Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

ĐIỀU TRỊ TRĨ BẰNG PHẪU THUẬT LONGO pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.86 KB, 29 trang )

ĐIỀU TRỊ TRĨ BẰNG PHẪU THUẬT LONGO

TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Trĩ là bệnh phổ biến, các phẫu thuật cắt trĩ đều gây đau sau mổ.
Phẫu thuật Longo là phương pháp mới dùng dụng cụ cắt và khâu niêm mạc
trực tràng bằng máy và ít gây đau sau mổ. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
nhằm đánh giá tính hiệu quả, an toàn của phẫu thuật Longo.
Phương pháp: Nghiên cứu 162 bệnh nhân trĩ được điều trị bằng phẫu thuật
Longo. Nghiên cứu được thiết kế theo nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng áp
dụng kỹ thuật mới.
Kết quả: Từ 01/2007 đến 09/2007, phẫu thuật được 162 ca, nam:nữ 95:67,
tuổi trung bình 46,08. Trĩ độ II đến độ IV, nhiều nhất là độ III (68,5%), thời
gian mổ trung bình 43 phút, nằm viện 3,8 ngày. Biến chứng sau mổ: đau ít
(71,6 %), chảy máu (3,7%), biến chứng muộn (3,1%) không có hẹp hậu môn
sau mổ.
Kết luận: Phẫu thuật Longo là một phương pháp điều trị trĩ an toàn, hiệu
quả nếu có sự chọn lọc bệnh nhân kỹ.
ABSTRACT
Introduction: Piles is a very common disease, all of conventional
hemorrhoidectomies are painful. Longo’s procedure is new technique in
which the rectal mucosa was cut and stapled with a device, as a result, it
caused less post-operative pain. The aim of this study was to dertermine the
efficacy and safety of Longo’s procedure.
Methods: This study included 162 patients with internal hemorrhoid who
underwent Longo’s procedure.The study design was clinical trial applying
new technique.
Results: From January 2007 to September 2007, 162 patients (95 males: 67
females) with average age of 46.08 and from second-degree to fourth-degree
hemorrhoids, 68.5% in third-degree. Mean operation time was 43 minutes.
Mean hospital stay was 3.8 days. The complications after procedure: mild
pain (71.6%), bleeding (3.7%), no cases of anal stenosis.


Conclusions: Out short-term result show that Longo’s procedure is safe and
effective for select patient.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trĩ là một bệnh rất phổ biến, có nhiều phương pháp mổ trĩ chứng tỏ chưa có
một phương pháp nào thật sự hoàn hảo. Dù áp dụng phương pháp phẫu thuật
nào hay bằng phương tiện nào thì vấn đề thời sự vẫn là đau vết mổ, chảy
máu, chít hẹp hậu môn sau mổ. Phẫu thuật Longo là phương pháp mổ trĩ
mới, gần đây đã được nhiều bệnh viện áp dụng. Phẫu thuật Longo dùng
dụng cụ cắt và khâu niêm mạc trực tràng bằng máy nhằm triệt mạch trĩ ở lớp
dưới niêm mà không can thiệp vào vùng da hậu môn, do đó có nhiều ưu
điểm như thời gian mổ nhanh, ít đau, hồi phục sớm, và ít gây hẹp hậu môn,
tuy nhiên phương pháp này vẫn có các biến chứng tương tự các phẫu thuật
kinh điển.
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này nhằm đánh giá kết quả điều trị trĩ
bằng phẫu thuật Longo.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát
Đánh giá kết quả điều trị trĩ bằng phẫu thuật Longo.
Mục tiêu chuyên biệt
- Khảo sát các đặc điểm lâm sàng
- Nhận xét kết quả điều trị bệnh: tính an toàn, hiệu quả, các ưu nhược điểm
ĐỐI TƯỢNG & PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu tiền cứu thử nghiêm lâm sàng áp dụng kỹ thuật mới trong thời
gian từ tháng 01/2007 đến tháng 09/2007 tại khoa Ngoại 4, Bệnh viện Bình
Dân.
Đối tượng nghiên cứu
Các bệnh nhân có trĩ búi (độ II,III,IV) hay trĩ vòng đơn thuần hay phối hợp
với thương tổn khác như sa niêm trực tràng, trĩ ngoại, da thừa hậu môn, nứt
hậu môn, dò hậu môn…

