SA SÚT TRÍ TUỆ SAU ĐỘT QUỊ
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Sa sút trí tuệ có thể làm giảm đáng kể chất lượng cuộc sống của bệnh
nhân sau đột quị.
Mục tiêu: Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm xác định tần suất và
các yếu tố nguy cơ sa sút trí tuệ tại thời điểm 3 tháng sau đột quị lần đầu trên
bệnh nhân không bị sa sút trí tuệ trước đó.
Phương pháp: Từ tháng 07/2005 đến tháng 02/2006, có 335 bệnh nhân tuổi
từ 32 đến 86 được nhận vào nghiên cứu. Tất cả bệnh nhân trong mẫu nghiên
cứu được thăm khám thần kinh, đánh giá chức năng nhận thức bằng thang
điểm MMSE (lúc nhập viện và tại thời điểm 3 tháng), thực hiện các xét
nghiệm sinh hóa và chụp cắt lớp điện toán sọ não. Sa sút trí tuệ sau đột quị
được chẩn đoán tại thời điểm 3 tháng theo tiêu chuẩn DSM-IV.
Kết quả: Trong số đó có 117 bệnh nhân bị loại, gồm 8 bệnh nhân tử vong
trước thời điểm 3 tháng sau đột quị và 109 bệnh nhân không tái khám. Còn
lại 218 bệnh nhân được theo dõi đến cuối nghiên cứu. Kết quả tần suất sa sút
trí tuệ sau đột quị là 40,4%. Sa sút trí tuệ không liên quan đến loại đột quị
(nhồi máu não hoặc xuất huyết não). Ngược lại, sa sút trí tuệ sau đột quị có
liên quan đáng kể với các yếu tố dịch tễ như: tuổi (p = 0,001), giới (p <
0,001), trình độ học vấn (p < 0,001); các yếu tố nguy cơ mạch máu như: hút
thuốc lá (p = 0,003), đái tháo đường (p < 0,001), tăng huyết áp (p = 0,015),
tăng cholesterol (p = 0,037). Bệnh nhân tổn thương não bán cầu trái có nguy
cơ sa sút trí tuệ sau đột quị cao hơn nhóm bệnh nhân tổn thương não bán cầu
phải (p = 0,007), đặc biệt ở bệnh nhân có rối loạn ngôn ngữ (p < 0,001).
Kết luận: Sa sút trí tuệ là tình trạng xảy ra khá phổ biến sau đột quị. Không
có sự khác biệt về tần suất sa sút trí tuệ sau đột quị nhồi máu não và xuất
huyết não. Đột quị bán cầu trái và rối loạn ngôn ngữ có liên quan đến tình
trạng này. Các yếu tố tuổi, giới, trình độ học vấn và các yếu tố nguy cơ mạch
máu có thể là những yếu tố nguy cơ của sa sút trí tuệ sau đột quị.
ABSTRACT
Background: Dementia may significantly worsen the quality of life of post-
stroke patients.
Objectives: Our study was designed to determine the incidence and its risk
factors profiles of dementia at three months after a first stroke in a
consecutive series of previously nondemented patients.
Method: From July 2005 to February 2006, we had included and followed
335 patients aged 32 to 86 years. Neurological examination, cognitive
assessement by Mini-Mental State Examination test, serum biochemistry,
head CTscan were performed on all patients. Dementia at three month after
stroke was diagnosed according to the criteria of the Diagnostic and
Statistical Manual of Mental Disorders -IV (DSM-IV).
Results: Eight patients were dead by three months after stroke onset, and
109 did not retuned. So, only 218 patients fullfilled the protocol. The
incidence of dementia in these patients is 40.4%. Dementia is not related to
stroke type (ischemia or hemorrhage). Post-stroke dementia is significantly
related to the demographic factors as: age (p = 0.001), sex (p < 0.001),
education (p < 0.001) and the vascular risk factors as: smoking (p = 0.003),
diabetes (p < 0.001), hypertension (p = 0.015), hypercholesterolemia (p =
0.037). More patients with left hemispheric stroke develope dementia than
those with stroke on the right hemisphere (p = 0.007). The difference is
more clear if they are aphasic (p < 0.001).
