Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Bảo Hiểm Nhân Thọ góp phần ổn định tài chính cho người tham gia part1 potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.67 KB, 6 trang )

I. Tổng quan về bảo hiểm nhân thọ
1. Lịch sử ra đời của BHNT.
1.1. Trên thế giới:
Hình thức BHNT đầu tiên ra đời năm 1583 ở Luân đôn, người được bảo
hiểm là William Gybbon. Như vậy, BHNT có phôi thai từ rất sớm, nhưng lại
không có điều kiện phát triển ở một số nước do thiếu cơ sở kỹ thuật ngẫu nhiên,
nó giống như một trò chơi nên bị nhà thờ giáo hội lên án với lý do lạm dụng
cuộc sống con người, nên BHNT phải tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau.
Tuy nhiên sau đó do sự phát triển kinh tế mạnh mẽ, cuộc sống của con người
được cải thiện rõ rệt, thêm vào đó là sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ
thuật nên bảo hiểm đã có điều kiện phát triển trên phạm vi rộng lớn. Hợp đồng
BHNT đầu tiên ra đời ở Philadenphia (Mỹ). Công ty đó đến nay vẫn còn hoạt
động nhưng ban đầu nó chỉ bán bảo hiểm cho các con chiên ở nhà thờ của mình.
Năm 1762, công ty BHNT Equitable ở Anh được thành lập và bán BHNT cho
mọi người dân.
Ở Châu Á, công ty BHNT đầu tiên ra đời ở Nhật Bản. Năm 1868 công ty
bảo hiểm Meiji của Nhật ra đời và đến năm 1888 và 1889, hai công ty khác là
Kyoei và Nippon ra đời và phát triển cho đến nay.
1.2.Tại Việt Nam
Ở nước ta, Công ty Bảo hiểm Việt Nam trước đây và Tổng công ty Bảo
Hiểm Việt Nam hiện nay (gọi tắt là BAOVIET) là doanh nghiệp Bảo hiểm
đầu tiên của Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, BAOVIET đã ra đời ngày
17/12/1964 và bắt đầu hoạt động chính thức từ ngày 15/01/1965. Kể từ đó cho
tới trước năm 1993, ở nước ta chỉ có một doanh nghiệp bảo hiểm là Tổng
Công ty Bảo hiểm Việt Nam (BAOVIET) trực thuộc Bộ Tài chính Trong
những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện công cuộc đổi mới về
kinh tế, từng bước đưa nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung chuyển sang nền
kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, tạo ra tiền đề cần thiết để
chuyển sang thời kỳ phát triển kinh tế mới, đẩy mạnh công cuộc công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu rõ : “Khuyến khích phát triển, đa dạng hoá


hoạt động kinh doanh bảo hiểm cuả các thành phần kinh tế và mở cửa hợp tác
với nước ngoài ”. Đường lối đổi mới kinh tế, xây dựng nền kinh tế nhiều
thành phần theo cơ chế thi trường với định hướng xã hội chủ nghĩa đã thể
hiện trong lĩnh vực bảo hiểm thương mại, cụ thể là ngày 18/12/1993 Chính
phủ nước Cộng hoà XHCN Việt Nam đã ban hành nghị định 100/CP về kinh
doanh bảo hiểm. Đây là văn bản pháp lý chuyên ngành đầu tiên đặt nền móng
cho pháp luật về bảo hiểm trong điều kiện kinh tế thị trường. Nghị định này là
bước ngoặt quan trọng tuyên bố chấm dứt sự độc quyền Nhà nước về kinh
doanh bảo hiểm tại Việt Nam. Theo nghị định này các doanh nghiệp bảo hiểm
có thể là doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp cổ phần, Hội bảo hiểm tương
hỗ, công ty liên doanh với nước ngoài, chi nhánh hay công ty 100% vốn nước
ngoài. Và có thể nói đây là thời kỳ bắt đầu của việc “tự do hoá” và mở cửa thị
trường Việt Nam.
Với nhận thức sâu sắc về vai trò và tầm quan trọng của BHNT, trong
những năm qua Chính phủ và Bộ Tài chính rất quan tâm phát triển nghiệp vụ
Bảo hiểm. Với sự ra đời của công ty BHNT chính thức đầu tiên ở Việt Nam
năm 1996 đã khẳng định rõ sự quan tâm của các cơ quan Nhà nước tầm vĩ
mô. Mặc dù chúng ta mới tiến hành nghiệp vụ BHNT hơn 5 năm, nhưng
những gì BVNT Việt Nam đạt được trong thời gian đó rất đáng ghi nhận. Tạo
nên cho người dân Việt Nam một phong tục sống mới, một hình thức tiết
kiệm mới.
Năm 1999 với sự tham gia của một số công ty BHNT có vốn nước ngoài
thị trường BHNT Việt Nam đã trở nên sôi động hơn và phong phú hơn. Giúp
cho người dân có thể lựa chọn cho mình sản phẩm bảo hiểm phù hợp nhất.
Cho đến nay thì đã có 5 công ty BHNT hoạt động trên thị trường bảo hiểm
Việt Nam đó là:
- Bảo Việt là công ty BHNT duy nhất ở Việt Nam có 100% vốn trong
nước, đồng thời có số vốn kinh doanh và thời gian hoạt động lâu nhất:
vốn kinh doanh là 55 triệu USD, phát hành hợp đồng đầu tiên ngày
01/8/1996, thời gian hoạt động là không kỳ hạn

