Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ TÁI NHẠY CỦA PHÁC ĐỒTHUỐC CHLOROQUINE TRONG ĐIỀU TRỊ SỐT RÉT PLASMODIUM FALCIPARUM CHƯA BIẾN CHỨNG pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.63 MB, 29 trang )

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ TÁI NHẠY CỦA PHÁC ĐỒ

THUỐC CHLOROQUINE TRONG ĐIỀU TRỊ SỐT RÉT

PLASMODIUM FALCIPARUM CHƯA BIẾN CHỨNG

TÓM TẮT
Giới thiệu: Sốt rét là bệnh truyền nhiễm đồng thời là kẻ giết người dẫn đầu ở
các quốc gia đang phát triển ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, đặc biệt châu Phi.
Chloroquine được sử dụng hơn 60 năm qua trong phòng và điều trị sốt rét, kháng
thuốc chloroquine đầu tiên xuất hiện ở Đông Nam Á và Nam Mỹ vào cuối những
năm 1950 và cuối những năm 1970 lan sang các quốc gia châu Phi. Sự xuất hiện và
lan rộng KSTSR kháng thuốc đe dọa đến thành quả PCSR. Các dẫn suất của
artemisinin ra đời đã tác động rất lớn về mặt điều trị và chống kháng. Tuy nhiên, nếu
khơng có biện pháp và hoạt động giám sát và điều chỉnh thường xuyên về hiệu lực thì
việc đầu tư vào nghiên cứu phát minh ra thuốc mới sẽ rất lãng phí. Do vậy, song song
với thử nghiệm lâm sàng một số thuốc sốt rét mới thì việc đánh giá hiệu quả của phác
đồ một số thuốc sốt rét cổ điển cũng không kém phần quan trọng.
Mục tiêu: Đánh giá lại hiệu quả phác đồ chloroquine 3 ngày trong điều trị sốt
rét do P. falciparum chưa biến chứng.


Phương pháp: Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên tự chứng liên quan đến đánh
giá đáp ứng của KSTSR P. falciparum về mặt lâm sàng và ký sinh trùng.
Kết quả: Với phác đồ chloroquine, tỷ lệ đáp ứng lâm sàng và ký sinh trùng
đầy đủ (ACPR) là 100% trong năm 2005 và 2007, riêng năm 2006, ACPR chỉ là
86,11%, trong đó LTF là 2,78%, ETF là 2,78. Tác dụng phụ không đáng kể và thống
qua khơng cần xử trí về y tế.
Kết luận: Chloroquine, là một thuốc an toàn, rẻ tiền cho điều trị sốt rét, qua
thời gian dài ngưng sử dụng điều trị cho sốt rét P. falciparum nay tái nhạy lại ở Việt
Nam như một chỉ điểm tốt.



ABSTRACT

Background: Malaria is a communicable disease and to be a leading killer of
the developing countries in tropic and subtrropic areas, especially in Africa. Over 60
years after chloroquine was widely deployed in a global program to treat and control
malaria; chloroquine resistance first emerged in Southeast Asia and South America in
the late 1950s, and by the late 1970s, it had made its way to the African continents.
The emergence and spread of drug-resistant malaria parasites is the major threat to
effective malaria control. The artemisinin derivatives have had an important clinical
impact both on the treatment and overcome of resistant falciparum malaria.
Nevertheless, if measures are not applied to routine monitoring, the investment put
into the development of new drugs will be squandered. Therefore, A few promising


new antimalarials are being tested clinically, drugs tolerance and reestimating of
efficacy of conventional drugs (chloroquine) as well that can be used in significantly
important.

Objectives: To reassess the efficacy and safety of chloroquine (3 days course)
for the treatment of uncomplicated P. falciparum malaria.

Methods: We conducted a randomized clinical trial involving patients with
uncomplicated P. falciparum malaria. The patients were treated with chloroquine
regime and followed for 28 days to assess the antimalarial efficacy and safety of the
drug by monitoring of clinical and parasitological parameters.

Results: In analyse conducted according to the study protocol, the cumulative
efficacy of chloroquine was ACPR of 100%, only in 2006 was ACPR 86.11%, LTF
of 2.78%, ETF of 2.78%.


Conclusions: Chloroquine, a safe and inexpensive treatment for malaria, is
once again highly efficacious in Vietnam, particularly for uncomplicated falciparum
malaria; malaria parasites that are clinically susceptible to chloroquine have returned
to Vietnam, as predicted by molecular surveys.

