Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

U VÀ TỔN THƯƠNG DẠNG U Ở GAN pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.98 KB, 14 trang )

U VÀ TỔN THƯƠNG DẠNG U Ở GAN

TÓM TẮT
Mục đích: Chẩn đoán và phân loại u và các tổn thương dạng u ở gan.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt
ngang. Khảo sát trên bệnh phẩm mổ từ 160 trường hợp. Chẩn đoán và phân loại u
và các tổn thương dạng u ở gan trên các tiêu bản nhuộm HE và Hóa mô miễn dịch
(HMMD).
Kết quả: Qua nghiên cứu 160 trường hợp phẫu thuật gan, có 35 trường hợp
nang gan, 7 trường hợp u lành mạch máu, 1 trường hợp u tuyến tế bào gan, 3
trường hợp tăng sinh khu trú dạng nốt, 1 trường hợp áp xe gan, 86 trường hợp ung
thư gan nguyên phát, 26 trường hợp ung thư di căn gan, 1 trường hợp limphôm.
Kết luận: Nang gan chiếm tỉ lệ 21,9% trong tất cả tổn thương ở gan được
phẫu thuật, thường gặp ở nữ hơn nam. U mạch máu chiếm tỉ lệ 5,6% u đặc ở gan.
U mạch máu dạng hang chiếm đa số. Tỉ lệ nam/nữ là 2/5. Ung thư gan nguyên
phát chiếm tỉ lệ 76,1% (86/113 trường hợp u ác ở gan) u ác tính ở gan được phẫu
thuật, carcinôm tế bào gan chiếm đa số, 91,9%) trường hợp. Tỉ lệ nam/nữ là 3,1/1.
Ung thư gan thứ phát do di căn từ nơi khác chiếm tỉ lệ 23% u ác ở gan. Tỉ lệ
nam/nữ là 0,6/1.
ABSTRACT
Aims: Diagnosis and classification of tumor and tumor-like lesions of the
liver.
Methods: Tumor and tumor-like lesions of the liver from 160 patients were
analyzed. Hematoxylin-eosin staining and immunohistochemistry were used for
histological diagnosis of tumor and tumor-like lesions of the liver.
Results: 160 patients suffering from tumor and tumor-like lesions were
included in this study: 35 patients with liver cysts, 7 patients with hemangiomas, 3
patients with focal nodular hyperplasia, 1 patient with liver cell adenoma, 1 patient
with abscess, 86 patients with primary malignant tumors, 86 patients with
secondary malignant tumors and 1 patient with lymphoma.
Conclusion: Liver cysts averaged 21.9% of all surgical liver lesions. Liver


cyst was more frequent in females. Hemangiomas averaged 5.6% of all solid liver
lesions. Cavernous hemangiomas were predominant. The ratio of males/females is
2/5. Primary liver cancer averaged 76.1% of all surgical hepatic malignant lesions,
hepatocellular carcinoma were predominant, (91.9%). The ratio of males/females
is 3.1/1. Metastasis tumors averaged 23% of all surgical hepatic malignant lesions.
The ratio of males/females is 0.6/1.

MỞ ĐẦU
Ung thư gan là một trong những ung thư hàng đầu ở Việt Nam cũng như tại
nhiều nước khác trên thế giới. Tại Tp Hồ Chí Minh, ung thư gan đứng hàng đầu ở
nam và thứ 6 ở nũ
(5)
. Ung thư gan thường ít có biểu hiện triệu chứng lâm sàng,
nhất là ở giai đoạn sớm. Các triệu chứng thường xuất hiện muộn, khó phân biệt
với các bệnh lành tính khác. Ung thư gan được chia thành ung thư gan nguyên
phát và ung thư gan thứ phát. Các loại u lành thường gặp ở gan gồm u tuyến tế bào
gan, u lành mạch máu
(3,8,13)
Ngoài ra, nhiều tổn thương ở gan dạng u ở gan như
tổn thương tăng sinh khu trú tế bào gan, áp-xe gan, nang gan cũng cũng là những
tổn thương thường gặp ở gan
(2,6,13)
.
Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm các mục tiêu sau:
Mục tiêu nghiên cứu
1. Phân loại u và các tổn thương dạng u ở gan
2. Xác định tỉ lệ các loại u và tổn thương dạng u ở gan
VẬT LIỆU - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Vật liệu nghiên cứu
160 bệnh phẩm phẫu thuật gan được chẩn đoán tại Bộ môn Giải phẫu bệnh