- Manulife là công ty 100% vốn nước ngoài của Canada khai trương hoạt
động 12/6/1999, vốn đăng ký kinh doanh là 10 triệu USD, thời gian
hoạt động 50 năm.
- Prudential là công ty 100% vốn nước ngoài của Anh quốc đây là công
ty BHNT đầu tư vào Việt Nam có số vốn lớn sau Bảo Việt 40 triệu
USD, khai trương hoạt động ngày 29/10/1999 và có thời gian hoạt động
là 50 năm.
- Bảo Minh - CMG liên doanh giữa tập đoàn CMG (Australia) và Công
ty bảo hiểm TP Hồ Chí Minh (Bảo Minh) khai trương hoạt động ngày
12/10/1999, vốn đăng ký kinh doanh 6 triệu USD, thời gian hoạt động
30 năm.
- AIA công ty Bảo hiểm 100% vốn nước ngoài của Mỹ khai trương hoạt
động 22/2/2000, vốn đăng ký kinh doanh 10 triệu USD, thời gian hoạt
động là 50 năm.
Cho đến 1/4/2001 Luật kinh doanh bảo hiểm chính thức phát huy hiệu
lực tạo ra hành lang pháp lý đồng thời góp phần khẳng định vị trí của ngành
kinh doanh bảo hiểm trong xã hội Việt Nam.
2. Sự cần thiết của bảo hiểm nhân thọ (BHNT)
Bảo hiểm là sự chia sẻ rủi ro giữa một số đông với một số ít trong số họ
phải gánh chịu những rủi ro. Có thể nói nguyên tắc này lần đầu tiên được ghi
vào lịch sử là năm 1583, ở thị trường Luân đôn một nhóm người đã thoả
thuận góp tiền và số tiền này sẽ được trả cho người nào trong số họ bị chết
trong 1 năm. Đây cũng là mầm mống của nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ
(BHNT).
Trong cuộc sống sinh hoạt cũng như trong hoạt động sản xuất kinh
doanh hàng ngày dù đã luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng nhưng con người
vẫn có nguy cơ gặp phải những rủi ro bất ngờ xảy ra. Các rủi ro do nhiều
nguyên nhân, ví dụ như:
- Các rủi ro do môi trường thiên nhiên: Bão, lụt, động đất, hạn hán
- Các rủi ro xảy ra do sự tiến bộ và phát triển của khoa học kỹ thuật.

Khoa học kỹ thuật phát triển, một mặt thúc đẩy sản5 xuất và tạo điều kiện
thuận lợi cho cuộc sống con người nhưng mặt khác cũng gây ra nhiều tai nạn
bất ngờ như tai nạn ôtô, hàng không , tai nạn lao động
- Các rủi ro do môi trường xã hội. Đây cũng là một trong những nguyên
nhân gây ra rủi ro cho con người, khi xã hội càng phát triển thì con người
càng có nguy cơ gặp nhiều rủi ro như thất nghiệp, tệ nạn xã hội, lạm phát
Bất kể là do nguyên nhân gì, khi rủi ro xảy ra thường đem lại cho con
người những khó khăn trong cuộc sống như nguy hại đến bản thân, hao tổn tài
chính gia đình làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế xã hội. Để đối phó với
những rủi ro con người đã có nhiều biện pháp khác nhau nhằm kiểm soát
cũng như khắc phục những hậu quả do rủi ro gây ra. Đó là nhóm biện pháp
kiểm soát rủi ro và tài trợ rủi ro.
+ Nhóm biện pháp kiểm soát rủi ro bao gồm các biện pháp né tránh rủi
ro, ngăn ngừa tổn thất, giảm thiểu rủi ro. Các biện pháp này thường được sử
dụng để ngăn chặn hoặc giảm thiểu khả năng xảy ra rủi ro. Tuy nhiên là biện
pháp này đã giúp chúng ta ngăn chặn và giảm thiểu rất nhiều rủi ro trong
cuộc sống nhưng khi rủi ro xảy ra chúng ta không ngăn ngừa hết được hậu
quả.
+ Nhóm các biện pháp tài trợi rủi ro bao gồm các biện pháp chấp nhận
rủi ro và bảo hiểm. Đây là các biện pháp được sử dụng trước khi rủi ro xảy ra
với mục đích khắc phục các hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra nếu có. Khi chấp
nhận rủi ro thì con người phải đối phó với những khó khăn không những cho
bản thân mà còn về mặt tài chính của gia đình nữa cho nên bảo hiểm là
phương pháp tốt hơn để đối phó với rủi ro. Bảo hiểm là một phần quan trọng
trong các chương trình quản lý rủi ro của các tổ chức cũng như cá nhân. Theo
quan điểm cảu các nhà quản lý rủi ro, bảo hiểm là sự chuyển giao rủi ro trên
cơ sở hợp đồng. Theo quan điểm xã hội bảo hiểm không chỉ chuyển giao rủi
ro mà còn là sự giảm rủi ro do việc tập trung một số lớn các rủi ro cho phép
có thể tiên đoán về các tổn thất khi chúng xảy ra. Bảo hiểm là công cụ đối phó
với hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra, có hiệu quả nhất. Như vậy, bảo hiểm ra