ĐẶT VẤN ĐỀ
Sốt rét là một bệnh xã hội quan trọng và đe dọa toàn cầu, nhất là các vùng
nhiệt đới và cận nhiệt đới trên thế giới, song trong thời gian qua công tác PCSR


cũng đã mang lại nhiều thành quả làm giảm mắc và hạ thấp tỷ lệ tử vong đáng kể,
trong đó việc quản lý ca bệnh hiệu quả vẫn là một trong những động thái then chốt
cho PCSR. Thành công của chiến lược này dựa trên khả năng sự thay đổi Chính
sách thuốc quốc gia của Bộ Y tế theo từng giai đoạn nhằm cung cấp thuốc sốt rét
(TSR) có hiệu quả cao. Do vậy, địi hỏi Chương trình phịng chống sốt rét quốc gia
(CTPCSRQG) và các Viện liên quan phải thường quy đánh giá hiệu lực TSR đang
dùng và nghiên cứu thử nghiệm thuốc mới để cung cấp kịp thời và độ tin cậy cao,
chỉ với những thông tin như thế, Bộ Y tế có thể bảo đảm rằng quản lý ca bệnh hiệu
quả thông qua việc phát hiện hoặc dự báo những mơ hình kháng thuốc thay đổi
sớm, để từ đó thay đổi phù hợp cho Chính sách thuốc quốc gia.

Chloroquine là một TSR cổ điển, rẻ tiền, tác dụng nhanh và giữ được tính bền
vững về hiệu lực hơn 6 thập niên,… nhưng thời gian qua đã biểu hiện kháng lan rộng
do chủng KSTSR P. falciparum, theo báo cáo tổng thể từ Tổ chức y tế thế giới
(WHO, 2005) cho biết chloroquine đã mất đi hiệu quả hầu hết các quốc gia có sốt rét
trên thế giới. Do vậy, thuốc này khơng cịn khuyến cáo và bị loại khỏi Danh mục
thuốc thiết yếu cũng như Chính sách thuốc ở hơn 70 quốc gia, trong đó có Việt Nam
vì tỷ lệ thất bại lâm sàng ký sinh trùng hơn 70%. Song gần đây, một số báo cáo trên
thế giới cho thấy có sự phục hồi và tái nhạy trở lại với chloroquine do P. falciparum

(châu Phi và các quốc gia trong tiểu vùng sông Mê Kông). Dù vậy, sự tái nhạy và
phục hồi hiệu lực thuốc chloroquine đến đâu cũng nên được xác nhận, nhất là đánh
giá hiệu lực cũng như xác định cơ chế phân tử kháng-nhạy của P. falciparum với


chloroquine là điều cần thiết. Song song với thử nghiệm đánh giá hiệu lực một số
TSR mới (đặc biệt nhóm ACTs_artemisinine-based combination) thì nghiên cứu sự
tái nhạy của một số thuốc kinh điển (như chloroquine) là rất quan trọng để khẳng định
thơng qua số liệu chính xác và khuyến nghị cụ thể. Chính vì lẽ đó, chúng tơi tiến hành
đề tài này nhằm:

Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá hiệu quả điều trị phác đồ thuốc chloroquine 3 ngày trên bệnh nhân
sốt rét P. falciparum chưa biến chứng, thông qua xác định tỷ lệ ETF, LTF, LPF và
ACPR;
Phân biệt tái phát và tái nhiễm thơng qua phân tích kết quả PCR trên các mẫu
thất bại điều trị.

ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Địa điểm và thời gian nghiên cứu
- Thời gian: từ tháng 5/2005-12/2007.

- Địa điểm: - xã Phước Chiến, huyện Thuận Bắc, tỉnh Ninh Thuận; xã Đăk
Roong, huyện K’Bang, tỉnh Gia Lai.

Thiết kế nghiên cứu


Thiết kế nghiên cứu theo đánh giá thử nghiệm lâm sàng tiến cứu tự chứng về

đáp ứng lâm sàng và KSTSR trực tiếp trên bệnh nhân sốt rét do P.falcipparum chưa
biến chứng.

Tiêu chuẩn chọn bệnh
Tuổi từ 5-60 tuổi;

Nhiễm đơn thuần loại KSTSR Plasmodium falciparum;
MĐKSTSR trong máu ≥ 500 thể vô tính/µl máu;

Nhiệt độ nách ≥ 37,5 °C hoặc nhiệt độ dưới lưỡi/ đại tràng ≥38 °C;

Có khả năng nuốt và uống thuốc; chưa dùng loại TSR nào trước đó;
Sẵn sàng phối hợp vào nghiên cứu trong suốt thời gian và lịch nghiên cứu.

