Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

NGHIÊN CỨU SỰ THAY ĐỔI CHỨC NĂNG THẬNTRONG SỐC SỐT XUẤT HUYẾT DENGUE Ở TRẺ EM pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (411.93 KB, 19 trang )

NGHIÊN CỨU SỰ THAY ĐỔI CHỨC NĂNG THẬN
TRONG SỐC SỐT XUẤT HUYẾT DENGUE Ở TRẺ EM

TÓM TẮT
Mục tiêu : Đánh giá sự thay đổi của chức năng thận của 320 trường hợp
sốc sốt xuất huyết Dengue (SXHD), trong đó có 80 trường hợp sốc kéo dài, được
chẩn đoán xác định bằng xét nghiệm MAC – ELISA và/ hoặc HI.
Phương pháp : Tiền cứu, cắt ngang, mô tả.
Kết quả : Nghiên cứu cho thấy: tỉ lệ hạ natri máu là 64,70%, toan chuyển
hoá là 17,5%, nhóm sốc kéo dài có tỉ lệ hạ natri máu và toan chuyển hoá cao hơn
nhóm sốc đáp ứng với điều trị. Tỉ lệ tăng kali máu là 10% và hạ kali máu là
10,9%, tăng urê máu là 27,8% và tăng creatinin máu là 6,5%, khác biệt có ý nghĩa
thống kê giữa 2 nhóm. Có 2 trường hợp suy thận cấp (STC) sau sốc kéo dài, có
xuất huyết tiêu hóa (XHTH) nặng, được điều trị với số lượng lớn Dextran 40
(DX40). Thiểu niệu xảy ra sau sốc 3 ngày, vô niệu sau sốc 4 ngày. Cả 2 bệnh nhân
đều có giảm natri máu, tăng kali máu, tăng urê máu và tăng creatinin máu. Hai
bệnh nhân được điều trị bảo tồn với hạn chế lượng dịch truyền, dopamin liều thấp
( 2,5 – 3 mcg/kg/phút) và theo dõi sát. Chức năng thận trở về bình thường khi xuất
viện.
Kết luận : Trong điều trị sốc SXH D, việc chẩn đoán sớm, điều trị đúng,
tránh sốc kéo dài là những yếu tố quan trọng làm giảm tỉ lệ tử vong SXH D ở trẻ
em.
ABSTRACT
THE CHANGE OF RENAL FUNCTION IN DENGUE SHOCK
SYNDROME IN CHILDREN.
Ta Van Tram * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 4 –
2008: 154 - 159
Objective : The objective of this study was to evaluate the change of renal
function of 320 cases with Dengue shock syndrome ( DSS ), were confirmed by
MAC – ELISA and /or HI test.
Methods: prospective descriptive study.


Results : In which, 80 cases were prolonged shocks. The study showed
that: hyponatremia occurred in 207 (64.7%), metabolic acidosis occurred in 56
(17.5%) patients, differed significantly between the group with and without
prolonged shock. Hyperkalemia and hypokalemia occurred in 32 (10%), 35
(10.9%) respectively. The rate of hyperuremia was 27.8%, hypercreatininemia was
6.5%, differed significantly between two groups. Two cases of acute renal failure
associated with prolonged shock and severe gastrointestinal bleeding which were
infused a large volume of DX 40. Oliguria occurred 3 days, anuria occurred 4 days
after beginning of shock. Hyponatremia, hyperkalemia, hyperuremia and
hypercreatininemia occurred on this two patients. Two cases were conserved with
hydrated restriction, low doses of dopamine (2.5 – 3 mcg/kg/min). The renal
function became normal at discharge.
Conclusions : In treatment of DSS, early diagnosis, correct treament,
avoiding the prolonged shock were the important factors reducing the mortality of
DSS in children.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sốt SXHD là một bệnh nhiễm trùng cấp tính do vi rút Dengue gây ra. Trên lâm sàng,
bệnh có khuynh hướng vào sốc giảm thể tích do thất thoát huyết tương và xuất huyết
do rối loạn đông máu. Sốc và xuất huyết là hai nguyên nhân chính gây tử vong trong
SXHD. Sốc là tình trạng suy tuần hoàn, làm giảm tưới máu các mô gây ra rối loạn
chức năng các cơ quan. Thận là cơ quan tạo thành, bài xuất nước tiểu và đảm nhiệm
các chức năng sinh lý quan trọng là duy trì sự hằng định của nội môi, giữ sự cân bằng
giữa thể tích máu và các thành phần điện giải trong dịch cơ thể. Các trường hợp sốc
dễ dẫn đến rối loạn chức năng thận biểu hiện bằng các tình trạng rối loạn nước, điện
giải, thăng bằng kiềm toan và có thể gây STC.
Sốc SXHD là một cấp cứu nội khoa, nếu không được chẩn đoán sớm và điều
trị đúng, tích cực dễ dẫn đến sốc kéo dài, XHTH, là những nguyên nhân làm giảm
tưới máu ở thận, tổn thương ống thận gây STC trong sốc SXHD. Sự thay đổi chức
năng thận là biểu hiện thường gặp trong sốc SXHD. Tuy nhiên, cho đến nay, trên thế
giới và trong nước còn ít các công trình nghiên cứu về sự thay đổi chức năng thận