Đại học Y dược TP. Hồ Chí Minh từ tháng 7-2004 đến tháng 12-2006.
Phương pháp nghiên cứu
Mô tả cắt ngang.
Khảo sát mô bệnh học
Các mẫu bệnh phẩm được cố định trong Formalin 10%. Sau đó, các mẫu
bệnh phẩm được cắt lọc, xử lý mô và vùi trong paraffin. Nhuộm thường qui với
Hematoxylin- Eosin (HE), sau đó được chẩn đoán dưới kính hiển vi quang học.
Các trường hợp khó phân biệt được tiến hành nhuộm hóa mô miễn dịch để
chẩn đoán.
Số liệu thu thập được tổng hợp, phân tích và xử lý bằng phần mềm SPSS
13.0.
KẾT QUẢ
Qua nghiên cứu 160 trường hợp phẫu thuật gan, có 47 trường hợp là tổn
thương lành tính ở gan chiếm tỉ lệ 29,4%, 113 trường hợp là các tổn thương ác
tính chiếm tỉ lệ 70,6% (bảng 1), 39 trường hợp tổn thương dạng u chiếm tỉ lệ
24,4% và 121 trường hợp u thật chiếm tỉ lệ 75,6% (bảng 2,3).
Bảng 1: Tỉ lệ các loại tổn thương được phẫu thuật ở gan
Lo
ại tổn
thương
Số
ca
TỈ lệ

Nang gan 35 21,9%
U lành
mạch máu
7
4,4%
U tuy

ến tế
bào gan
1
0,6%
Tăng sinh
khu trú dạng nốt
3
1,9%
Áp xe gan 1 0,6%
Ung thư
gan nguyên phát
86
53,7%
Un
g thư di
căn gan
26
16,3%
Limphôm 1 0,6%
Tổng cộng 160

100%

Trong các u ác tính, ung thư gan nguyên phát là tổn thương ác tính có tỉ lệ
cao nhất và lành mạch máu là u lành có tỉ lệ cao nhất (bảng 2). Nang gan là tổn
thương dạng u thường gặp nhất (bảng 3).
Bảng 2: Tỉ lệ các loại u gan
Lo
ại tổn
thương

Số
ca
TỈ lệ

U lành
mạch máu
7
5,8%
U tuy
ến
tế bào gan
1
0,8%
Ung
thư
gan nguyên phát

86
71,1%

Ung thư
di căn gan
26
21,5%

Limphôm

1 0,8%
Tổng
cộng

121

100%

Bảng 3: Tổn thương dạng u ở gan
Lo
ại tổn
thương
S

ca
TỈ lệ

Nang gan 35

89,7%

Áp xe gan 1 2,6%
Tăng sinh
khu trú dạng nốt
3
7,7%
Tổng cộng
39
100%

Nang gan
35 trường hợp nang gan đều có biểu mô lót, có thể là biểu mô dẹt, biểu mô
trụ vuông, gồm 5 trường hợp đa nang, 30 trường hợp một nang. Trong 35 trường
hợp nang gan có 5 trường hợp được mổ kết hợp với sỏi túi mật, các trường hơp

còn lại chỉ đơn thuần để xử lý nang gan. Nang lớn nhất có đường kính 16cm, nang
nhỏ nhất có đường kính 0,5cm. Tỉ lệ nam/nữ là 1/3,3 (8/27). Tuổi cao nhất là 84,
thấp nhất là 7, tuổi trung bình là 56.
Tăng sinh khu trú dạng nốt
Trong 3 trường hợp tăng sinh khu trú dạng nốt, có 2 nam, 1 nữ. Tất cả cá
trường hợp này đều có chẩn đoán lâm sàng là u gan. Kích thước lớn nhất là 3cm,
nhỏ nhất là 1cm. Tuổi lớn nhất là 55, nhỏ nhất là 35.
U tuyến
Trong nghiên cứu của chúng tôi chỉ có một trường hợp, u gan trái, nam, 55
tuổi.
Áp xe gan
Trong nghiên cứu của chúng tôi có một trường hợp, với chẩn đoán lâm
sàng là u gan phải, nữ, 34 tuổi.
U mạch máu
Trong 7 trường hợp u mạch máu, có 4 trường hợp u mạch máu dạng hang,
3 trường hợp u dạng vi mạch. Tỉ lệ nam/nữ là 2/5. Tuổi cao nhất là 70, thấp nhất là
16, tuổi trung bình là 49.
Ung thư gan nguyên phát
Trong 113 trường hợp tổn thương ác tính ở gan có 86 trường hợp ung thư
gan nguyên phát, gồm 79 (91,9%) trường hợp carcinôm tế bào gan, 5 (5,8%)
trường hợp carcinôm tế bào ống mật, 1 trường hợp carcinôm hỗn hợp tế bào gan-tế
bào ống mật, 1 trường hợp sarcôm. Tỉ lệ nam/nữ là 3,1/1 (65/21 trường hợp). Tuổi
cao nhất là 83, thấp nhất là 27 tuổi, tuổi trung bình là 56. Có 8 trường hợp có
nhiều u ở gan, 2 trường hợp chiếm gần như toàn bộ gan, 4 trường hợp u gan vỡ.
Ung thư gan thứ phát do di căn từ nơi khác
Có 26 trường hợp phẫu thuật u gan do di căn từ cơ quan khác. Tỉ lệ nam/nữ
là 0,6/1 (10/16 trường hợp). Tuổi cao nhất là 84, thấp nhất là 28, tuổi trung bình là
54.
Lim phôm ở gan
Trong 160 trường hợp tổn thương ở gan có 1 trường hợp limphôm, Trường