Tiêu chuẩn loại trừ
Ngoài khoảng tuổi trên (< 5 và > 60 tuổi);

Xuất hiện các dấu chứng cảnh báo dẫn đến SRAT theo tiêu chuẩn và định
nghĩa WHO;

Nhiễm phối hợp hoặc đơn nhiễm các loài khác P. falciparum;


Suy dinh dưỡng nặng, phụ nữ có thai (test thử +), đang cho con bú, bệnh tâm
thần;
Có dấu hiệu sốt do các bệnh nhiễm trùng, bệnh mạn tính;

Tiền sử mẫn cảm bất kỳ thành phần nào của thuốc nghiên cứu.

Thuốc sử dụng trong nghiên cứu


Thuốc điều trị sốt rét
Thuốc chloroquine phosphate 250mg do CTDP trong nước cung cấp.

Chloroquine phosphate: viên nén 250mg (150mg base) với liều chỉ định 3
ngày liên tục:
Ngày thứ nhất (D0): liều 10 mg base/ kg thể trọng;
Ngày thứ hai

(D1): liều 10 mg base/ kg thể trọng;

Ngày thứ ba

(D2): liều 5 mg base/ kg thể trọng.

Thuốc dùng đồng thời và cấm dùng
Điều trị triệu chứng sốt đặc biệt quan trọng ở trẻ em nhỏ, nên áp dụng các biện
pháp hạ nhiệt cơ học (lau mát), trước khi cho TSR, nếu sốt ≥ 38°C cho phép dùng
Acetaminophen.


Phân loại đánh giá hiệu quả điều trị
Thất bại ký sinh trùng muộn (LPF_Late Parasitological Failure)
Có mặt KSTSR trong máu vào bất kỳ ngày nào từ D7 đến D28 và thân nhiệt
< 37,5ºC, khơng có bất kỳ tiêu chuẩn nào của ETF và LCF trước đó.
Đáp ứng lâm sàng, KST đầy đủ (ACPR_Adequate Clinical and
Parasitological Response)
Khơng có xuất hiện KSTSR trong máu vào D28, bất luận nhiệt độ nách thế nào
và khơng có bất kỳ tiêu chuẩn nào của ETF, LCF và LPF trước đó.


Phân tích về gen học của ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc
Vì nghiên cứu tiến hành tại vùng sốt rét lưu hành nặng, khó tránh khỏi sự tái
nhiễm khi nghiên cứu theo dõi trong thời gian dài. Do đó, phải thực hiện để phân biệt
giữa tái phát (cùng dòng KSTSR) và tái nhiễm (khác dòng KSTSR), phân tích kiểu
gen dựa trên đa dạng di truyền của những kiểu gen KSTSR như SMP1, SMP2 và
GLURP (msp1, msp2 và glurp). Dữ liệu kiểu gen các dòng KSTSR trước và sau được
so sánh với nhau theo cặp.

Phân tích số liệu
Số liệu thu thập đựợc tổng hợp và phân tích theo chương trình EPI-INFO 6.0
và bảng Excelsheet của WHO, 2007.


Các khía cạnh đạo đức trong nghiên cứu
Thử nghiệm hiệu lực của phác đồ điều trị nên được tiến hành dưới sự giám sát
trực tiếp của các cán bộ chuyên nhiệm, tất cả thời điểm, tính an tồn và sự bồi hồn
phải ln đảm bảo cho bệnh nhân. Cam kết của đối tượng nghiên cứu, đề tài được sự
chấp thuận Hội đồng y đức Bộ y tế.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Hiệu quả điều trị của phác đồ chloroquin đối với sốt rét do P. falciparum
Bảng 1: Đặc điểm chung về bệnh nhân nghiên cứu qua các năm

gía trị
Thơng số
2005

2006


2007

18

36

31

11

16

12

Số ca nghiên
cứu (n = 85)

Giới
tính

Nam
(39)


gía trị
Thơng số
2005

2006


2007

7

20

19

23,80

29,90

20,20

Nữ
(46)

Tuổi TB (trung
bình)