Chúng tôi loại trừ các trường hợp có thai, xơ gan, suy tim, ung thư trực tràng
hay vùng chậu gây trĩ triệu chứng.
Phương pháp
Nguyên tắc của kỹ thuật là cắt bỏ một khoanh niêm mạc hậu môn trực tràng
trên đường lược rồi nối lại bằng máy, vừa triệt mạch máu đến đám rối trĩ
trong vừa sửa chữa phần sa trượt niêm mạc các búi trĩ.
Chuẩn bị bệnh nhân trước mổ giống như các bệnh nhân mổ cắt trĩ và thêm
dụng cụ bấm cắt nối của Ethicon (PPH 33)
Các thì chính
- Chuẩn bị tư thế bệnh nhân, gây tê tủy sống
- Đặt dụng cụ nong hậu môn 33mm
- Khâu vòng niêm mạc: dùng chỉ prolene 2-0 khâu vòng lấy lớp niêm mạc
trên đường lược từ 2 đếm 4 cm.
- Đặt stapler bấm cắt, nối niêm mạc trực tràng.
- Kiểm tra cầm máu tăng cường
- Xử lý thương tổn kèm theo nếu có.
Săn sóc sau mổ
- Đánh giá mức độ đau theo Goligher
- Độ A: không đau Với độ A chúng tôi không cần dùng thuốc giảm đau
- Độ B: đau ít
- Độ C: đau vừa Độ B, C: chỉ cần dùng thuốc giảm đau uống
- Độ D: đau nhiều Độ D: cần dùng thuốc giảm đau chích (Paracetamol,
Diclofenac)
- Độ E: đau dữ dội Độ E: cần dùng thuốc giảm đau nhóm á phiện.
Hẹn tái khám sau 1 tuần, 2 tuần. Khám lại bằng tay và nội soi trực tràng.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Từ tháng 01/2007 đến tháng 09/2007 chúng tôi có 162 bệnh nhân được phẫu
thuật.
Nam
95 58,6%

Giới
N
ữ 67 41,4%
Tuổi trung bình 46,08 (từ 15 đến 86 tuổi)
TPHCM 111 68,5%
Nơi

Tỉnh 51 31,5%
Lí do nhập viện điều trị: sa búi trĩ (153 TH, 94,4%)
đi cầu có máu (111

TH, 68,4%)
Phân loại thương tổn
Trĩ búi Trĩ vòng
1 búi 9
2 búi 23
3 búi 63
4 búi 38
133 TH (82,1%)

29 TH
(17,9%)
Độ trĩ
Trĩ độ II Trĩ độ III Trĩ độ IV
22 (13,6%) 111 (68,5%) 29 (17,9%)
Thương tổn kèm theo
Trĩ ngoại: 24 TH
Búi trĩ tắc mạch: 1 TH
Sa niêm 15 TH
Da thừa 24 TH

