Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

ÁP DỤNG KỸ THUẬT CAO TRONG CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ HIẾM MUỘN NAM DO BẾ TẮC pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 34 trang )

ÁP DỤNG KỸ THUẬT CAO TRONG CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ
HIẾM MUỘN NAM DO BẾ TẮC

TÓM TẮT
Mở đầu và mục tiêu: Hiếm muộn nam do bế tắc là lĩnh vực còn bỏ ngỏ lâu
nay do thiếu trang bị kỹ thuật cao. Với sự phát triển của các kỹ thuật cao
hiện tại tại bệnh viện Bình Dân như chụp X quang lúc mổ, siêu âm qua trực
tràng, vi phẫu thuật, đã cho phép tiến hành chẩn đoán chính xác và điều trị
hiếm muộn nam do bế tắc có hiệu quả. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm
đánh giá vai trò của siêu âm Doppler bìu, siêu âm qua ngả trực tràng và phẫu
thuật thám sát bìu kết hợp chụp ống dẫn tinh trong xác định vị trí tắc đối với
các trường hợp vô tinh do bế tắc (VTBT) mắc phải tại mào tinh không do
triệt sản. Ngoài ra, với sự trợ giúp của dụng cụ vi phẫu, chúng tôi đánh giá
hiệu quả của vi phẫu thuật nối thông lại ống dẫn tinh và mào tinh, bắc cầu
qua chổ tắc.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Bệnh nhân VTBT điều trị tại bệnh
viện Bình Dân từ tháng 10 năm 2000 đến tháng 11 năm 2004. Nghiên cứu tiền
cứu, mô tả cắt dọc, theo phương thức can thiệp lâm sàng.
Kết quả và bàn luận: 83 trường hợp VTBT. Tuổi trung bình là 36,42 ±
1,45 năm. Độ nhạy của siêu âm bìu trong chẩn đoán tắc mào tinh là 6,94%,
độ đặc hiệu là 72,72%. Độ nhạy của siêu âm qua ngả trực tràng trong chẩn
đoán tắc ống phóng tinh là 100%, độ đặc hiệu là 48,23%. Chụp ống dẫn tinh
(ODT) xác định vị trí tắc đường dẫn tinh đoạn xa có thể thực hiện bằng bơm
dung dịch sinh ký và luồn chỉ nylon 2-0. Trong số những bệnh nhân này, 39
trường hợp được điều trị bằng vi phẫu thuật nối ống dẫn tinh – mào tinh,
trong đó có 12 bệnh nhân được phẫu thuật nối bên-bên và 27 bệnh nhân
được phẫu thuật nối tận-bên cải biên. Kết quả được đánh giá dựa trên tinh
dịch đồ sau mổ 1-3-6-9-12 tháng, và sự thụ thai của vợ. 2 trường hợp nối
bên – bên thành công (có tinh trùng trong tinh dịch) với 1 trường hợp vợ
bệnh nhân vợ có thai. 17/27 trường hợp nối tận – bên có sự thông thương trở
lại với 10 trường hợp có thai. Hiệu quả thông thương của phẫu thuật nối tận