± 11,50

Số

ngày

sốt

T.bình trước điều trị


1,30 ±
0,80

Cân nặng trung
bình

36,60

Nhiệt độ trung

MĐKST

trung

39,20

38,20

43,70
± 14,30

38,60
± 1,00

12.247

3,10
± 1,10

± 10,00


± 0,80

± 15,00

1,90 ±
1,00

± 9,90

bình trước điều trị

± 16,30

38.30
± 0,70

19.293

6.522


gía trị
Thơng số
2005

bình ngày Do

± 12.104


2006

± 16.568

2007

± 5.859

Các thơng số về gioiứ tính, tuổi, cân nặng, nhiệt độ trung bình trước khi điều
trị khơng có sự khác biệt giữa 3 năm; MĐKSTSR trung bình Do dao động từ 5.85916.568 KSTSR/µl máu.
Bảng 2: Hiệu quả phác đồ chloroquine với sốt rét do P. falciparum

Giá trị

CHỈ SỐ
năm

năm
năm 2006

2005

Tổng số ca nghiên

2007

n =

n =
n = 36


cứu (n = 85)

hiỆu

18

ACPR

31

18

31

86,11%

30


lỰc
Thất
0

5

13,89%

0


- LPF

0

4

11,11%

0

- LCF

0

0

0

0

- ETF

0

1

2,78%

0


bại điều trị
(TF*) chung

*TF: Treatment failure (thất bại điều trị)

Theo dõi test invivo 28 ngày, số ca nghiên cứu năm 2005 và 2007 toàn bộ 49
bệnh nhân đều đáp ứng đầy đủ về mặt lâm sàng và ký sinh trùng ACPR là 100%,
riêng năm 2006 có 86,11% bệnh nhân mắc sốt rét P. falciparum đáp ứng (ACPR) với
chloroquin và tỷ lệ thất bại chung là 13,89% thất bại điều trị, trong đó LPF (11,11%)
và ETF thấp hơn với 2,78%.

Song, trong số 5 ca thất bại điều trị (LPF và ETF) ở năm 2006, qua phân tích
bằng kỹ thuật PCR nhằm xác định chính xác, cho thấy:


Từ 4 ca LPF thì có đến 3 ca tái nhiễm (re-infection) ở đây là cả P. falciparum
+ P. vivax (tất cả đều khác kiểu gen ở ngày D0), 1 trường hợp còn lại là tái phát
(recrudesscence);

Riêng 1 ca mà chúng tơi đánh giá là ETF thì qua PCR cho kết quả tái phát
(recrudescence) thật sự với biểu hiện cùng kiểu gen ngày D0;
Như vậy, tỷ lệ thất bại điều trị thật sự chỉ còn là 2 trường hợp do tái phát
(2/36; 5,56%), trong đó 1 ca (2,78%) là ETF và 1 ca (2,78%) là LPF; 3 ca còn lại
trước đây đánh giá LPF thì PCR cho kết quả tái nhiễm (8,33%) nên khơng tính vào là
thất bại điều trị.
Kết quả phân tích PCR một số trường hợp thất bại điều trị chloroquine

Error!

MSP1


MSP2

GLURP

Marker

100bp

M Do D28 Do D28 Do D28 Do D28 Do D28 Do D28


M K R FC IC Glu

Hình 1: Kết quả điện di của bênh nhân tái phát

Error!

MSP1


MSP2

GLURP

Marker

100bp
M Do D28 Do D28 Do D28 Do D28 Do D28 Do D28


M R K IC FC Glu


Hình 2: Kết quả điện di của bệnh nhân tái nhiễm

Phân tích hiệu lực phác đồ chloroquine đối với P. falciparum chi tiết

Hiệu lực cắt KSTSR của phác đồ chloroquine chi tiết


Qua theo dõi sự đáp ứng của chloroquin với P. falciparum các điểm nghiên
cứu, kết quả chỉ ra thời gian cắt KSTSR trung bình lần lượt là 55,.0 ± 25,30; 64,30
± 14,90 và 44,10 ± 12,90 và trung bình chung là 51,13 ± 17,70 giờ; sau 24 giờ
MĐKST giảm lần lượt 48,97% và 73,41%, sau 48 MĐKST giảm 96,70%-98,62%
và sau 72 giờ MĐKST giảm 100%.