Polyp HM-TT 6 TH
Dò hậu môn 2 TH
Phẫu thuật Longo đơn thuần: 89 TH (54,94%)
Phẫu thuật Longo + xử lý thêm thương tổn khác: 73 TH (45,06%)
Thời gian mổ trung bình: 43 phút
Mất máu trong khi mổ: rất ít
Khâu cầm máu tăng cường trong mổ: 143 TH (88,3%)
Đau sau mổ
Đau ít: 116 TH (71,6%)
Đau vừa: 28 TH (17,3%)
Đau nhiều: 18 TH (11,1%)
Không có TH nào không đau hay đau dữ dội sau mổ.
Bí tiểu sau mổ
21 TH (13%) có bí tiểu sau mổ phải đặt thông tiểu.
Chảy máu sau mổ
6 TH (3,7%)
- 1 TH chảy máu ở ngày hậu phẫu 1, vị trí 1giờ, soi trực tràng chích cầm
máu.
- 5 TH chảy máu sau khi xuất viện: 2 TH mổ lại khâu cầm máu, 3 TH chảy
máu còn lại tự cầm sau khi nhét gạc.
Thời gian nằm viện: ngắn nhất là 2 ngày, nhiều nhất 20 ngày (bệnh nhân này
có tiền căn tiểu đường, hậu phẫu đường huyết khó kiểm soát phải nằm viện
kéo dài),
Dưới 4 ngày: 135 TH (83,3%)
Trên 4 ngày: 27 TH (16,7%)
Thời gian nằm viện trung bình là 3,8 ngày.
Các biến chứng muộn
Thời gian theo dõi sau mổ sau 2 tuần đến 6 tháng
2 TH còn 1 búi trĩ sa độ 3, 1 TH mổ lại cắt búi trĩ sa
3 TH còn búi trĩ ngoại, da thừa

Nhiều TH còn cảm giác đi cầu vướng sau 1 tuần và hết sau tuần thứ 2.
Không có trường hợp nào hẹp hậu môn, nhiễm trùng, tiêu không tự chủ.
BÀN LUẬN
Trong khoảng thời gian 9 tháng, chúng tôi đã thực hiện được 162 ca phẫu
thuật Longo với kết quả như trên, từ đó chúng tôi rút ra một số nhận xét sau:
Các kết quả về dịch tễ học trong nhóm bệnh nghiên cứu cũng tương tự các
công trình nghiên cứu trong và ngoài nước như: tỷ suất mắc bệnh tương tự
nhau giữa hai giới, tập trung trong độ tuổi lao động
(2,4,8,11)
.
Về chỉ định phẫu thuật
Chúng tôi chọn lựa các bệnh nhân có trĩ nội từng búi hay cả vòng từ độ II
đến độ IV, trong đó nhiều nhất vẫn là trĩ độ III (68,5%), trên 3 búi trĩ và nhất
là những bệnh nhân có tình trạng sa niêm mạc kèm theo, tưong tự các tác giả
khác
(8,11)
. Có tác giả chỉ áp dụng cho trĩ độ III, IV
(2)
hay trĩ nội độ II dạng
vòng và trĩ độ III
(5)
.
Mensah
(9)
, trong nghiên cứu của mình đưa ra chỉ định lý tưởng cho phẫu
thuật Longo là trĩ nội độ III lớn hay trĩ nội độ II thành vòng, còn các trĩ nhỏ
thì chưa cần áp dụng phẫu thuật này.
Nguyên tắc của phẫu thuật Longo là triệt mạch máu đến các đám rối trĩ trong
làm thu nhỏ các búi trĩ nội đồng thời treo phần niêm mạc sa dãn của các búi
trĩ nội trở lại vị trí bình thường. Các trường hợp búi trĩ quá to, độ IV sẽ khó