– bên kiểu lồng cải biên (khâu dọc ống mào tinh) là tương đương với phẫu
thuật nối tận – bên không lồng và phẫu thuật nối tận – tận (63% so với 60% -
78%), hơi thấp hơn phẫu thuật nối tận – bên kiểu lồng tam giác (85,7 - 92%).
Phẫu thuật nối bên-bên với bao xơ mào tinh có tỉ lệ thành công thấp nhất. Kỹ
thuật nối tận bên kiểu lồng cải biên, với hiệu quả có thai là 37% (10/27
trường hợp) tương đương với kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm với vi thao
tác tiêm tinh trùng vào bào tương trứng, mà chi phí thấp hơn nhiều (khoảng
1/10).
Kết luận: Chẩn đoán tắc tại tinh hoàn hay mào tinh dựa trên quan sát mào
tinh lúc mổ và khảo sát tìm tinh trùng trong dịch ODT. Chẩn đoán tắc ở
ODT có thể bằng bơm dung dịch sinh lý kết hợp luồn chỉ polypropylene 2-0
trong lòng ODT. Nối ống dẫn tinh – mào tinh vi phẫu nên thực hiện trong
điều trị vô sinh trên những bệnh nhân vô sinh do tắc mào tinh. Kỹ thuật nối
ống dẫn tinh – mào tinh kiểu lồng 2 mũi cải biên đem lại hiệu quả cao về sự
thông thương và thích hợp về mặt kinh tế.
ABSTRACT
Introduction and objective: Male obstructive infertility has been under-
developped due to lack of high-tech instruments. Applying high technology
at Binh Dan hospital such as in-operative radiology, trans-rectal ultrasounds,
microsurgery helped urlogists to make accurate diagnosis and effective
treatment for male obstructive infertility. This research was to evaluate the
role of scrotal Doppler ultrasound, trans-rectal ultrasound and scrotal
exploration combined with vasography in determining the obstructive site.
Moreover, by using microsurgical instruments, we did this research to
evaluate the effectiveness of the epididymovasostomy, to overcome the
obstruction.
Patients and methods: A clinical analytic prospective cohort study on
azoospermic patients with epididymal obstruction received surgical treatment
at Binh Dan hospital from October 2000 to November 2004.
Results and discussions: 83 patients, average age was 36.42 ± 1,45 years.

The sensitivity and specificity of Doppler ultrasound was 6.94 and 72.72%.
The sensitivity and specificity of transrectal ultrasound was 100 and
48.23%.Vasography to determine the obstructive site could be performed by
normal saline injection and passing a 2-0 nylon suture through the vas
opening. Among these patients, 39 cases of acquired epididymal obstructive
azoospermia received microsurgical epididymovasostomy at Binh Dan
hospital, in which, 12 patients were performed the laterolateral technique
and 27 patients with the modified intussupceptive terminolateral technique.
The patency of the anastomosis site was evaluated by spermiogram done at
1-3-6-9-12 month post-operative time and the conception. 2 cases of the
laterolateral technique were suscessful (presence of sperm in the ejaculate)
with 1 couple was conceived. 17/27 cases of the terminolateral technique
were suscessful with 9 cases got conceived The patency of the modified
intussupceptive terminolateral anastomosis (63%) was equal to the patency
of the non-intussupceptive terminolateral and terminoterminal techniques
(60-78%), slightly lower than the intussupceptive terminolateral triangular
technique (85.7-92%). The laterolateral technique (with epididymal capsule)
had the lowest succesful rate. The modified intussupceptive terminolateral
technique had a pregnancy rate of 33% (9/27 cases), equal to the invitro
fertilization with intracytoplasmic sperm injection microtechnique, with a
much lower cost (1/10).
Conclusions: Testicular and epididymal obstruction sites are confirmed by
direct intraoperative and inspection and finding sperm in vasal fluid. Vasal
obstructive site is determined by injecting normal saline and passing a 2-0
nylon suture through the vas lumen. Microsurgical vasoepididymostomy
should be considered for epididymal obstructive male infertility treatment The
modified intussupceptive terminolateral epididymovasostomy technique with 2
points had a high patency rate and an appropriate cost.
MỞ ĐẦU
Vô tinh do bế tắc là dạng hiếm muộn nam có thể điều trị được bằng phẫu