hợp này là một bệnh nhân nữ, 62 tuổi, có u gan, lách.
BÀN LUẬN
Nang gan được chia theo nhiều cách khác nhau tùy theo tác giả. Nang gan
có thể là nang thật hay nang giả. Các nang thật gồm các nang bẩm sinh (có thể một
hay nhiều nang), nang kí sinh trùng, nang liên quan đến ống mật, nang trong u. Các
nang giả có thể do chấn thương, xuất huyết, viêm. Tuy nhiên, nang gan cũng có thể
chia thành 2 loại: do ký sinh trùng và không do ký sinh trùng. Nhưng hầu hết các
nang gan là nang đơn giản, nang đường mật hay nang sán. Các loại nang này đều là
các nang thật, là những nang có biểu mô lót
(1,12,14,15,16)
. Ở Việt Nam, nang sán (hydatid
cyst) ở gan thường do sán lá nhỏ gây ra. Nang gan không do ký sinh trùng có thể có
một nang đơn độc hay nhiều nang. Các nang này chủ yếu là do bẩm sinh (congenital
cyst). Hầu hết đều không có triệu chứng. Các nang cũng có thể lớn, gây đau tức,
nhiễm trùng, xuất huyết Chẩn đoán nang gan có thể dễ dàng nhờ siêu âm. Nang gan
trong nghiên cứu này chủ yếu là nang đơn độc. Nữ chiếm đa số, có thể gấp gần đến 4
lần ở nam. Tuổi thường phát hiện nang gan nhất là ở độ tuổi 50, 60. Tỉ lệ nang gan
được phẫu thuật là 21,9%, tỉ lệ này cao hơn nhiều so với các tác giả khác. Điều này có
thể do quan điểm chỉ định phẫu thuật nang gan của các bác sĩ ngoại khoa tại bệnh
viện Đại học Y dược rộng rãi hơn.
U lành mạch máu (hemangioma) là u gan lành tính thường gặp nhất,
thường nhiều, nhỏ khoảng vài cm, hiếm khi có triệu chứng lâm sàng. Nồng độ
alpha- fetoprotein (AFP) máu không tăng cao. Các u lành mạch máu ở gan gồm u
lành mạch máu dạng hang và biến thể khác của nó là u lành mạch máu dạng vi
mạch. Hầu hết các u lành mạch máu là không có triệu chứng lâm sàng, được phát
hiện tình cờ. Quan trọng nhất là phải phân biệt với các loại u ác
(9,10,13,14,15,16)
. Trong
7 trường hợp u mạch máu, có 4 trường hợp u mạch máu dạng hang, 3 trường hợp
u dạng vi mạch. Nữ chiếm đa số, gấp nam 2,5 lần. Tuổi cao nhất là 70, thấp nhất là