thu nhỏ xẹp lại bằng triệt mạch. Trong lô nghiên cứu chúng tôi có 2 TH này
nhưng chỉ 1 bệnh nhân đồng ý mổ lại cắt đi búi trĩ.
Có các thương tổn tại chỗ đi kèm như trĩ ngoại, rò hậu môn, da thừa, polyp
hậu môn-trực tràng, nhú gai phì đại… không phải là chống chỉ định mặc dù
phẫu thuật Longo không giải quyết được các thương tổn này. Việc giải quyết
các thương tổn đi kèm sẽ làm giảm đi ưu điểm ít đau sau mổ của phẫu thuật
Longo
(9)
.
Theo y văn
(10)
, chống chỉ định áp dụng phương pháp Longo cho các trường
hợp trĩ có biến chứng sa nghẹt, tắc mạch, hoại tử nhiễm trùng, xơ chai.
Chúng tôi cũng tôn trọng nguyên tắc này, nhưng trong quá trình phẫu thuật
có gặp 1TH búi trĩ nội tắc mạch và phải cắt búi trĩ này, sau đó tiếp tục áp
dụng kỹ thuật Longo. Trên thế giới cũng đã có báo cáo áp dụng kỹ thuật
Longo cho các trường hợp trĩ thuyên tắc nhưng số liệu chưa nhiều
(1)
.
Về kỹ thuật
Thời gian mổ trung bình của chúng tôi là 43 phút. Do mới bước đầu áp dụng
kỹ thuật này và phải khâu cầm máu tăng cường, xử lý thêm tổn thương kèm
theo nên có thể thời gian có kéo dài hơn so với các nghiên cứu khác trung
bình chỉ là 20-30 phút
(2,6,8,11)
.
Do dụng cụ stapler vừa cắt bỏ và khâu nối ngay một khoanh niêm mạc trực
tràng trên đường lược nên kỹ thuật may về chiều cao và độ sâu của khoanh
niêm mạc phải được kiểm soát chặt chẽ, tránh làm tổn thương cấu trúc thành
trực tràng, âm đạo.

Đường khâu niêm mạc theo kỹ thuật Longo là cách trên đường lược 4-5cm,
khoanh niêm mạc được cắt ra có chiều cao 2cm và đường kim bấm nối niêm
mạc nằm trên đường lược từ 2cm trở lên. R.William
(13)
trong nghiên cứu của
mình, khi áp dụng đường kim bấm nối trên đường lược từ 5mm đến 50mm
tác giả nhận thấy rằng: các đường bấm nối nằm cách đường lược dưới 2cm
sẽ gây đau sau mổ nhiều hơn, còn đường bấm cách đường lược trên 4cm sẽ
dễ gây tái phát triệu chứng trĩ sa hay chảy máu. Do đó đường bấm cắt nên
nằm trên đường lược trong khoảng 2 đến 4cm.
88,3% các trường hợp chúng tôi phải khâu cầm máu tăng cường đường kim
bấm, có thể vì vậy mà thời gian mổ kéo dài. Phân tích biến chứng chảy
máu sau mổ với việc khâu tăng cường:
Chảy máu trên đường cắt nối là một bất lợi trong phẫu thuật và là yếu tố góp
phần tăng nguy cơ chảy máu sau mổ. Koh
(5)
trong nghiên cứu của mình
nhận thấy 44% có chảy máu trên đường cắt nhưng chỉ 31% cần khâu tăng
cường, tuy nhiên biến chứng chảy máu sau mổ vẫn xuất hiện ở nhóm đã
khâu tăng cường.
Kết quả sau mổ
Đau sau mổ
Đau là cảm giác chủ quan của bệnh nhân nên khó đánh giá chính xác. Các
tác giả nước ngoài thường sử dụng thang điểm VAS để đánh giá đau sau mổ
trĩ
(6,8)
, còn chúng tôi dựa theo phân độ đau của Goligher.
88,9% bệnh nhân trong lô nghiên cứu này có đau sau mổ nhưng chỉ cần
dùng thuốc đường uống, còn lại phải dùng thêm thuốc chích trong ngày hậu
phẫu 1, 2 sau mổ. Chúng tôi có nhiều bệnh nhân đau từ vừa đến nhiều có thể

do phải xử lý các thương tổn kèm theo.
Lomanto
(8)
trong một nghiên cứu khác nhận thấy rằng mức độ đau trong
những ngày hậu phẫu đầu tiên thường dưới 3 điểm VAS (đau ít).Theo y văn,
ưu điểm của phẫu thuật Longo là ít đau sau mổ, tuy nhiên chúng tôi chưa có
nhóm đối chứng để so sánh ưu điểm này. Một nghiên cứu của Lau
(6)
nhận
thấy mức độ đau sau mổ cắt trĩ và phẫu thuật Longo là không có sự khác
biệt.
Rối loạn đi tiểu
Bí tiểu là một vấn đề hay gặp sau mổ trĩ hay các phẫu thuật vùng hậu môn
trực tràng. Nguyên nhân gây bí tiểu có nhiều yếu tố góp phần như đau sau
mổ, phương pháp vô cảm tê tủy sống, khâu nhiều mũi chỉ… Tỉ lệ bí tiểu sau
mổ Longo là 7,8% có ít hơn sau cắt trĩ là 15,2%
(3)
, trong nhóm nghiên cứu
của chúng tôi tỉ lệ này là 13%. Các nghiên cứu khác thường dưới 10%
(2,8,12).