thuật, chiếm một tỉ lệ đáng kể trong những bệnh nhân hiếm muộn do vô tinh
nói riêng: 19-43%
(2,11,18)
và trong những người hiếm muộn nói chung: 3-14%
(2,26,30)
. Trong triệt sản nam, vị trí tắc là chỗ cắt-cột ống dẫn tinh. Trong các
trường hợp tắc mắc phải khác (hậu viêm, hậu chấn thương hay không rõ
nguyên nhân), vị trí tắc cần được xác định để từ đó có thể tiến hành phẫu
thuật thông đường dẫn tinh. Trong trường hợp vị trí tại mào tinh (MT), nối
thông lại ODT và MT, bắc cầu qua chổ tắc là giải pháp hợp lý.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá vai trò của siêu âm Doppler
bìu, siêu âm qua ngả trực tràng và phẫu thuật thám sát bìu kết hợp chụp ống
dẫn tinh trong xác định vị trí tắc đối với các trường hợp vô tinh do bế tắc
(VTBT) mắc phải tại mào tinh không do triệt sản. Ngoài ra, với sự trợ giúp
của dụng cụ vi phẫu, chúng tôi đánh giá hiệu quả của vi phẫu thuật nối ODT
– MT.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Những bệnh nhân bị VTBT đến điều trị tại bệnh viện Bình Dân từ tháng 10
năm 2000 đến hết tháng 11 năm 2004.
Phương pháp nghiên cứu
Tiền cứu, mô tả cắt dọc, theo phương thức can thiệp lâm sàng. Các bệnh
nhân đều được thực hiện siêu âm Doppler bìu (SÂDB) và siêu âm qua ngả
trực tràng (SÂTT), thám sát bìu (TSB) kết hợp chụp ống dẫn tinh (ODT).
Trong trường hợp tắc tại MT mà có thể nối thông được, bệnh nhân được tiến
hành phẫu thuật nối ODT-MT.
Kỹ thuật TSB kèm chụp ODT
Lúc mổ để xác định vị trí tắc (hình 1)
(10)

. Mê toàn thân hay tê tủy sống là lý
tưởng nhất. Chuẩn bị sẵn các dụng cụ vi phẫu thuật. Rạch da đường giữa
bìu, mở cả hai tinh hoàn ra ngoài. Mở tinh mạc hai bên,
Các tình huống xảy ra:
-Tắc tại tinh hoàn
(22)
: mào tinh xẹp.
-Tắc mào tinh: mào tinh căng. Tiến hành cắt mở ODT tại chỗ nối giữa đoạn
xoắn và đoạn thẳng trong bìu để khảo sát dịch ODT. Nếu dịch ODT không
có tinh trùng thì có tắc tại mào tinh. Vị trí tắc trên mào tinh được xác định
qua quan sát mào tinh, là ranh giới giữa mào tinh bên trên căng giãn và mào
tinh bên dưới xẹp
(8)
.
+Tắc đầu mào tinh: chỗ tắc nằm ở đoạn nối đầu và thân mào tinh.
+Tắc thân mào tinh: chỗ tắc nằm ở bất cứ vị trí nào tại thân mào tinh.
+Tắc đuôi mào tinh hay tắc toàn bộ mào tinh: chỗ tắc nằm ở đoạn nối đuôi
mào tinh và ODT.
-Tắc ODT: khảo sát dịch ODT có tinh trùng. Tiến hành chụp ODT. Chụp
ODT với chất cản quang tan trong nước. Thay vì dùng chất cản quang, có
thể kiểm tra sự thông của ODT bằng bơm dung dịch sinh lý pha với chất chỉ
thị màu xanh indigo carmine (nếu ODT thông, ống thông Foley bàng quang
sẽ thu được nước tiểu có màu xanh
(6)
) hay chỉ cần dùng dung dịch sinh lý
thường để khảo sát ODT (nếu dung dịch được bơm dễ dàng, chứng tỏ ODT
thông
(8),(11)
). Khi biết rõ có tắc ODT, có thể sử dụng chỉ nylon 2-0 hay 1-0
luồn qua lỗ mở ODT để biết vị trí tắc.

+Tắc ODT đoạn gần: chỗ tắc nằm ở đoạn ODT trong bìu
+Tắc ODT đoạn xa: chỗ tắc nằm ở ODT đoạn bẹn hay chậu.
+Tắc ODT nhiều chỗ hay tắc toàn bộ ODT nếu vừa tắc ODT đoạn gần vừa
có tắc ODT đoạn xa hay lòng ODT bít kín toàn bộ.
-Tắc ống phóng tinh: chiều dài đoạn ODT từ đuôi mào tinh tới chỗ tắc
khoảng 30 cm hay chụp ODT có hình ảnh tắc tại ống phóng tinh.