Conclusion: Post-stroke dementia is rather incident despite its nature of
ischemia or hemorrhage. Its incidence seems to be related to the site of
stroke lesion in the left hemisphere and the presence of aphasia. Age , sex,
education and vascular risk factors such as smoking, diabetes, hypertension,
hypercholesterolemia may be risk factors for post-stroke dementia.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Xã hội ngày một phát triển, cùng với việc tuổi thọ con người ngày càng tăng
là tỉ lệ người cao tuổi trong dân số ngày càng lớn. Theo niên giám thống kê
năm 2004 tại Việt Nam, tuổi thọ trung bình của nam và nữ lần lượt là 70
(tuổi) và 73 (tuổi), tỉ lệ dân số từ 65 tuổi trở lên chiếm 6,7%. Tại nước Mỹ
năm 1950 chỉ có khoảng 10 triệu người trên 65 tuổi, nhưng đến những năm
đầu của thế kỷ 21 là 35 triệu người và ước tính vào năm 2050 con số này sẽ
tăng gấp đôi là 70 triệu người (chiếm 20,55% dân số Mỹ)
(10)
. Tuy nhiên, việc
sống thọ hơn không đồng nghĩa với sống khỏe hơn. Bởi vì người cao tuổi
luôn phải đối mặt với các bệnh như: bệnh mạch vành, suy tim, đột quị và sa
sút trí tuệ
(10)
. Sa sút trí tuệ (SSTT) là một hội chứng do nhiều nguyên nhân
khác nhau, trong đó sa sút trí tuệ mạch máu (SSTTMM) là nguyên nhân
thường gặp và đứng hàng thứ hai sau SSTT do bệnh Alzheimer
(1,5,12,14,15)
.
SSTT sau đột quị thuộc nhóm SSTTMM. Đây là di chứng về mặt nhận thức
bên cạnh di chứng về vận động thường gặp sau đột quị. Có nhiều lý do để
người ta quan tâm đến vấn đề này: một là tuổi thọ trung bình của con người
ngày càng cao, hai là tỉ lệ bệnh tăng tỉ lệ thuận với sự tăng tuổi thọ trung
bình, ba là bệnh có thể điều trị và kiểm soát được tiến trình bệnh ở một số
nguyên nhân. Tại Việt Nam lĩnh vực này được quan tâm muộn hơn so với
thế giới, có rất ít nghiên cứu về SSTT nói chung hay các báo cáo liên quan
đến SSTT sau đột quị nói riêng của người Việt Nam. Từ thực tiễn này chúng
tôi tiến hành nghiên cứu tần suất và các yếu tố nguy cơ của SSTT sau đột
quị tại khoa Thần kinh bệnh viện Chợ Rẫy.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát: Khảo sát tần suất SSTT trên bệnh nhân (BN) đột quị tại
thời điểm 3 tháng sau đột quị và các yếu tố nguy cơ của SSTT sau đột quị.
Mục tiêu cụ thể
1. Khảo sát tần suất SSTT của nhóm BN đột quị nhồi máu não (NMN),
nhóm BN đột quị xuất huyết não (XHN) và tần suất SSTT chung của cả hai
nhóm tại thời điểm 3 tháng sau đột quị.
2. Xác định liên quan giữa các yếu tố dịch tễ, tiền căn; các dấu hiệu lâm sàng
và cận lâm sàng của BN đột quị với tình trạng SSTT để tìm ra các yếu tố
nguy cơ của SSTT sau đột quị.
ĐỐI TƯỢNG -PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Tất cả BN từ 18 tuổi trở lên thỏa tiêu chuẩn đột quị về lâm sàng của Tổ chức
Y Tế Thế Giới và có tổn thương não được xác định trên hình chụp cắt lớp
điện toán sọ não là NMN hoặc XHN trên lều.