Nằm viện
Thời gian nằm viện trung bình khoảng 3,8 ngày tính luôn ngày chờ mổ, thực
tế chúng tôi có nhiều bệnh nhân chỉ cần nằm viện 2 ngày nếu được mổ trong
ngày. Chính ưu điểm ít đau, không cần săn sóc vết mổ nên bệnh nhân có thể
xuất viện về sớm. Các nghiên cứu khác cũng có kết quả tương tự hay về sớm
hơn trong vòng 36 giờ
(6,8)
.
Các biến chứng khác

Có 5 TH (3,1%) còn trĩ, da thừa gây khó chịu sau mổ, 1 TH mổ lại để cắt búi
trĩ sa.
Tỉ lệ biến chứng muộn sau phẫu thuật Longo trong khoảng 1,3%
(2)
đến
16%
(8)
, thường gặp nhất là: còn trĩ sa, đau kéo dài, chảy máu, hẹp hậu môn,
thuyên tắc trĩ, da thừa. Trong nghiên cứu này, chúng tôi không gặp trường
hợp nào hẹp hậu môn sau mổ, đây cũng là một ưu điểm của phẫu thuật
Longo. Trong một nghiên cứu khác, Lau
(6)
nhân thấy rằng phẫu thuật Longo
chỉ cải thiện được triệu chứng trĩ sa trong 62% TH, ít hơn so với phương
pháp cắt trĩ.
KẾT LUẬN
Đây là nghiên cứu đầu tiên với số lượng bệnh nhân chưa nhiều, thời gian
theo dõi còn ngắn nên chúng tôi chỉ đưa ra một số nhận xét ban đầu về kỹ
thuật Longo:
- Phẫu thuật Longo là một phương pháp mổ trĩ an toàn, áp dụng được cho cả
người lớn tuổi.
- Chỉ định tốt cho các trường hợp trĩ nội (búi, vòng) độ II, III, IV nhất là có
sa niêm trực tràng kèm theo.
- Kỹ thuật thực hiện không quá khó nhưng cần nắm vững nguyên tắc
- Ít đau sau mổ, thời gian hồi phục sớm, đỡ săn sóc vết mổ và không có biến
chứng hẹp hậu môn.
- Tuy nhiên phương pháp này vẫn có một số nhược điểm như: biến chứng
chảy máu sau mổ, còn sót trĩ phải cắt lại trong khi chi phí điều trị bằng máy
còn đắt tiền.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Brown SR (2001). Stapled mucosectomy for acute thrombosed
circumferentially prolapsed piles: a prospective randomized comparison
with conventional haemorrhoidectomy. Colorectal Dis. 3(3):175-8.
2. Carlos W. Sobrado (2006). Initial experience with stapled
hemorrhoidopexy for treatment of hemorrhoids. Arq Gastroenterol v. 43 (3)
238-242.
3. Choi HK (2006). Urinary retention after haemorrhoidectomy:impact
of stapled haemorrhoidectomy. Asian Journal Of Surgery Vol 29(4),233-
237.
4. Dương Phước Hưng (2003). Điều trị trĩ bằng phương pháp thắt trĩ
bằng vòng cao su. Hội thảo chuyên đề bệnh Hậu môn-Trực tràng,57-60.
5. Koh C S (2005). Stapled Haemorrhoidectomy: Bothersome Staple Line
Bleeding. Asian Journal Of Surgery 28(3) 193-197.
6. Lau P. (2004). Stapled haemorrhoidectomy in Chinese patients: a
prospective randomised control study. Hong Kong Med J;10:373-377.
7. Lê Quang Nhân (2003). Đánh giá kết quả bước đầu điều trị trĩ nội độ
3-4 bằng phẫu thuật Longo cải tiến. Hội thảo chuyên đề bệnh Hậu môn-Trực
tràng,39-45.
8. Lomanto D. (2007). Stapled Haemorrhoidopexy for Prolapsed
Haemorrhoids: Short- and Long-term Experience. Asian Journal Of Surgery
30(1), 29-33.
9. Mensah J (2005). Stapled hemorrhoidectomy. The American Journal
of Surgery 190:127–130.
10. Nguyễn Trung Vinh (2003). Kỹ thuật khâu vòng trong điều trị bệnh
trĩ. Hội thảo chuyên đề bệnh Hậu môn-Trực tràng, 1-6.
11. Pessaux P. (2004). Morbidity after stapled haemorrhoidectomy: long-
term results about 140 patients and review of the literature. Annales de
chirurgie 129, 571–577.
12. Pigot F.(2006). Vécu de la douleur postopératoire et résultats à long
terme après chirurgie hémorroïdaire par anopexie. Annales de chirurgie 131,