Hình 1: Các vị trí tắc đường dẫn tinh trong VTBT. “Nguồn: Hendry, 1983”.
-Tắc phối hợp (ODT và mào tinh, ODT và tinh hoàn, ống phóng tinh và mào
tinh hay ống phóng tinh và tinh hoàn).
Kỹ thuật nối bên-bên ODT với bao xơ MT
Kỹ thuật đã được mô tả từ năm 1903 bởi Martin
(17)
, Hendry là một trong
những tác giả trung thành với kỹ thuật nầy
(10)
(hình 2). ODT được xẻ dọc, lộ
niêm mạc. Phần MT có ống MT giãn được xẻ ra, dịch MT được soi dưới
kính hiển vi tìm tinh trùng. Khi có tinh trùng, dưới kính hiển vi, bao MT và
thành ODT được khâu lại với nhau bằng chỉ prolene 6-0, đi từ cực dưới
trước, khâu vắt, lên cực trên, mặt sau. Sau đó, khâu vắt mặt trước tương tự.

Hình 2: Nối ODT-MT bên-bên. “Nguồn: Hendry, 1983”
Kỹ thuật mổ nối ODT-MT kiểu lồng.
Vị trí nối được chọn nằm trên chỗ nghi tắc, gần chỗ có u hạt tinh trùng, tại
đó ống MT giãn được nhìn thấy rõ bên dưới bao MT. Chọn nơi tương đối vô
mạch, giữ bằng kẹp Babcock cải tiến (kẹp đã được cắt bỏ hai thanh ngang ở
đầu kẹp) để làm căng MT (hình 3).
Một lỗ khuy áo khoảng 3-4 mm được tạo trên bao MT bằng kéo vi phẫu để
tạo một lỗ tròn tương ứng với đầu ống dẫn tinh. Chọn một đoạn ống MT dài

nhất, chúng tôi bóc tách nhẹ nhàng bằng kéo sắc và kéo cùn cho tới khi đoạn
ống MT giãn to được bộc lộ rõ. Chúng tôi sử dụng kỹ thuật khâu 2 mũi chỉ
hai đầu đoạn ống MT và xẻ ngang thân ống, theo kỹ thuật Marmar cải biên.
Dùng chỉ prolene 9-0, 10-0, hai đầu kim, một đầu kim được khâu móc từ
lòng ODT ra một nửa thành ống, kéo xuyên kim, đầu kim còn lại sẽ khâu
vào ống MT sau. Thực hiện tương tự cho một sợi chỉ prolene 9-0, 10-0 khác,
khâu móc vào bên đối diện của ODT. Sau đó, 2 mũi kim của hai sợi chỉ
prolene nầy sẽ được móc lần lượt vào hai đầu của ống MT giãn căng, nhưng
không đâm xuyên qua (hình 4).


Hình 3: Kẹp Babcock cải tiến, không có thanh ngang.

Hình 4: Nối ODT-MT tận-bên kiểu lồng hai mũi cải biên. A: cắt mở ngang
ống mào tinh, lần lượt đâm xuyên cả hai kim trên ống. B: cột hai mối chỉ,
kéo ống mào tinh lồng vào lòng ODT. C và D: mối nối ODT-MT hoàn tất.
Cắt mở ngang ống MT ở giữa 2 mũi chỉ. Dịch MT được hút bằng kim luồn
mềm 24G, nhỏ lên một lam kiếng trộn với dung dịch sinh lý, đậy bằng lam
kiếng mỏng, khảo sát trên kính hiển vi bởi phẫu thuật viên dưới độ phóng
đại x40. Nếu có tinh trùng (di dộng hay bất động), tiến hành nối. Trước đó,
chúng tôi nhỏ tinh trùng hút được vào ống môi trường EPSS, gởi trữ lạnh.
Nếu không có tinh trùng, lổ mỗ MT được đốt, khâu lại bằng chỉ Vicryl 5-0.
Chúng tôi di chuyển lên phía đầu MT, cách chổ cũ khoảng 0,5cm. Đầu ODT
cũng được cắt rời, di chuyển theo. Quá trình được thực hiện lại cho tới khi
có tinh trùng trong dịch MT.
Kế đến, chúng tôi kéo xuyên hai mũi kim trên ống MT. Mỗi mũi khâu được
cột lại, sẽ làm ống MT lồng vào trong lòng ống dẫn tinh. Mép lổ mở bao xơ
MT được khâu với bao ngoài ODT bằng 4-6 mũi chỉ prolene 8-0. Nếu thực
hiện tốt thao tác, ODT sẽ được khâu đứng vuông góc vối thân MT, không
căng.