Bảng 3: Thời gian sạch KSTSR theo dõi chi tiết sau mỗi 12 giờ

GÍA TRỊ
CHỈ
SỐ
2005

2006

2007

n =18

n = 36


n = 31

55,00 ±

64,30 ±

44,10 ±

Tổng
số ca nghiên
cứu (n = 85)

Thời
gian

sạch

KSTSR
25,30
trung

bình

PCT*(giờ)

14,90

12,90



GÍA TRỊ
CHỈ
SỐ
2005

2006

2007

4,30 %

31,17%

44,68%

48,97%



73,41%

70,18%

88,47%

94,83%

Tỷ lệ
sạch

KSTSR
trung

bình

sau 12 giờ

Tỷ lệ
sạch
KSTSR
trung

bình

sau 24 giờ

Tỷ lệ
sạch
KSTSR
trung

bình


GÍA TRỊ
CHỈ
SỐ
2005

2006


2007

96,70%



98,62%

99,50%

98,12%

99,69%

100%

100%

100%

sau 36 giờ

Tỷ lệ
sạch
KSTSR
trung

bình


sau 48 giờ

Tỷ lệ
sạch
KSTSR
trung

bình

sau 60 giờ

Tỷ lệ
sạch
KSTSR


GÍA TRỊ
CHỈ
SỐ
2005

trung

2006

2007

bình

sau 72 giờ


* PCT: Parasite Clearance Time

√: số liệu không được ghi nhận do không theo dõi đủ
Biểu đồ 1: Biểu diễn sự cắt KSTSR của chloroquin với P. falciparum, 20052007

Hiệu lực cắt sốt của phác đồ chloroquine với P. falciparum chi tiết
Bảng 4: Hiệu lực cắt sốt của chloroquine chi tiết theo mỗi 12 giờ

GÍA TRỊ
CHỈ
SỐ

Năm
2005

Năm
2006

Năm
2007


Tổng
số ca nghiên

n = 18

n = 36


n = 31

20,90 ±

27,10 ±

26,0 ±

cứu (n = 85)

Thời
gian cắt sốt
trung

bình 10,70

16,30

9,00

FCT (giờ)

Tỷ lệ
bệnh

nhân
55,60%

36,10%


19,35%

77,80%

66,67%

58,06%

94,00%

75,00%

93,55%

cắt sốt sau
12 giờ

Tỷ lệ
bệnh

nhân

cắt sốt sau
24 giờ

Tỷ lệ
bệnh

nhân



cắt sốt sau
36 giờ

Tỷ lệ
bệnh

nhân
100%

94,44%

100%

100%

100%

100%

cắt sốt sau
48 giờ

Tỷ lệ
bệnh

nhân

cắt sốt sau
60 giờ


* FCT: Fever Clearance Time

Tất cả 85 bệnh nhân nghiên cứu đều cải thiện về mặt lâm sàng, đặc biệt là cắt
sốt nhanh, thời gian cắt sốt lần lượt là 20,90 ± 10,70; 27,10 ± 16,30; 26,0 ± 9,00 giờ.
Thời gian cắt sốt trung bình là 24,70 ± 12,0 giờ, tỷ lệ cắt sốt tỷ lệ thuận theo thời gian
mỗi 12 giờ và sau 48-60 giờ, chloroquine cắt sốt hoàn toàn 100%.


Biểu đồ 2: Biểu diễn cắt sốt chloroquine với sốt rét do P.falciparum, 20052007

Tác dụng phụ của phác đồ chloroquine đối với sốt rét do P.falciparum
Trên lâm sàng chưa ghi nhận xuất hiện các tác dụng phụ nghiêm trọng do
dùng phác đồ chloroquine đường uống 3 ngày liên tục, một tỷ lệ nhỏ bệnh nhân khi
uống có xuất hiện triệu chứng nhẹ như buồn nơn, chóng mặt (2 ca; 2,35%), các triệu
chứng tự hết sau khi dừng thuốc 1 ngày.

BÀN LUẬN
Năm 1945 chloroquin chính thức được đưa vào sử dụng điều trị sốt rét trên
thế giới, năm 1957 Thái Lan là nước đầu tiên thông báo đã phát hiện ca sốt rét P.
falciparum kháng chloroquin tại biên giới Cambodia và Thái Lan, tiếp theo đó, P.
falciparum kháng chloroquin cũng được phát hiện (1959) ở biên giới Colombia và
Venezuela(3); trường hợp đầu tiên phát hiện (1961) bệnh nhân sốt rét P. falciparum ở
Việt Nam kháng với chloroquine tại Nha Trang do Powell, Brewer và Alving báo cáo
năm1961). Kể từ đó, P. falciparum kháng thuốc chloroquine tăng cao tại một số vùng


trọng điểm sốt rét trong khu vực miền Trung-Tây Nguyên, từ 30-55% (1976-1984)
đến 55-90% (1985-1996) (T. N. Trung và cs.,1996).