262–267.
13. Williams R.(2007). Stapled hemorrhoidopexy height as outcome
indicator. The American Journal of Surgery 193, 336–340.

TÌNH HÌNH PHẪU THUẬT LỒNG NGỰC
TẠI BỆNH VIỆN PHẠM NGỌC THẠCH TRONG 2 NĂM (2005 –
2006)
Lê Tiến Dũng*
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: Bước đầu đánh giá những kinh nghiệm và khả năng
phẫu thuật tại khoa Ngoại Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu. Bao gồm tất
cả những bệnh nhân được điều trị phẫu thuật tại khoa Ngoại Bệnh viện
Phạm Ngọc Thạch trong 2 năm (2005-2006).
Kết quả: Trong thời gian 2 năm từ 01/2005 đến 12/2006, đã có 724 bệnh
nhân được phẫu thuật tại khoa Ngoại Lồng ngực, bệnh viện Phạm Ngọc
Thạch. Các bệnh lý thường gặp: ung thư phế quản phổi gồm 247 trường hợp,
tràn khí màng phổi 128 trường hợp, ổ cặn màng phổi 64 trường hợp, u nấm
Aspergillus 73 trường hợp, u trung thất 44 trường hợp, các bệnh lý khác 168
trường hợp. Phẫu thuật chủ yếu là cắt thùy phổi và cắt phổi gồm 244 trường
hợp (33,7%), bóc vỏ màng phổi 53 trường hợp (9.7%), phẫu thuật lấy u
trung thất 27 trường hợp (3,7%), Plombage 18 trường hợp (2,4%), 3 trường
hợp phẫu thuật cắt nối phế quản (0,5%). Phẫu thuật nội soi gồm 176 trường
hợp trong đó có: 122 trường hợp điều trị tràn khí màng phổi, 10 trường hợp
nội soi trung thất và 5 trường hợp lấy u trung thất. Kết quả phẫu thuật: 97%
bệnh nhân có kết quả tốt. Biến chứng phải mổ lại là: chảy máu sau mổ 18
trường hợp (2,5%), dò phế quản 2 trường hợp. Có 2 bệnh nhân tử vong
chiếm tỷ lệ 0,4%.
Kết luận: Phẫu thuật điều trị các bệnh lý hô hấp ngày càng gia tăng, trong
đó gặp nhiều nhất là phẫu thuật điều trị ung thư phổi, kế đến là phẫu thuật