Theo dõi kết quả phẫu thuật
Kết quả được đánh giá dựa trên tinh dịch đồ (TDĐ) sau mổ 1-3-6-9-12-24
tháng và sự thụ thai của vợ.
KẾT QUẢ
Từ tháng 10 năm 2000 đến tháng 11 năm 2004, 83 trường hợp VTBT mắc
phải đã được chúng tôi phẫu thuật TSB tại bệnh viện Bình Dân, trong đó có
39 trường hợp được tiến hành phẫu thuật nối ODT-MT. Tuổi trung bình là
36,42 ± 1,45 năm, nhỏ nhất là 24, lớn nhất là 53. Nhóm tuổi gặp nhiều nhất
là 30-39 tuổi (51 bệnh nhân, chiếm 61,4%).
Kết quả chụp ODT
Chụp ODT được tiến hành ngay trong lúc mổ TSB (biểu đồ 1).

Biểu đồ 1: Kết quả chụp ODT

Hình 5: Chụp ODT hai bên, thuốc cản quang phun ngược vào hai túi tinh và
vào bàng quang, hai ODT đều thông.
Vị trí tắc
Bảng 1: Phân bố theo vị trí tắc
Phải Trái Chung
Vị trí tắc
Số
TH

%
Số
TH

%
Số
TH


%
T
ại tinh
hoàn
11 13,75

7 8,75 18 11,25
Mào tinh 30 37,50

37 46,25

67 41,86
Đầu MT 7 8,75 5 6,25 12 7,50
Thân MT 4 5,00 3 3,75 7 4,38
Đuôi MT 19 23,75

29 36,25

48 30,00
Ống dẫn
tinh
23 28,75

24 30,00

47 29,38
ODT
nhiều chỗ


14 17,5 12 15,00

26 16,25
ODT chậu

7 8,75 11 13,75

22 13,75
ODT bẹn 0 - 1 1,25 1 0,63
ODT bìu 1 1,25 0 - 1 0,63
B
ất sản
ODT
1 1,25 0 - 1 0,63
K
ết hợp
ODT và
MT
15 18,75

11 13,75

26 16,25
Ống
phóng tinh

1 1,25 1 1,25 2 1,25
* TH: trường hợp.
Vị trí tắc được xác định như sau:
-Tắc tại tinh hoàn: mào tinh xẹp.