Tiêu chuẩn loại trừ
BN có tổn thương dưới lều hay xuất huyết khoang dưới nhện hay các BN
hôn mê, chấn thương sọ não, u não. Các BN có tiền căn: đột quị (NMN hay
XHN), rối loạn tâm thần, chậm phát triển tâm thần, các BN có khiếm khuyết
về thính lực và thị lực, bệnh trầm cảm, bệnh động kinh, bệnh Parkinson,
bệnh Alzheimer và BN có biểu hiện SSTT xảy ra trước đột quị do các
nguyên nhân khác.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Tiền cứu, mô tả cắt ngang.
Thu thập dữ liệu
Các BN được chọn vào mẫu nghiên cứu trong thời gian nằm viện được
khám lâm sàng, đánh giá điểm MMSE và thực hiện các xét nghiệm cận lâm
sàng. Sau đó nhóm BN này được tiếp tục theo dõi và xác định tình trạng
SSTT tại thời điểm 3 tháng sau đột quị dựa vào thang điểm MMSE và tiêu
chuẩn chẩn đoán DSM-IV.
Xử lý số liệu
Bằng phần mềm thống kê SPSS 11.5 for Windows. Tính tần suất SSTT tại
thời điểm 3 tháng sau đột quị. Tính tần suất cho các biến định tính hay trị số
trung bình cho các biến định lượng. Dùng phép kiểm chi bình phương
(2)
và
phép kiểm T (t-test) để tìm liên quan giữa các biến số này với tình trạng
SSTT.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Tần suất sa sút trí tuệ sau đột quị
Từ tháng 07/2005 đến tháng 02/2006, chúng tôi đã theo dõi 335 BN đột quị
lần đầu vào khoa thần kinh bệnh viện Chợ Rẫy thỏa các tiêu chuẩn chọn
bệnh và tiêu chuẩn loại trừ của nghiên cứu. Tuy nhiên có 117 BN không
hoàn tất nghiên cứu bị loại, còn lại 218 BN hoàn tất nghiên cứu được đưa
vào phân tích kết quả. Trong số này có 134 trường hợp NMN (61,5%) và 84
trường hợp XHN (38,5%), có 91 BN nữ (41,7%) và 127 BN nam (58,%). Có
88 BN trong số 218 BN hoàn tất nghiên cứu (chiếm 40,4%) được chẩn đoán
SSTT, tỉ lệ này tính cho cả nhóm nghiên cứu, không chọn lựa loại đột quị và
tình trạng mất ngôn ngữ. Nếu loại nhóm BN có rối loạn ngôn ngữ thì tỉ lệ
BN có biểu hiện SSTT tại thời điểm 3 tháng sau đột quị là 29% (45/155
BN). Nếu tính riêng cho từng nhóm NMN và XHN thì tỉ lệ BN thỏa tiêu
chuẩn chẩn đoán SSTT lần lượt là 42.5% (57/134 BN) và 36,9% (31/84
BN).
Các yếu tố nguy cơ của sa sút trí tuệ sau đột quị
Bảng 1: Các yếu tố dịch tễ và tiền căn
Biến nghiên cứu
BN
không
SSTT
BN có
SSTT
Giá
trị p
Các y
ếu tố dịch tễ
Tuổi trung bình
55,99 ±
12,18
62,95
±
12,28
0,001
N
ữ 40 51
<
0,001
Giới
Nam
90 37
Nông
thôn
56 43 0,400
Nơi
cư
trú
Thành thị
74 45
Không
biết chữ
10 26
<
0,001
Trình
độ
học
Cấp I-II 74 48
Biến nghiên cứu
BN
không
SSTT
BN có
SSTT
Giá
trị p
Cấp III 33 13
vấn
Trên c
ấp
III
13 1
Các yếu tố tiền căn
Không
43 26 0,582
Tăng
huyết
áp
Có 87 62
Không 125 72
<
0,001
Đái
tháo
đường
Có 5 16
Không
67 63
0,003
Hút
thuốc
lá
Có 63 25
Bảng 2: Các dấu hiệu lâm sàng, kết quả cận lâm sàng
Biến nghiên cứu BN
