
Qua phép kiểm 2 chúng tôi nhận thấy rằng trong khi chế độ ăn nhiều hay ít
trong thai kỳ không liên quan đến TMTS thì việc sử dụng sữa bổ sung sắt lại
liên quan có ý nghĩa thống kê với TMTS (p = 0,023). Những thai phụ không
sử dụng hoặc sử dụng sữa không bổ sung sắt khi mang thai có nguy cơ
TMTS trong thai kỳ nhiều hơn so với những thai phụ sử dụng sữa bổ sung
sắt thường xuyên trong thai kỳ.
Một nghiên cứu thử nghiệm tại vùng nông thôn Việt Nam của P T H
(16)
cho
thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm sử dụng sữa bổ
sung sắt và nhóm sử dụng viên sắt trong việc cải thiện tình trạng thiếu sắt;
tuy nhiên, có sự khác nhau có ý nghĩa thống kê giữa nồng độ hemoglobin
của nhóm sử dụng sữa bổ sung sắt và nhóm chỉ sử dụng sữa không bổ sung
sắt (nồng độ hemoglobin lần lượt ở 2 nhóm là 1,2 ± 0,9 g/dl và 1,1 ± 0,8
g/dl, p < 0,01)
(16)
.
Phép kiểm 2 cho thấy giữa việc bổ sung viên sắt và tình trạng TMTS có
mối liên quan có ý nghĩa thống kê (p = 0,04). Những thai phụ sử dụng viên
sắt ít có nguy cơ bị TMTS hơn những thai phụ không sử dụng viên sắt trong
thai kỳ.
Nghiên cứu trên 2.084 thai phụ của Đặng Thị Hà tại thành phố Hồ Chí Minh
cũng ghi nhận hiệu quả ngừa TMTS thai kỳ của việc bổ sung viên sắt.
Những thai phụ không được bổ sung viên sắt có nguy cơ bị TMTS cao hơn
những thai phụ có bổ sung viên sắt là 37,86%
(2)

.
Qua phép kiểm 2, chúng tôi nhận thấy rằng giữa biện pháp ngừa thai và
tình trạng TMTS trong thai kỳ không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê
(p = 0,118).
Phép kiểm 2 cho thấy tình trạng TMTS và số lần bỏ thai liên quan có ý
nghĩa thống kê với nhau (p = 0,007). Bỏ thai càng nhiều lần thì nguy cơ
TMTS càng cao. Nếu so sánh với những thai phụ chưa bỏ thai lần nào,
những thai phụ có tiền căn bỏ thai 2 – 3 lần có nguy cơ TMTS là 49,2%.
Nghiên cứu của Đặng Thị Hà cũng cho kết quả tương tự: thai phụ đã hút nạo
thai 2 lần sẽ có nguy cơ TMTS so với thai phụ không hút nạo thai là
56.25%; số lần nạo hút thai từ 3-6 lần thì nguy cơ TMTS tăng lên rõ rệt so
với người không hút nạo thai
(2)
.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, phép kiểm 2 cho thấy mối liên quan giữa
số lần sanh và TMTS có ý nghĩa thống kê, p=0,011. Khi sanh con lần thứ 3
trở lên thai phụ sẽ tăng nguy cơ TMTS thai kỳ và tỷ lệ này là 74,2%.
Nghiên cứu tại thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2000 của Đặng Thị Hà cho
thấy phụ nữ có con lần thứ 3 sẽ tăng nguy cơ TMTS 54,17% so với phụ nữ
sanh con lần 1; sanh lần 4-7 thì nguy cơ TMTS tăng đến 75,40%
(2)
.
KẾT LUẬN
Qua khảo sát trên 302 thai phụ tại bệnh viện Đại học Y Dược chúng tôi ghi
nhận kết quả:
- Tỷ lệ thiếu máu trong thai kỳ tại bệnh viện Đại học Y Dược là 20,19%.
Trong đó:
+Tỷ lệ thiếu máu nhẹ (nồng độ hemoglobin từ 10 – 10,9 g/d) chiếm 62,3%.
+Tỷ lệ thiếu máu trung bình (nồng độ hemoglobin từ 7 – 9,9 g/dl) chiếm
37,7%.

+ Không có thai phụ nào đến khám thai trong tình trạng thiếu máu nặng
hoặc rất nặng.
- Tỷ lệ TMTS trong thai kỳ tại bệnh viện Đại học Y Dược là 17,21%. TMTS
chiếm 85,25% trong tổng số thai phụ bị thiếu máu.
- Tình trạng thiếu máu thiếu sắt trong thai kỳ liên quan đến các yếu tố như:
+ Số con hiện có: những thai phụ sanh nhiều lần sẽ tăng nguy cơ TMTS.
Trong nghiên cứu của chúng tôi những thai phụ có con lần thứ 3 tỷ lệ TMTS
thai kỳ là 74,2% so với những thai phụ mới có con lần đầu tỷ lệ TMTS là
9%.
+Số lần bỏ thai: bỏ thai nhiều lần sẽ làm tăng nguy cơ TMTS trong thai kỳ.
Tỷ lệ TMTS tăng dần theo số lần bỏ thai: bỏ thai 1 lần tỷ lệ TMTS là 0,7%,
bỏ thai 2 – 3 lần là 20,8%, bỏ thai 3 lần là 49,2 %.
+ Việc sử dụng sữa có bổ sung sắt trong thai kỳ với liều lượng khoảng 200
ml/ngày góp phần làm giảm nguy cơ TMTS trong thai kỳ. Những thai phụ
có sử dụng sữa có bổ sung sắt tỷ lệ TMTS là 11,6%, và những thai phụ
không sử dụng hoặc sử dụng sữa không có bổ sung sắt tỷ lệ TMTS là 47,8%.
+ Việc bổ sung viên sắt trong thai kỳ làm giảm nguy cơ TMTS trong thai kỳ
ở phụ nữ mang thai đến khám thai tại bệnh viện Đại học Y Dược. Trên
nhóm nghiên cứu chúng tôi nhận thấy: những thai phụ có sử dụng viên sắt
trong thai kỳ tỷ lệ TMTS là: 6,8% và những thai phụ không uống viên sắt có
tỷ lệ TMTS là 44%.
ĐỀ XUẤT
Từ những kết quả nghiên cứu trên, chúng tôi đã đưa ra một số đề xuất như
sau.
-Nên xét nghiệm định lượng hemoglobin thường qui khi thai phụ đến khám
thai lần đầu để đánh giá tình trạng thiếu máu trong thai kỳ.
-Nên định lượng ferritin huyết thanh thường qui trong thai kỳ để đánh giá
đầy đủ tình trạng thiếu sắt, TMTS của thai phụ.
-Tăng cường hướng dẫn biện pháp ngừa thai an toàn để giảm tình trạng bỏ
thai, giảm tình trạng đa sản.

-Khuyến khích thai phụ sử dụng sữa có bổ sung sắt trong thai kỳ để giảm

×