trong sốc SXHD cũng như chưa có nhiều thông tin về vấn đề nầy. Do đó, chúng tôi
tiến hành đề tài nầy nhằm mục tiêu đánh giá sự thay đổi chức năng thận trong sốc
SXHD qua việc đánh giá mức độ rối loạn nước, điện giải và toan kiềm trong sốc
SXHD, đặc biệt là những trường hợp sốc kéo dài, đánh giá sự thay đổi các xét nghiệm
chức năng thận và đưa ra một số nhận xét các trường hợp STC trong sốc SXHD.
ĐỐI TƯỢNG -PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Tiền cứu, cắt ngang, mô tả. Để so sánh mức độ nặng của tình trạng rối loạn
nước, điện giải và toan kiềm giữa nhóm sốc đáp ứng tốt với điều trị và nhóm sốc kéo
dài, dùng mô hình nghiên cứu bệnh – chứng
Cỡ mẫu
Theo công thức kiểm định một tỷ số số chênh, có mẫu không ghép cặp, không
cân bằng, với mức ý nghĩa  = 0,05  Z
0,975
= 1,96, lực của Test: 1-  =0,9  Z
1
- 
= 1,28, c = 3. Cỡ mẫu được chọn n = 320.
Phương pháp chọn mẫu
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Dựa theo tiêu chuẩn chẩn đoán Tổ chức Y tế Thế giới (TCYTTG) và Bộ Y tế
(1,9)
, xác định bằng Mac-Elisa và/ hoặc HI dương tính.
Tiêu chuẩn loại trừ
SXHD kèm các bệnh lý khác như suy gan, suy thận, hội chứng thận hư… hoặc
không được sự đồng ý của gia đình bệnh nhân.
Các định nghĩa dùng trong nghiên cứu
Hạ natri máu : Na
+
< 130 mmol/L; Hạ calci máu: Ca

++
< 2mmol/L.
Hạ kali máu : K
+
<3,5 mmol/L; Tăng kali máu : K
+
> 5 mmol/L
Toan chuyển hóa: pH giảm (<7,35) và/hay HCO
3

-
< 16mmol/L.
Tăng creatinin máu: Creatinin máu tăng hơn > 50% giá trị bình thường theo
lứa tuổi.
Tăng urê máu: Urê máu > 60mg%.
STC: Thiểu niệu < 1ml/kg/giờ x 24 giờ hoặc vô niệu, có biểu hiện rối loạn
nước, điện giải và toan kiềm kèm tăng creatinin máu, tăng urê máu.
Sốc kéo dài: tình trạng sốc kéo dài  6giờ
Phân tích dữ liệu
Dữ liệu được nhập và xử lí thống kê bằng phần mềm SPSS 9.0 for Windows
và phần mềm Epi - info 6.04. Các kết quả thu được mô tả với tần số và tỉ lệ phần
trăm, số trung bình và sai số ước lượng .
KẾT QUẢ
Bảng 1: Kết quả xét nghiệm điện giải đồ máu, khí máu động mạch và chức
năng thận:
Toàn thể
n = 320
n (%)
Nhóm
bệnh

n = 80
n (%)
Nhóm
chứng
n = 240
n (%)

P

OR

Na
+
/m
áu <
130mol/L
207(64,7)