-Tắc mào tinh: mào tinh căng. Tiến hành cắt mở ODT tại chỗ nối giữa đoạn
xoắn và đoạn thẳng trong bìu để khảo sát dịch ODT. Nếu dịch ODT không
có tinh trùng thì có tắc tại mào tinh. Vị trí tắc trên mào tinh được xác định
qua quan sát mào tinh, là ranh giới giữa mào tinh bên trên căng giãn và mào
tinh bên dưới xẹp.
+Tắc đầu mào tinh: chỗ tắc nằm ở đoạn nối đầu và thân mào tinh.
+Tắc thân mào tinh: chỗ tắc nằm ở bất cứ vị trí nào tại thân mào tinh.
+Tắc đuôi mào tinh: chỗ tắc nằm ở bất cứ vị trí nào tại đuôi mào tinh.
-Tắc ODT: khảo sát dịch ODT có tinh trùng. Tiến hành chụp ODT xác định
chỗ tắc:
+Tắc ODT bìu: chỗ tắc nằm ở đoạn ODT trong bìu.
+Tắc ODT bẹn: chỗ tắc nằm ở ODT đoạn bẹn.
+Tắc ODT chậu: chỗ tắc nằm ở ODT đoạn chậu.
+Tắc ODT nhiều chỗ hay tắc toàn bộ ODT nếu vừa tắc ODT đoạn gần vừa
có tắc ODT đoạn xa hay lòng ODT bít kín toàn bộ.
-Tắc kết hợp ODT và mào tinh: vừa có tắc mào tinh vừa có tắc ODT.
-Tắc ống phóng tinh: chiều dài đoạn ODT từ đuôi mào tinh tới chỗ tắc
khoảng 30 cm hay chụp ODT có hình ảnh tắc tại ống phóng tinh.
6 trường hợp có một tinh hoàn không sinh tinh (3 bên trái và 3 bên phải)
không được liệt kê trong bảng 1.
Siêu âm bìu
Siêu âm Doppler bìu được thực hiện trước mổ ở 83 bệnh nhân. Hình ảnh
siêu âm được chia thành hai nhóm: nhóm có dấu hiệu tắc tại mào tinh (nhân
xơ mào tinh, nang mào tinh, đóng vôi đuôi mào tinh) và nhóm không tắc
mào tinh. Kết quả siêu âm bìu trước mổ được kiểm chứng khi phẫu thuật
TSB. Kết quả được trình bày trong bảng 2.
Bảng 2: Giá trị chẩn đoán tắc mào tinh của siêu âm bìu
Kết quả siêu âm bìu
Có tắc MT Không tắc MT


Kết
qu
ả mổ
TSB
Trái

Phải

Tổng

Trái

Phải

Tổng

Có t
ắc
MT
5 5 10 70 64 134
Không
tắc MT

1 5 6 5 11 16
Độ nhạy của siêu âm bìu trong chẩn đoán có tắc tại mào tinh là 6,94%
(10/144) và độ đặc hiệu là 72,72% (16/22).
Siêu âm qua ngả trực tràng
Hình ảnh SÂTT được chia thành ba nhóm: nhóm gợi ý có tắc ống phóng
tinh, nhóm không tắc ống phóng tinh và nhóm bất sản túi tinh. Ở nghiên cứu
này không có trường hợp nào SÂTT ghi nhận bất sản túi tinh.

Kết quả SÂTT trước mổ được kiểm chứng bằng chụp ODT khi mổ TSB.
Chúng tôi xem có tắc ống phóng tinh nếu chụp ODT có hình ảnh tắc ống
phóng tinh với nang tuyến tiền liệt, hoặc khi luồn chỉ polypropylene 2-0 vào
ODT thấy vị trí tắc cách đuôi MT khoảng 30cm (bằng chiều dài của ODT).
Các trường hợp tắc ODT tại vùng bẹn, vùng chậu, hay tắc ODT nhiều chỗ
được xem là có thể kèm tắc ống phóng tinh. Các trường hợp chụp ODT
thông suốt được xem là không tắc ống phóng tinh. Kết quả được trình bày
trong bảng 3.
Bảng 3: Giá trị chẩn đoán tắc ống phóng tinh của SÂTT.
Kết quả của siêu âm qua ng