không
SSTT
BN
có
SSTT
Giá
trị p
Các d
ấu hiệu lâm
sàng
Bình
thường
43 16
0,015
Huy
ết áp
lúc nh
ập
viện
Tăng 87 72
Không 110 45
<
0,001
R
ối loạn
ngôn ngữ
Có 20 43
Mức độ liệt vận động
Không li
ệt vận
động
6 4 0,732
Li
ệt vận động một
phần
96 61
Biến nghiên cứu BN
không
SSTT
BN
có
SSTT
Giá
trị p
Liệt vận động ho
àn
toàn
28 23
= 15 119 67
0,002
Điểm
Glasgow
< 15 11 21
K
ết quả cận lâm sàng
Bình
thường
103 51
0,001
Đường
huyết
Tăng 27 37
Bình
thuờng
39 26 0,943
Triglycerid
Tăng 91 62
Cholesterol
Bình
thường
89 48
0,037
Biến nghiên cứu BN
không
SSTT
BN
có
SSTT
Giá
trị p
Tăng 41 40
Ch
ụp cắt lớp điện
toán
Tổn thương bán c
ầu
não phải
79 31
<
0,001
Tổn thương bán c
ầu
não trái
51 57
Nhồi máu não 77 57 0,409
Xuất huyết não 53 31
< 30 cm3
42 24 0,844
Th
ể tích ổ
xuất
huyết
> 30 cm3
11 7
Doppler
ĐM c
ảnh
Bình
thường
37 18 0,159
Biến nghiên cứu BN
không
SSTT
BN
có
SSTT
Giá
trị p
Có m
ảng
xơ vữa
33 32
cột sống
Hẹp tắc 7 7
Chúng tôi khảo sát và tìm liên quan giữa các yếu tố dịch tễ, tiền căn; các dấu
hiệu lâm sàng và cận lâm sàng của BN đột quị với tình trạng SSTT. Tuổi
trung bình của nhóm BN có biểu hiện SSTT tại thời điểm 3 tháng sau đột
quị cao hơn tuổi trung bình của nhóm BN không có biểu hiện SSTT. Tỉ lệ
BN nữ có SSTT cao hơn so với BN nam. Nguy cơ SSTT tỉ lệ nghịch với
trình độ học vấn, theo đó BN có trình độ học vấn càng thấp nguy cơ bị SSTT
càng cao. Nhóm BN có tiền căn đái tháo đường, hút thuốc lá dễ bị SSTT hơn
nhóm BN không có tiền căn đái tháo đường và hút thuốc lá (bảng 2).
Tỉ lệ SSST sau đột quị ở nhóm BN có tăng HA lúc nhập viện là 45,3% so
với nhóm BN không tăng HA lúc nhập viện là 27,1%, ở nhóm BN không
mất ngôn ngữ là 29% thấp hơn so với 68,3% ở nhóm BN có rối lọan ngôn
ngữ. Tỉ lệ SSTT sau đột quị ở nhóm BN có kết quả đường huyết bình thường
và tăng đường huyết lần lượt là 33,1% và 57,8%, ở nhóm BN có kết quả
cholesterol bình thường và tăng cholesterol lần lượt là 35% và 49,4%, ở
nhóm BN tổn thương bán cầu não phải là 38,2% và nhóm BN tổn thương
bán cầu não trái là 52,8% (bảng 2). Nói cách khác tăng huyết áp lúc nhập
viện và rối loạn ngôn ngữ; tăng đường huyết, tăng cholesterol và tổn thương
bán cầu não trái có liên quan đến tình trạng SSTT.
BÀN LUẬN
Tần suất sa sút trí tuệ sau đột quị
Nghiên cứu của chúng tôi thực hiện trong bệnh viện và thời gian theo dõi
khá dài nên việc mất mẫu là điều không tránh khỏi. Do chưa có phiên bản
thang điểm MMSE của người Việt Nam nên chúng tôi sử dụng bản dịch từ
nguyên bản của Folstein và cộng sự công bố năm 1975. Theo đó, khi điểm
MMSE < 23 được xem là có suy giảm nhận thức, Tại thời điểm 3 tháng sau
đột quị, nhóm BN có điểm MMSE < 23 được tách riêng, sau đó dựa vào tiêu
chuẩn DSM-IV để chẩn đoán tình trạng SSTT.