69(86,2)

138(57,
5)
0,0
01
4,1
9
K
+

máu

<3,5mmol/L
35(10,9) 12(15) 23(9,6) 0,1
7
1,6
6
K
+

máu > 5
mmol/L
32 (10) 16 (20) 16(6,6) 0,0
1
3,5

Ca
++
<
2 mmol/L
46(14,3) 19(23,7)

27(11,2)

0,1
5
2,4
6
Toàn thể
n = 320
n (%)
Nhóm

bệnh
n = 80
n (%)
Nhóm
chứng
n = 240
n (%)

P

OR

pH
<
7,35
56(17,5) 41(51,2)

15(6,3) 0,0
01
15,
77
PO
2
,
TB(mmHg)
93,3720
,03
104,59
,03
89,663

,71
0,0
01

PCO
2
,
TB (mmHg)
31,0671
,97
30,148
6,8
31,371
,34
0,5


HCO
3
-

(< 16
mmol/L)
47(14,7) 37(46,3)

10(4,2) 0,0
01
19,
79
Toan

56(17,5) 41(51,2)

15(6,3) 0,0 15
Toàn thể
n = 320
n (%)
Nhóm
bệnh
n = 80
n (%)
Nhóm
chứng
n = 240
n (%)

P

OR

chuyển hóa
01
Urêm
áu > 80mg%

89(27,8) 32(36) 57(64) 0,0
05
2,1
4
Tăng
creatinin

máu
80(25) 27(33,8)

53(22.1)

0,0
3
1,7
9
Bảng 2: Tóm tắt một số dữ liệu chính của 2 bệnh nhân STC

N.T.P.N 5 T,
Nữ
L.A.T 9
T, Nam
1. Cân nặng 15 kg 20 kg

N.T.P.N 5 T,
Nữ
L.A.T 9
T, Nam
2. Độ, ng
ày vào
sốc
IV, N4 IV, N3
3. Sốc kéo dài + +
4. XHTH + +
5. Tổng lư
ợng
dịch

3500
ml
/42 giờ 4250
ml
/60
giờ
Lactat
Ringer
300
ml
/(20
ml
/kg)

400
ml

DX 40 2700
ml
3000
ml

DX 70 - 600
ml


N.T.P.N 5 T,
Nữ
L.A.T 9
T, Nam

Máu 500
ml
250
ml

6. Thiểu niệu N7 N6
Vô niệu N8 N7
7. Ion đ
ồ máu:
Na
+
(mmol/l)

K
+
(mmol/l)
128
5,6
122
6,9
8. Urê máu cao
nhất (mg%)
Creatinin máu
cao nhất (mg % )
198
5,2
162
6,9

N.T.P.N 5 T,

Nữ
L.A.T 9
T, Nam
9. Vận mạch Dopamin,
Dobutamin
Dopamin,
Dobutamin
10. Lọc thận ( - ) ( - )
11. Lợi tiểu ( + ) ( + )
12. Ch
ức năng
thận lúc ra viện


Urê máu
(mg%)

Creatinin
máu ( mg % )
79
0,4
30
0,8
BÀN LUẬN
Rối loạn nước và điện giải
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tình trạng tăng kali máu gặp trong 10%, hạ
calci máu gặp ở 14,3%, hạ natri máu chiếm tỷ lệ là 64,6%, trong đó tỷ lệ hạ Natri
máu ở nhóm soác kéo dài là 86,2% cao hơn so với nhóm chứng là 57,5%
(p<0,001).
Theo tác giả Trần Văn Thân