đời là đòi hỏi tất yếu khách quan của cuộc sống con người.
Sự ra đời và phát triển của BHNT đã đóng góp một phần không nhỏ vào
sự phát triển cuả nền kinh tế trên thế giới. Ngày nay tham gia BHNT trở thành
một nhu cầu tất yếu của người dân các nước phát triển cũng như các nước
đang phát triển. Ở châu Á, những năm gần đây BHNT phát triển hết sức mạnh
mẽ, thực hiện chức năng huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân, tạo nguồn
đầu tư dài hạn cho sự phát triển kinh tế- xã hội, giảm bớt tình trạng vay vốn
nước ngoài với lãi suất cao. Theo số liệu của Thời báo kinh tế thì trong năm
2001 doanh thu phí BHNT đạt 2500 tỷ đồng, chiếm 0,55% GDP. BHNT giúp
tăng tích luỹ cho ngân sách nhà nước, góp phần giải quyết một số vấn đề xã
hội như vấn đề thất nghiệp, vấn đề giáo dục Hiện nay hầu hết các công ty
lớn trên thế giới đều tham gia BHNT nhằm duy trì hoạt động của công ty, bù
đắp phần thiệt hại do rủi ro trong trường hợp người chủ công ty phải ngừng
làm việc do tử vong hoặc thương tật toàn bộ vĩnh viễn.
Trong điều kiện kinh tế Việt nam, trải qua hơn 10 năm thực hiện đường
lối đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã đạt được những thành
tựu đáng phấn khởi và có ý nghĩa rất quan trọng. Đã ra khỏi khủng hoảng
kinh tế kéo dài, tạo ra được những cơ sở vật chất thuận lợi cho sự nghiệp phát
triển đất nước, cho phép chúng ta chuyển sang thời kỳ mới: "Đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội văn minh".
Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm từ 8 đến 9% và tốc độ tiêu
dùng thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế thì tiết kiệm trong dân sẽ không
ngừng tăng cả về số tuyệt đối và tỷ trọng so với GDP. Đa số với người dân,
ngoài khả năng gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng thì thường rất ít khả năng để
đầu tư những khoản tiền nhàn rỗi. Như vậy cùng với việc tăng nhanh số lượng
và tỷ lệ tiết kiệm trong dân, nhà nước cần phải có giải pháp, chính sách và
công cụ để huy động mạnh nguồn vốn trong dân cho đầu tư phát triển.
BHNT từ khi ra đời và triển khai các nghiệp vụ BHNT hỗn hợp mang
tính chất vừa bảo hiểm vừa tiết kiệm đã và đang huy động được một lượng
vốn không nhỏ trong dân. Tuy bước đầu, lượng người tham gia bảo hiểm

chưa lớn, số hợp đồng tham gia ở mức trách nhiệm cao cũng chưa nhiều,
nhưng đã mở ra thêm cho người dân một cách thức tiết kiệm mới đồng thời
góp phần vào phát triển nguồn vốn, tăng đầu tư cho đất nước.
3. Vai trò của BHNT
3.1. BHNT đối với nền kinh tế
Để đánh giá được đầy đủ ý nghĩa và vai trò của BHNT, trước hết chúng ta cần
hiểu rõ khái niệm về BHNT:
Bảo hiểm nhân thọ là sự cam kết giữa người bảo hiểm và người tham
gia bảo hiểm, mà trong đó người bảo hiểm sẽ trả cho người tham gia (hoặc
người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm) một số tiền nhất định khi có những sự
kiện đã định trước xảy ra (người được bảo hiềm bị chết hoặc sống đến một
thời điểm nhất định) còn người tham gia phải nộp phí bảo hiểm đầy đủ, đúng
hạn. Nói cách khác, BHNT là quá trình bảo hiểm các rủi ro liên quan đến sinh
mạng, cuộc sống và tuổi thọ con người.
BHNT ra đời có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội của
mỗi quốc qia:
Thứ nhất: BHNT góp phần ổn định tài chính cho người tham gia
hoặc người được hưởng quyền lợi bảo hiểm.
Nhắc đến BHNT là phải nhắc đến vai trò đầu tiên này, rủi ro là cái không
thể lường trước trong cuộc sống mỗi con người, xã hội càng phát triển càng
có nhiều cơ hội nhưng cũng đồng nghĩa với có nhiều rủi ro đe doạ cuộc sống
con người dẫn đến những bất ổn về tài chính cho cá nhân gia đình cũng như

×