điều trị các bệnh lý liên quan đến lao. Việc thực hiện các kỹ thuật mới trong
phẫu thuật như phẫu thuật Plombage, cắt nối khí phế quản đã đem lại những
kết quả khả quan trong điều trị.
ABSTRACT
THORACIC SURGICAL OPERATION AT PHAM NGOC THACH
HOSPITAL
DURING TWO YEARS (2005-2006)
Le Tien Dung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 1 -
2008: 46 - 49
Objective: To review our experience of surgical treatment at Pham Ngoc
Thach hospital.
Material and Method: retrospective study. The patients were treated by
surgery in Thoracic Surgery Department at Pham Ngoc Thach hospital
during 2 years from 01/2005 to 12/2006.
Results: 724 patients were treated by surgery in Thoracic Surgery
Department at Pham Ngoc Thach hospital during 2 years from 01/2005 to
12/2006. The common indications: lung cancer 247 cases, pneumothorax
128 cases, pulmonary aspergilloma 73 cases, chronic pleural empyema 64
cases, mediastinal tumors 44, other indications 168 cases. The major
operative procedures were performed include pneumonectomy and
lobectomy 244 cases (33.7%), decortication 53 cases (9.7%), resection of the
mediastinal tumors 27 cases (3.7%), cavernostomy

followed by muscle flap
Plombage 18 cases (2.4%), tracheobronchial resections and reconstruction: 3
cases (0.5%). Thoracoscopic surgery was applied in 176 cases: 122 cases for
the treatment of pneumothorax, 10 cases of mediastinoscopy and 5 cases for
the resection of mediastinal tumors. The results of the operative treatment:
97% patients had good results. Complications requiring re-operation: 18
cases of postoperative bleeding (2.5%), bronchopleral fistula 2 cases. There

were 2 cases death (0.4%).
Conclusions: The surgical treatment of respiratory diseases increase more
and more. The common indications are surgical treatment for lung cancer
and surgical treatment for tuberculous diseases. To perform the new
operative procedures such as: Plombage, tracheobronchial resections and
reconstruction proved to have good results.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch là bệnh viện đầu ngành về lao và bệnh phổi
tại khu vực phía Nam. Hàng năm có hàng chục ngàn lượt bệnh nhân đã được
chẩn đoán và điều trị tại bệnh viện. Trong số đó nhiều bệnh nhân có chỉ định
điều trị phẫu thuật như ung thư phổi, tràn khí màng phổi, các bệnh lý nhiễm
trùng khác…Khoa Ngoại Lồng ngực được thành lập vào năm 2004 và đi vào
hoạt động từ tháng 1-2005 với nhiệm vụ điều trị và phẫu thuật cho những
bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật, góp phần nâng cao chất lượng điều trị.
Báo cáo này chỉ nêu lên một vài số liệu chính về hoạt động phẫu thuật và
một số tiến bộ trong điều trị tại khoa Ngoại Lồng ngực trong 2 năm đầu
thành lập (2005 – 2006) nhằm bước đầu đánh giá những kinh nghiệm và khả
năng phẫu thuật tại Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu hồi cứu các bệnh nhân phẫu thuật tại khoa Ngoại Lồng ngực
Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch trong thời gian 2 năm từ tháng 1/2005 đến
tháng 12/2006.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Trong thời gian 2 năm từ 2005 đến 2006 đã có 724 bệnh nhân được phẫu
thuật tại khoa Ngoại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch trong đó các bệnh lý hay
gặp là: ung thư phế quản phổi, các bệnh lý của lao, tràn khí màng phổi, u
trung thất, bệnh lý nhiễm trùng ngoài lao
Các bệnh lý phẫu thuật
B
ệnh lý phẫu

thuật
n %
Ung thư ph
ế quản
phổi
247 34.1
Tràn khí màng
phổi
128 17.7
U nấm phổi 73 10
Ổ cặn màng phổi 64 8.8
U trung thất 44 6
U lao 48 6.6
Áp xe, giãn ph
ế
quản
30 4.1
Kén khí phế quản 28 3.9
B
ệnh lý phẫu
thuật
n %
Các bệnh lý khác 62 8.6
Tổng số 724 100
Trong các bệnh lý hô hấp chỉ định phẫu thuật hàng đầu là ung thư phổi
chiếm 34.8%. Hiện nay ung thư phổi là ung thư đứng hàng đầu ở nam giới.
Tại Việt nam theo Nguyễn Việt Cồ (1996)
(2)
ung thư phổi chiếm khoảng
22,3% ở nam và 8,5% ở nữ so với tổng số các loại ung thư. Về tỷ lệ ung thư