(3)
, nghiên cứu về rối loạn nước, điện giải trong
SXHD tại Bệnh viện B, ghi nhận 89,1% bệnh nhân bị sốc SXHD có natri máu giảm,
clor máu giảm nhẹ ở 71%, kali máu tăng nhẹ ở 8,4%. Nghiên cứu của Nguyễn Bạch
Huệ
(5)
, ghi nhận số bệnh nhân haï natri máu chiếm tỷ lệ 59,6% ở nhóm SXHD dạng
não. Nimmannitya S
(7)
, ghi nhận hạ natri máu thường gặp ở những bệnh nhân sốc
SXHD, 3/18 trường hợp SXHD dạng não có hạ natri máu nặng (natri máu
<120mEq/l) và đưa đến kết luận hạ natri máu là một trong những nguyên nhân gây
phù não trong bệnh nhân SXHD. Theo TCYTTG
(9)
, trong SXHD thường thấy kèm
với giảm protein máu, các men chuyển AST, ALT tăng là tình trạng hạ natri máu.
Qua nghiên cứu này cho phép chúng ta khẳng định lại về việc dùng các dung
dịch điện giải, hoặc dùng các dung dịch keo có dung môi là clorua natri 0,9% để hồi
sức sốc SXHD.
Rối loạn toan kiềm
Trong cơ thể, tình trạng toan kiềm được điều hòa bởi hệ thống các chất đệm,
phổi và thận. Thận tái hấp thu hoặc thải trừ bicarbonat, thải trừ acid.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ toan chuyển hóa chiếm tỷ lệ 17,5%,
nhóm sốc SXHD kéo dài là 51,5% cao hơn so với nhóm chứng là 6,2%. Toan chuyển
hóa được ghi nhận 8/18 trường hợp SXHD có rối loạn thần kinh trung ương ở nghiên
cứu của Nimmannitya S.
(7)
Trong nghiên cứu của Nguyễn Bạch Huệ
(5)
, toan chuyển

hóa gặp ở 44,4% bệnh nhi SXHD dạng não, tương đương so với nhóm chứng và chưa
tìm thấy mối liên quan giữa toan chuyển hóa và SXHD dạng não. Theo TCYTTG
(9)
,
toan chuyển hóa thường gặp trong sốc SXHD kéo dài kèm ĐMNMLT. Điều trị sốc
tốt sẽ cải thiện tình trạng toan máu. Điều chỉnh toan kiềm chỉ góp phần hạn chế những
nguy hiểm do rối loạn thăng bằng toan kiềm gây ra.
Trong điều chỉnh rối loạn nước, điện giải và toan kiềm, chúng tôi điều trị
chống sốc bằng dung dịch điện giải, dung dịch cao phân tử (CPT), chỉ định truyền
máu khi có XHTH hoặc có biểu hiện của xuất huyết phủ tạng khác với dung tích
hồng cầu giảm nhanh nhưng dấu hiệu sinh tồn không ổn dù đã bù dịch đúng theo
phác đồ.
Có 47 bệnh nhân, chiếm tỷ lệ 14,7%, có chỉ định dùng natribicarbonat kèm
thông khí để điều trị toan chuyển hoùa trong sốc SXHD, chủ yếu là ở nhóm sốc
SXHD kéo dài.
Sự thay đổi các xét nghiệm về chức năng thận
Tỉ lệ tăng urê máu là 27,8%, trong đó nhóm sốc kéo dài có tỉ lệ là 36%, cao
hơn so với nhóm chứng là 23,8%. Tỉ lệ tăng creatinin máu là 6,5%, trong đó nhóm
sốc kéo dài có tỉ lệ là 13,8%, cao hơn so với nhóm chứng là 4,2%. Có 5 trường hợp
tăng creatinin máu > 2mg%, có 2 trường hợp tăng creatinin máu kèm theo thiểu niệu
và sau đó vô niệu được chẩn đoán là STC trên bệnh nhân sốc SXHD kéo dài.
STC trong sốc SXHD
Biểu hiện lâm sàng và cận lâm sàng
Cả 2 trường hợp STC trong nghiên cứu của chúng tôi đều nhập viện trong tình
trạng nặng; SXHD độ IV, có biểu hiện XHTH nặng, được truyền dịch, truyền máu
chống sốc với số lượng lớn, lượng dịch trung bình là: 210 – 230 ml/kg. Tình trạng
thiểu niệu xảy ra sau sốc khoảng 3 ngày và vô niệu hoàn toàn sau sốc 4 ngày. Có sự
tăng urê máu từ 121 – 193,1mg% và tăng creatinin máu từ 4,72 – 7 mg%. Tổng phân
tích nước tiểu của 2 bệnh nhân thấy có hồng cầu, trụ hạt trong nước tiểu. Cả hai
trường hợp đều có hạ natri máu và tăng kali máu. Điện tâm đồ cả hai trường hợp có