Có nhiều tiêu chuẩn chẩn đoán SSTTMM và trong thực hành lâm sàng chưa
thống nhất. Hơn nữa tần suất SSTT sau đột quị còn phụ thuộc vào vị trí địa
lý, chủng tộc, cách chọn mẫu và thời điểm đánh giá tình trạng SSTT sau đột
quị. Điều này dẫn đến tỉ lệ SSTT sau đột quị của mỗi nghiên cứu không
hoàn toàn giống nhau. Thật vậy, khi so sánh với các nghiên cứu trong và
ngoài nước về tần suất SSTT sau đột quị ghi nhận có khác nhau (bảng 3).
Bảng 3: So sánh tần suất SSTT sau đột quị giữa các nghiên cứu.
Nghiên
cứu
Cỡ
mẫu
Loại
đột
quị
Tiêu
chuẩn
Tần
suất
SSTT
Chúng tôi 218
BN
NMN
và
XHN
DSM-
IV
40,4
%
Tr
ần L
Giang
68 BN
NMN
và
XHN
DSM-
IV
51,5%
Inzitari D 339
BN
NMN
và
XHN
ICD-10
16,8%
Inge de
Koning
300
BN
NMN
và
XHN
DSM-
III-R
23,7%
Barba R 251
NMN
và
DSM- 30%
BN XHN
IV
Censori B 110
BN
NMN
NINDS
-
AIREN
24,6%
Pohjasvaara
T
337
BN
NMN
DSM-
III
31,8%
Tatemichi
T K
251BN
NMN
DSM-
III-R
26,3%
Desmond D
W
453
BN
NM
N
DSM-
III-R
26,3%
Theo y văn, khoảng 1/3 trường hợp đột quị trên 65 tuổi còn sống (25 - 41%)
có biểu hiện SSTTMM. Như vậy, tần suất SSTT sau đột quị trong nghiên
cứu của chúng tôi tương đối phù hợp với y văn nhưng cao hơn các tác giả
nước ngoài (bảng 3). Khi loại nhóm BN có mất ngôn ngữ thì tỉ lệ BN có
biểu hiện SSTT tại thời điểm 3 tháng sau đột quị là 29%, kết quả này gần
với các nghiên cứu khác vì phần lớn các tác giả này không tính đến các BN
có rối loạn ngôn ngữ.
Nếu tính riêng từng nhóm thì tỉ lệ SSTT sau đột quị NMN và XHN lần lượt
là 42,5% và 36,9%. Vì thế không tìm thấy sự liên quan giữa loại đột quị đến
tình trạng SSTT sau đột quị, Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của
Barba R và cộng sự
(8)
, ngược lại nghiên cứu của Inge de Koning và cộng
sự
(3)
ghi nhận những trường hợp XHN có nguy cơ SSTT sau đột quị cao hơn
các trường hợp khác, Sự không thống nhất này có thể do các tác giả dùng
tiêu chuẩn chẩn đoán khác nhau.
Các yếu tố nguy cơ của sa sút trí tuệ sau đột quị
Các yếu tố dịch tễ: Kết quả nghiên cứu phù hợp với y văn, tỉ lệ SSTT tăng
nhanh theo sự gia tăng của tuổi, tỉ lệ này được nhân lên gấp đôi sau mỗi 5
năm trong quần thể người trên 60 tuổi. Điều này cũng được minh chứng
trong các nghiên cứu của các tác giả sau: Barba B và cộng sự
(8)
, Desmond D
W và cộng sự
(17)
, Hébert R và cộng sự
(2)
, Inzitari D và cộng sự
(4)
,
Pohjasvaara T và cộng sự
(5)
, Rocca W A và cộng sự
(Error! Reference source not
found.)