Hiệu quả phác đồ chloroquine với sốt rét do P. falciparum chưa biến chứng
Chloroquine là một thuốc sốt rét cổ điển, hiệu lực bền vững và thời gian bán
hủy tương đối (3-5 ngày), khuyếch tán vào mô cơ thể rất tốt. Với tổng liều điều trị 25
mgbase/ kg chloroquine, liệu trình 3 ngày liên tiếp trên bệnh nhân sốt rét chưa biến
chứng do P. falciparum và được theo dõi lịch trình 28 ngày. Theo dõi test invivo 28
ngày từ 2005-2007, kết quả ghi nhận rằng năm 2005 và 2007, toàn bộ 49 bệnh nhân
đều đáp ứng đầy đủ về mặt lâm sàng và ký sinh trùng (ACPR) là 100%, trong khi đó
năm 2006 theo dõi đủ 36 trường hợp chỉ có 86,11% bệnh nhân sốt rét P. falciparum
đáp ứng ACPR với chloroquin và còn lại 3/36 (5.56%) thất bại điều trị chung do tái
phát, trong đó LPF (2.78%) và ETF (2,78%) sau khi đã kiểm định bằng kỹ thuật PCR
xác định ca nào tái phát thật sự hay tái nhiễm (hình 1 và 2, bảng 2). Ưu điểm của kỹ
thuật PCR ở đây đã giúp phân định rõ ràng trong nghiên cứu này đâu là tái nhiễm và
đâu là tái phát để đánh giá chính xác tỷ lệ thất bại điều trị chung, cũng như tỷ lệ ETF,
LPF, LCF, ACPR một cách thấu đáo.
So sánh với số liệu ở một số điểm nghiên cứu khác ở khu vực miền TrungTây Nguyên giai đoạn từ 1982-1998 (tỷ lệ kháng 35,29-79,41%) thì mức độ kháng
chloroquin của P. falciparum trong nghiên cứu này có thấp hơn rất nhiều lần.
Điều này có thể do một thời gian dài Chương trình PCSR quốc gia ngưng sử dụng


TSR loại chloroquine gần 20 năm qua để điều trị P. falciparum mà chỉ dùng
chúng trong mục đích dự phịng hoặc điều trị sốt rét cho P. vivax thì tình trạng
giảm áp lực thuốc (drug pressure) lại tăng lên với P. falciparum và vì thế thuốc
chloroquine có thể tái nhạy trở lại. Song song với nghiên cứu của chúng tôi một số
nghiên cứu của tác giả khác cũng cho kết quả tương tự: chẳng hạn, tỷ lệ ACPR
của chloroquine với P. falciparum ở xã Thanh, Quảng Trị là 77,1%, LPF là
12,9%, LCF là 7,1% và ETF là 2,9% do nhóm nghiên cứu của Viện sốt rét KSTCT TƯ công bố hoặc nghiên cứu ở Malawi, một quốc gia có tỷ lệ sốt rét rất cao và
tình trạng đa kháng thuốc diễn biến phức tạp thì (sau 15 năm ngừng sử dụng) khi
thử lại chloroquine cho biết tỷ lệ ACPR là 99,10%(3,5) hoặc ACPR tại vùng LHSR
nặng Thái Lan là 89,90-92,15% hoặc 94,32% ở Cambodia(9,7); một số nghiên cứu
khác trên in vitro cũng tỏ ra đáp ứng nhạy(1,7).


Phân tích chi tiết diễn tiến giảm sốt và cắt ký sinh trùng P. falciparum do
chloroquine (bảng 3 và 4), chúng tôi nhận thấy sự đáp ứng chloroquin của P.
falciparum tại các điểm nghiên cứu rất tốt, cụ thể thời gian sạch KSTSR trung bình
lần lượt 3 năm (2005-2006-2007) là 55,0 ± 25,30; 64,30 ± 14,90 và 44,10 ± 12,90 giờ
và trung bình chung là 51,13 ± 17,70 giờ (nghĩa là chưa đến 3 ngày đã sạch KSTSR);
cụ thể là sau 24 giờ MĐKSTSR giảm lần lượt 48,97% và 73,41%, sau 48 MĐKST
giảm 96,70%-98,62% và sau 72 giờ MĐKST giảm 100%. Tất cả 85 bệnh nhân
nghiên cứu đều cải thiện về mặt lâm sàng, thời gian cắt sốt lần lượt là 20,90 ± 10,70;


×