phổi giữa nam và nữ, Văn Tần (2003)
(3)
đưa ra tỷ lệ nam gấp 3 lần nữ.
Chúng tôi gặp tỷ lệ nam gấp 2,2 lần nữ.
Đứng hàng thứ hai về bệnh lý phẫu thuật là các bệnh lý liên quan đến lao
như: u lao, u nấm phổi và ổ cặn màng phổi chiếm 24,9%. Tỷ lệ này cao hơn
so với báo cáo của Nguyễn Việt Cồ (1999)
(2)
tại bệnh viện Lao và Bệnh phổi
trung ương là 14,6%. Sự khác biệt này có thể do Việt nam hiện đứng thứ 3
tại khu vực châu Á- Thái Bình Dương về tỷ lệ mắc lao, mặt khác chỉ định
phẫu thuật trong điều trị lao ngày càng rộng rãi hơn.
Trong 2 năm 2005-2006 chúng tôi đã phẫu thuật cho 128 bệnh nhân tràn khí
màng phổi (17,7%) trong đó phẫu thuật nội soi 122 bệnh nhân chiếm tỷ lệ
95,3%. Các chỉ định phẫu thuật chủ yếu trong điều trị tràn khí màng phổi là
tràn khí màng phổi tự phát và tràn khí màng phổi có rò khí kéo dài.
Về bệnh lý trung thất chúng tôi gặp 44 trường hợp u trung thất (6%) và 10
trường hợp hạch trung thất. Bệnh lý trung thất gặp nhiều nhất là u thần kinh
gồm 19 trường hợp (43,2%), sau đó là u tuyến ức 8 trường hợp (18,2%). Tỷ
lệ giữa nam và nữ là 33 nam và 11 nữ. Văn Tần (2003)
(3)
cũng đưa ra tỷ lệ
tương tự.
Đối với bệnh lý nhiễm trùng ngoài lao như áp xe phổi, giãn phế quản chỉ
định phẫu thuật được đặt ra khi điều trị nội khoa thất bại hay giải quyết hậu
quả của bệnh như ho ra máu. Trong 2 năm chúng tôi chỉ gặp 30 trường hợp
(4,1%). Tại bệnh viện Lao và Bệnh phổi trung ương trong 5 năm 1994-1998
tỷ lệ này là 9,76% (Nguyễn Việt Cồ 1999)
(2)
. Sự khác biệt này có thể do

những tiến bộ của chẩn đoán và điều trị, của việc sử dụng kháng sinh hợp lý.
Phương pháp phẫu thuật
Bảng 1: Phẫu thuật mở ngực trong điều trị bệnh lý phổi - màng phổi
Phương pháp phẫu
thuật
n %
Cắt phổi không điển 45 10,5
hình
Cắt phân thùy phổi 4 0,9
Cắt thùy phổi 226 52,8
Cắt phổi 18 4,2
Bóc vỏ màng phổi 53 12,4
Mở cửa sổ màng
phổi
13 3
Cắt kén khí phế
quản
6 1,4
Mở ngực chẩn đoán 45 10,5
Phẫu thuật
Plombage
18 4,2
Tổng số 428 100
Phẫu thuật chủ yếu trong điều trị bệnh lý phổi là cắt thùy gồm 226 trường
hợp (52,8%). Đối với bệnh nhân ung thư phổi, tỷ lệ cắt thùy phổi là 65,2%.
Nguyễn Việt Cồ(1999)
(2)
, Đồng Lưu Ba (2003)
(1)
đưa ra tỷ lệ cắt thùy ở bệnh

nhân ung thư phổi là 78%.

×