sóng T cao nhọn, rối loạn nhịp tim, phức hợp QRS giãn rộng biểu hiện tình trạng tăng
kali máu.
Theo Nguyễn Thượng Liễn
(3)
và cộng sự, nghiên cứu các trường hợp sốc
SXHD nặng ở Bệnh viện Việt Nam - Cu Ba, nhận thấy có 3% bệnh nhân có protein
niệu, trụ hạt trong nước tiểu và thông báo có 2 trường hợp bị suy thận trong sốc
SXHD. Tại Bệnh viện 5-8
(3)
, các tác giả nghiên cứu nhấn mạnh tình trạng rối loạn
chức năng và tổn thương thận thường gặp trong những trường hợp sốc SXHD nặng,
100% có thiểu niệu, 3 trường hợp có protein niệu và trụ hạt trong nước tiểu, 2 trường
hợp STC. Tương tự, tác giả Bạch Văn Cam, Đặng Thanh Tuấn
(2)
, báo cáo 3 trường
hợp STC sau hồi sức sốc SXHD có sử dụng DX 40, ghi nhận cả 3 trường hợp, tình
trạng thiểu niệu xảy ra sau sốc 2 – 3 ngày và vô niệu hoàn toàn sau sốc 3 – 4 ngày, có
tăng urê máu creatinin máu, tổng phân tích nước tiểu có hồng cầu, trụ hạt. Cả 3 đều
có hạ natri máu, tăng kali máu.
Về nguyên nhân STC.
Sinh lý bệnh chính trong sốc SXHD là do tăng tính thấm thành mạch dẫn đến
thất thoát huyết tương và gây sốc giảm thể tích. Trong điều trị sốc SXHD chủ yếu là
biện pháp bù dịch bằng các dung dịch điện giải và CPT.
Theo TCYTTG
(6,8)
, 60% các trường hợp sốc SXHD chỉ cần dùng dung dịch
điện giải mà không cần dùng CPT. Các trường hợp sốc nặng, SXHD độ IV, sốc
kéo dài hoặc tái sốc nhiều lần … cần phải sử dụng CPT mới có thể đảm bảo bù đủ
thể tích tuần hoàn. DX 40 là loại dịch truyền chống sốc SXHD có hiệu quả. Tuy
nhiên, lượng DX 40 được khuyến cáo ở mức 10 – 15 ml/kg/ngày trong 3 – 5 ngày

trong điều trị các bệnh lý vữa xơ động mạch. Khi cần phải truyền với số lượng lớn
hơn, thường lo ngại biến chứng STC và nguy cơ rối loạn đông máu gây chảy máu.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, cả 2 trường hợp đều có sốc kéo dài và XHTH
nặng, xuất hiện STC sau khi điều trị chống sốc bằng một lượng lớn DX 40. Sốc kéo
dài và thiếu máu do XHTH có thể gây ra các tổn thương cho thận và đưa đến STC
trên lâm sàng và thực nghiệm. Có nhiều công trình nghiên cứu, các tác giả kết luận
rằng DX 70 không gây ra STC còn DX 40 có thể gây ra STC
(2)
. Cơ chế STC có liên
quan đến DX 40 hiện tại chưa rõ ràng. Tuy nhiên, dựa vào một số nghiên cứu các tác
giả đã giải thích
(2,3)
: Truyền DX 40 làm tăng áp lực keo trong máu, phối hợp với giảm
áp lực tưới máu thận do sốc giảm thể tích gây giảm áp suất lọc của thận, (2) sự hiện
diện các phân tử nhỏ của DX 40 tại ống thận làm tăng độ nhày dịch lọc, tạo một áp
suất ngược lại áp suất lọc của cầu thận và DX 40 kết tủa trong ống thận gây tắc nghẽn
ống thận.
Tóm lại, có sự phân phối của 3 yếu tố gây ra STC trên 2 bệnh nhân nầy (1)
sốc kéo dài, (2) thiếu máu nặng, (3) sử dụng một lượng lớn DX 40.
Tác giả Đặng Thanh Tuấn, Bạch Văn Cam
(2)
cũng đưa ra những kết luận
như trên khi bàn luận về các nguyên nhân gây STC trong sốc SXHD.
Điều trị STC trong sốc SXHD
Hai bệnh nhân đều được điều trị bảo tồn, hạn chế lượng dịch, theo dõi sát
lượng dịch xuất nhập, dùng Dopamin liều thấp (2,5 – 3mcg/kg/ph) có phối hợp với
lợi tiểu. Cả 2 trường hợp chức năng thận đều trở về bình thường lúc xuất viện.
Theo các tác giả trong và ngoài nước
(2,9)
, chỉ định lọc thận phải rất nghiêm