, Tatemichi T K và cộng sự
(11)
. Tỉ lệ BN nữ có SSTT sau đột quị là 56%
(51/91 BN), cao hơn so với BN nam tỉ lệ này là 29,1% (37/127 BN). Kết quả
này phù hợp với nghiên cứu của Inzitari D và cộng sự
(4)
là SSTT thường gặp
ở nữ so với nam. Ngược lại các tác giả Pohjasvaara T và cộng sự
(5)
, Rocca
W A và cộng sự
(Error! Reference source not found.)
thì cho rằng nam có nguy cơ bị
SSTT sau đột quị cao hơn nữ. Một số nghiên cứu không ghi nhận sự liên
quan giữa giới tính với SSTT sau đột quị như: Hébert R và cộng sự
(2)
;
Tatemichi T K, Foulkes M A và cộng sự
(12)
. Dù chưa có sự thống nhất về sự
liên quan giữa giới tính với SSTT sau đột quị trong các nghiên cứu nêu trên,
nhưng kết quả nghiên cứu của chúng tôi phần nào thể hiện đặc điểm riêng
của người Việt Nam. Do đó cần một nghiên cứu khác với mẫu lớn hơn để
kiểm chứng kết quả này. Nhóm BN không biết chữ có tỉ lệ biểu hiện SSTT
sau đột quị cao nhất 72,2% (26/36 BN). Điều này có thể bị ảnh hưởng bởi sự
phân bố tình trạng học vấn theo giới và theo nơi cư trú (trong nhóm BN
không biết chữ, tỉ lệ nữ cao hơn nam, ngược lại trong nhóm BN học từ cấp I
trở lên tỉ lệ nam cao hơn nữ; tỉ lệ BN sống ở thành thị có trình độ học vấn từ
cấp III trở lên là 36,1% so với nhóm BN sống ở nông thôn tỉ lệ này là
17,1%). Kết quả này phù hợp với y văn và các nghiên cứu sau: Desmond D
W và cộng sự
(17)
, Pohjasvaara T và cộng sự
(7)
, Tatemichi và cộng sự
(3,11)
.
Như vậy chứng tỏ tuổi, giới và trình độ học vấn là yếu tố nguy cơ của SSTT
sau đột quị.
Các yếu tố tiền căn: Chúng tôi xác định tình trạng tăng HA qua hỏi tiền căn
tăng HA và đo HA lúc BN nhập viện, Tỉ lệ BN có tăng HA thông qua hỏi tiền
căn là 68,3%, thấp hơn tỉ lệ BN có tăng HA lúc nhập viện là 72,9%. Tỉ lệ
SSST sau đột quị ở nhóm BN có tăng HA lúc nhập viện là 45,3% so với
nhóm BN không tăng HA lúc nhập viện là 27,1%. Như vậy có một phần
không nhỏ BN đột quị chưa được tầm soát tăng HA trước khi xảy ra đột quị
và tăng HA lúc nhập viện có liên quan đến tình trạng SSTT. Điều này có vẽ
phù hợp với y văn và nghiên cứu của Hébert R và cộng sự
(2)
. Tương tự như
việc khảo sát tiền căn tăng HA, chúng tôi xác định tình trạng tăng đường
huyết trên BN đột quị qua khai thác tiền căn đái tháo đường và dựa vào xét
nghiệm đường huyết lúc đói trong thời gian BN nằm viện. Tỉ lệ BN được
chẩn đoán đái tháo đường trước khi bị đột quị là 9,6%, thấp hơn nhiều so với
tỉ lệ BN có tăng đường huyết lúc đói trong thời gian nằm viện là 29,4%. Điều
này cho thấy việc tầm soát đái tháo đường của chúng ta cũng chưa được thực
hiện tốt. Nghiên cứu của chúng tôi gần với một số nghiên cứu khác cũng cho
rằng đái tháo đường có liên quan đến SSTT sau đột quị như: Censori B và
cộng sự
(16)
, Desmond D W và cộng sự
(17)
, Hébert và cộng sự
(2)
. Trong nghiên
cứu này, qua hỏi tiền căn có 88 trong số 218 hút thuốc lá (chiếm 40,4%) và tất
cả BN có hút thuốc lá đều là nam. Có sự khác biệt về tỉ lệ SSTT sau đột quị
giữa nhóm BN không hút thuốc lá và nhóm BN có hút thuốc lá, Kết quả này
phù hợp với nghiên cứu của Pohjasvaara T và cộng sự
(7)
. Do đó có thể kết
luận hút thuốc lá có liên quan đến SSTT và nên khuyến khích việc ngừng hút
thuốc.