trực tràng
Có tắc OPT Không t
ắc
OPT
K
ết quả
c
ủa chụp
ODT
Trái

Phải

Tổng

Trái

Phải


Tổng

Tắc OPT

1 1 2 0 0 0
Có th

tắc OPT
11 9 20 30 29 59
Không
tắc OPT
21 23 44 20 21 41
*OPT: ống phóng tinh.
Độ nhạy của SÂTT trong chẩn đoán tắc ống phóng tinh là 100% (2/2) và độ
đặc hiệu là 48,23% (41/85).
Kết quả phẫu thuật nối ODT - MT
Tuổi của vợ các bệnh nhân tập trung vào thời điểm sinh sản mạnh ( 35
tuổi): 31 trường hợp (79,5%). Thời gian từ khi lập gia đình đến khi phẫu
thuật trung bình là 6 năm (từ 1 đến 20 năm). Không có trường hợp nào ghi
nhận có thời gian ngừa thai.
Thời gian phẫu thuật
39 trường hợp được phẫu thuật nối ODT-MT (12 trường hợp bên-bên (BB)
và 27 trường hợp tận-bên (TB)), chúng tôi chia làm 4 nhóm: phẫu thuật nối
BB một bên, nối BB hai bên, nối TB một bên, nối TB hai bên (bảng 4).
Thời gian phẫu thuật được ghi nhận cụ thể như sau:
Bảng 4: Thời gian phẫu thuật.
Th
ời gian phẫu
thuật
trung bình

(phút)
Một bên
(n = 20)
Hai bên
(n = 19)
N
ối bên -
bên (n
= 12)
60 ± 13,7 80 ± 7,6
N
ối tận -
bên (n
= 27)
76,7 ± 19,1

110,4 ±
21,7
p 0,0602 0,0001
Kết quả phẫu thuật
Kết quả ở các bảng 5 được phân tích dựa trên kết quả TDĐ sau cùng và sự
thụ thai của người vợ. Chúng tôi theo dõi ít nhất là 2 năm để không bỏ sót
những trường hợp chỗ nối ODT-MT thông trễ.
Trong 27 trường hợp nối TB, có 17 trường hợp thành công gồm:
-Có tinh trùng trong tinh dịch và vợ chưa có thai: 7 trường hợp.
-Có tinh trùng trong tinh dịch và vợ có thai: 6 trường hợp. Không trường
hợp nào TDĐ vừa đạt mật độ >20 triệu/ml và vừa có độ di động >50%.
-Không có kết quả TDĐ (do bệnh nhân ở xa, ngại xét nghiệm sau khi đã có
con) nhưng vợ có thai: 4 trường hợp.
Trong 12 trường hợp nối BB, có 2 trường hợp thành công:

-Có tinh trùng trong tinh dịch và vợ chưa có thai: 1 trường hợp.
-Không có kết quả TDĐ (do bệnh nhân ở xa, ngại xét nghiệm sau khi đã có
con) nhưng vợ có thai: 1 trường hợp.
Bảng 5: Kết quả của phẫu thuật nối ODT-MT.

N
ối TB
1 bên
N
ối TB
2 bên
N
ối
TB

N
ối BB 1
bên
N
ối BB
2 bên
N
ối
BB

Số BN mổ nối thành công 8 9 17 1 1 2
-
Có tinh trùng, chưa có
thai
3 4 7 1 0 1

- Có tinh trùng, có thai 3 3 6 0 0 0
- Chưa làm TDĐ, có thai 2 2 4 0 1 1
Số BN mổ nối thất bại 7 3 10 4 6 10
Tổng số BN 15 12 27 5 7 12
* BN: bệnh nhân.
Tỉ lệ thành công của phẫu thuật nối TB là 62,96% (17/27) cao hơn phẫu
thuật nối BB là 16,67% (2/12), khác biệt có ý nghĩa (p=0,0075).
Tỉ lệ có thai tự nhiên sau phẫu thuật TB là 37,04% (10/27), phẫu thuật BB là
8,33% (1/12), khác biệt không có ý nghĩa (p= 0,0659).
Đối với các trường hợp nối thành công, tỉ lệ có thai tự nhiên sau phẫu thuật
TB là 58,82% (10/17), phẫu thuật BB là 50% (1/2), khác biệt không có ý
nghĩa (p=0,8110).
Tỉ lệ thành công của phẫu thuật nối TB một bên là 53,33% (8/15) và nối TB
hai bên là 75% (9/12), khác biệt không có ý nghĩa (p=0,2466).
Tỉ lệ có thai sau phẫu thuật nối TB một bên thành công là 62,50% (5/8) và
nối TB hai bên thành công là 55,56% (5/9), khác biệt không có ý nghĩa (p=
0,7715).
Diễn tiến của TDĐ sau mổ, đối với các trường hợp nối thành công
Biểu đồ 2 trình bày diễn tiến của TDĐ của 13 trường hợp nối TB có tinh
trùng sau phẫu thuật, không xét đến 1 trường hợp có tinh trùng sau nối BB.
Sau mổ, thời điểm có tinh trùng trong tinh dịch sớm nhất là 1 tháng (2/13
trường hợp, chiếm 15,38%). Đa số trường hợp, có tinh trùng trong tinh dịch
sau 3-6 tháng (11/13 trường hợp, chiếm 84,61%). Một trường hợp có tinh
trùng trong tinh dịch sau 36 tháng. Mật độ tinh trùng cải thiện theo thời gian.