ngặt, chỉ định khi có tình trạng thực sự đe dọa tính mạng bệnh nhân. Nên bắt đầu
lọc ở thời điểm càng muộn, nếu có thể, để chức năng đông máu trở về gần bình
thường, nên chọn hình thức chạy thận nhân tạo hơn là thẩm phân phúc mạc vì thời
gian lọc thận ngắn, hiệu quả nhanh và tránh được tai biến chảy máu trong ổ bụng
không kiểm soát được.
Tác giả Đặng Thanh Tuấn
(2)
, đã mô tả 1 trường hợp STC trong sốc SXHD có
điều trị bằng lọc thận. Bệnh nhân đáp ứng tốt ngay sau đợt lọc thận đầu tiên, hết tình
trạng quá tải và kali máu về bình thường.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu sự thay đổi chức năng thận ở 320 trường hợp sốc SXHD,
trong đó có 80 trường hợp sốc kéo dài, chúng tôi có những kết luận như sau:
Rối loạn nước, điện giải và toan kiềm
Tỉ lệ hạ natri máu trong sốc SXHD là 64,7%, trong đó nhóm sốc kéo dài có tỉ
lệ là 86,2% cao hơn so với nhóm sốc đáp ứng tốt với điều trị là 57,5%. Taêng kali
maùu laø 10%, hạ kali máu gặp trong 10,9% bệnh nhân sốc SXHD.
Tỉ lệ toan hóa máu trong sốc SXHD là 17,5%, trong đó nhóm sốc kéo dài có tỉ
lệ toan hóa máu là 51,2% cao hơn so với nhóm sốc đáp ứng tốt với điều trị là 6,3%.
Chức năng thận
Tỉ lệ tăng urê máu là 27,8%, trong đó nhóm sốc kéo dài có tỉ lệ tăng urê
máu là 36%, cao hơn so với nhóm sốc đáp ứng tốt với điều trị là 23,8%.
Tỉ lệ tăng creatinin máu là 6,5%, trong đó nhóm sốc kéo dài có tỉ lệ tăng
creatinin máu là 13,8%, cao hơn so với nhóm chứng là 4,2%. Có 5 trường hợp tăng
creatinin máu > 2mg%, có 2 trường hợp tăng creatinin máu kèm theo thiểu niệu và
sau đó vô niệu được chẩn đoán là STC trên bệnh nhân sốc SXHD kéo dài.
Suy thận cấp
Qua 2 trường hợp sốc SXHD có STC, có 3 yếu tố sau đây có thể là các nguyên
nhân phối hợp gây ra: sốc kéo dài, XHTH gây thiếu máu thiếu oxy nặng và được
truyền DX 40 với số lượng lớn. Lâm sàng của 2 trường hợp nầy cho thấy thiểu niệu

và sau đó vô niệu hoàn toàn, xét nghiệm có urê máu, creatinin máu tăng, natri máu
giảm, kali máu tăng, trong nước tiểu có hồng cầu, trụ hạt. Điều trị chủ yếu là điều trị
bảo tồn, hạn chế lượng dịch, dùng Dopamin liều thấp kèm lợi tiểu và theo dõi sát.
Chức năng thận về bình thường lúc xuất viện.
Trong điều trị sốc SXHD, điều quan trọng là chẩn đoán sớm, điều trị đúng,
tích cực, không để bệnh nhân sốc kéo dài. Khi sử dụng DX 40 cần phải theo dõi sát
lượng nước tiểu. Nếu có biểu hiện thiểu niệu cần phải thử chức năng thận (urê,
creatinin máu), các xét nghiệm về điện giải và toan kiềm, điều chỉnh thăng bằng dịch
xuất nhập, theo dõi các biến đổi của các xét nghiệm ion đồ, khí máu, giúp cho người
thầy thuốc có hướng xử trí thích hợp, góp phần giảm tử vong do SXHD.

×