Các dấu hiệu lâm sàng: Tỉ lệ SSTT sau đột quị ở nhóm BN không rối lọan
ngôn ngữ là 29% thấp hơn so với 68,3% ở nhóm BN có rối lọan ngôn ngữ.
Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Censori B và cộng sự
(16)
, Inzitari và
cộng sự
(4)
. Phần lớn các nghiên cứu khác đã loại nhóm BN có biểu hiện rối
loạn ngôn ngữ trước khi phân tích kết quả nên không có kết luận về sự liên
quan này. Tất cả BN trong nghiên cứu của chúng tôi không có rối loạn tri
giác, chỉ có 32 trong số 218 BN (14,7%) có điểm Glasgow < 15 do có tình
trạng rối lọan ngôn ngữ. Tỉ lệ SSTT sau đột quị của nhóm BN có điểm
Glasgow < 15, cao hơn khi so sánh với nhóm BN có điểm Glasgow = 15,
Nghiên cứu của Inzitari và cộng sự
(Error! Reference source not found.)
nhận thấy
SSTT thường gặp ở những BN có rối loạn tri giác trong một tuần đầu sau
khi khởi phát đột quị. Như vậy, có sự liên quan giữa điểm Glasgow lúc nhập
viện với SSTT, Điều này càng làm rõ thêm sự liên quan giữa tình trạng rối
loạn ngôn ngữ với SSTT.
Các xét nghiệm cận lâm sàng: Tỉ lệ SSTT sau đột quị ở nhóm BN có kết quả
cholesterol bình thường và tăng cholesterol lần lượt là 35% và 49,4%. Điều này
phù hợp với các nghiên cứu của Barba R và cộng sự
(8)
, Pohjasvaara và cộng sự
(7)
;
nhưng khác với ghi nhận của tác giả Desmond DW
(17)
là tăng cholesterol không
liên quan với SSTT sau đột quị. Như vậy chưa có sự thống nhất về vai trò của
tăng cholesterol trong SSTT sau đột quị, nhưng có thể xem đây là yếu tố có liên
quan với SSTT. Tỉ lệ SSTT sau đột quị ở nhóm BN tổn thương não ở bán cầu
phải và bán cầu trái lần lượt là 38,2% và 52,8%. Kết quả này phù hợp với nghiên
cứu của Desmond D W và cộng sự
(17)
, nhưng khác với nghiên cứu của Barba
R và cộng sự
(8)
vì tác giả không thấy sự liên quan giữa SSTT với vị trí tổn
thương của đột quị, Sự không thống nhất này có thể do mẫu nghiên cứu khác
nhau, chúng tôi chỉ khảo sát đột quị trên lều trong khi tác giả Barba R nghiên
cứu cả đột quị trên dưới lều và các trường hợp không xác định vị trí tổn
thương.
KẾT LUẬN
Qua kết quả nghiên cứu sa sút trí tuệ trên 218 trường hợp đột quị lần đầu
không chọn lựa NMN hay XHN, điều trị tại Khoa Thần kinh Bệnh viện Chợ
Rẫy từ tháng 07/2005 đến tháng 02/2006, chúng tôi đưa ra một số kết luận
sau:
1. Tần suất SSTT tại thời điểm 3 tháng sau đột quị là 40,4%, Tỉ lệ này tính
chung cho NMN và XHN, không loại những trường hợp có mất ngôn ngữ,
Nếu loại những trường hợp mất ngôn ngữ, tần suất SSTT tại thời điểm 3
tháng sau đột quị là 29%, Tần suất SSTT tại thời điểm 3 tháng sau đột quị
NMN và XHN lần lượt là 42,5% và 36,9%.
2. Các yếu tố nguy cơ của SSTT sau đột quị: tuổi, giới, trình độ học vấn,
tăng huyết áp, đái tháo đường, tăng cholesterol máu, hút thuốc lá, rối loạn
ngôn ngữ và tổn thương bán cầu não trái.