* S, H, …Tr02: tên bệnh nhân được viết tắt.
Biểu đồ 2: Diễn tiến mật độ tinh trùng trong tinh dịch đồ sau phẫu thuật nối
ODT-MT tận-bên.
Mối liên quan giữa mật độ tinh trùng và tình trạng có thai (cho những

trường hợp mổ nối thành công).
Đối với những trường hợp phẫu thuật thành công và có làm tinh dịch đồ sau
mổ, chúng tôi khảo sát mối liên quan giữa mật độ tinh trùng trong tinh dịch
của hai nhóm: vợ có thai và vợ chưa có thai.
Bảng 6: Mật độ tinh trùng và thụ thai.
Tình
trạng
người
vợ
Mật độ tinh tr
ùng
(tri
ệu/ml) của từng
trường hợp nối th
ành
công
M
ật độ
trung
bình
(triệu/ml)

Có thai
(n = 6) 5 6 12

14

16

42



15,83 ±
13,54
Chưa
có thai
(n = 8) 1 2 4 6 10

21

22

22

11 ± 9,24

Mật độ tinh trùng trung bình giữa hai nhóm vợ có thai và vợ chưa có thai
khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p = 0,2366).
BÀN LUẬN
Chụp ODT
Chụp ODT bằng cách đâm kim mù vào ODT vừa khó thực hiện, vừa có thể
gây sẹo hẹp tại nơi đâm kim nên chúng tôi không thực hiện. Chụp ODT
được chúng tôi tiến hành trong lúc mổ TSB, nhờ máy chụp X quang cơ động
(C-Arm) giúp xác định vị trí tắc.
Chúng tôi đồng ý với Mieusset
(18)
là khi có tắc ODT đoạn xa thì chính áp lực
trong lòng ống sẽ không cho phép bơm thuốc cản quang đi xa. Một trong
những trường hợp đầu tiên chúng tôi tiến hành chụp ODT với máy C-Arm,
khi bơm thuốc cản quang thấy tắc ở đoạn bẹn. Mở ODT đoạn bẹn không

thấy chỗ tắc, chụp lại ODT thấy chỗ tắc ở đoạn chậu. Dùng chỉ nylon 2-0
luồn vào lòng ODT thấy chỗ tắc nằm sâu ở ống phóng tinh. Vì thế, để xác
định chính xác vị trí tắc, cần phối hợp chụp X quang và luồn chỉ nylon 2-0.
Siêu âm bìu
Theo kết quả trên bảng 2, giá trị chẩn đoán tắc mào tinh của siêu âm bìu có
độ nhạy rất thấp (6,94%) và độ đặc hiệu cũng không cao (72,72%). Do vậy,
siêu âm bìu ít có giá trị chẩn đoán tắc tại mào tinh. Nhìn chung, theo Pierik
(21)
, siêu âm bìu giúp phát hiện giãn tĩnh mạch tinh đi kèm hay ung thư tinh
hoàn.
Siêu âm qua ngả trực tràng

×