16, tuổi trung bình là 49. Số trường hợp u mạch máu ở gan được phẫu thuật trong
lô nghiên cứu của chúng tôi không nhiều, chưa đủ để kết luận chính xác về loại u
này.
U tuyến tế bào gan (liver cell adenoma) là u lành, có giới hạn rõ, màu sắc
tương tự mô gan bình thường. Tần suất tăng lên ở phụ nữ dùng thuốc ngừa thai hay
các thuốc steroid có nguồn gốc androgen hay oestrogen. Nồng độ AFP máu bình
thường. Trên hình ảnh mô bệnh học, u tuyến tế bào gan gồm các dãy tế bào gan giống
tế bào gan bình thường, không có cấu trúc tiều thùy. Nhiều trường hợp khó phân biệt
được với ung thư tế bào gan, kể cả trên vi thể
(8,9,11,13)
. Trong nghiên cứu của chúng tôi
chỉ có một trường hợp, u gan trái, nam, 55 tuổi.
Tăng sản khu trú dạng nốt (Focal nodular hyperplasia) là tổn thương có dạng
u, không phải là u thật. Tổn thương có dạng đặc, đơn độc, đường kính có thể lớn đến
5cm. Trung tâm tổn thương có mô xơ, bên trong mô xơ này có nhiều ống mật, mạch
máu có thành dày. Tổn thương thường không có triệu chứng lâm sàng, phát hiện tình
cờ. Việc chẩn đoán có thể nhầm với ung thư gan
(2,6,7,8)
. Trong 3 trường hợp tăng sinh
khu trú dạng nốt trong nghiên cứu này, có 2 nam, 1 nữ. Tất cả cá trường hợp này đều
có chẩn đoán lâm sàng là u gan, 2 trường hợp được chẩn đoán là ung thư gan. Kích
thước lớn nhất là 3cm, nhỏ nhất là 1cm. Hình ảnh trên siêu âm, CT-scan, MRI không
thể phân biệt chính xác với ung thư gan. Ngay cả trên đại thể cũng khó xác định. Các
trường hợp này chỉ có thể chẩn đoán xác định trên vi thề sau khi phẫu thuật hay qua
sinh thiết gan.
Đặc biệt, trong 125/160 trường hợp u đặc ở gan, có một trường hợp áp xe gan
được phẫu thuật với chẩn đoán lâm sàng nghi ngờ ung thư gan. Ung thư gan, nhất là
các trường hợp hoại tử, có một số triệu chứng giống như áp xe gan, như đau hạ sườn
phải, rung gan dương tính, tốc độ lắng máu tăng. Chẩn đoán phân biệt dựa vào siêu
âm, nồng độ AFP máu, sinh thiết

Ung thư gan nguyên phát là loại ung thư xuất nguồn từ tế bào gan hoặc tế bào
ống mật. Cần phân biệt ung thư gan nguyên phát với ung thư gan thứ phát, là loại ung
thư do di căn từ một ung thư ở nơi khác đến gan. Theo nhiều nghiên cứu, Carcinôm tế
bào gan (Hepatocellular carcinoma-HCC) có thể từ 80-90%. Carcinôm tế bào ống
mật (Cholangio carcinoma) chiếm tỉ lệ 5-10%, Carcinôm loại hỗn hợp tế bào gan-tế
bào ống mật chiếm tỉ lệ 5-10%
(2,5,6,8,13)
. Trong nghiên cứu này, 79 (91,9%) trường hợp
carcinôm tế bào gan, 5 (5,8%) trường hợp carcinôm tế bào ống mật, 1 trường hợp
carcinôm hỗn hợp tế bào gan-tế bào ống mật, 1 trường hợp sarcôm. Tuổi cao nhất là
83, thấp nhất là 27 tuổi, tuổi trung bình là 56. Có 8 trường hợp có nhiều u ở gan, 2
trường hợp chiếm gần như toàn bộ gan, 4 trường hợp u gan vỡ. Ung thư gan nguyên
phát ở nam nhiều hơn gấp 3 lần nữ. Ở các nước có xuất độ ung thư gan càng cao, tỉ lệ
nam/nữ càng cao. Kết quả này không khác biệt có ý nghĩa thống kê với các nghiên
cứu khác.
Carcinôm di căn gan là loại u ở gan thường gặp nhất. Tuy nhiên, chỉ có một số
trường hợp được phẫu thuật và thường là ở giai đoạn cuối của một ung thư khác. Có
23% (26) trường hợp phẫu thuật u gan do di căn từ cơ quan khác. Các ung thư di căn
đến gan chủ yếu được xác định từ các cơ quan ở tiêu hóa, trong đó từ ống tiêu hóa
chiếm đa số, tiếp theo là từ túi mật. Ngoài ra, ung thư di căn đến gan còn từ tụy,

(3,8,11,13)
. Tỉ lệ nam/nữ là 0,6/1 (10/16 trường hợp). Tuổi thường gặp nhất là ở độ
tuổi 50-60.
Trong 160 trường hợp tổn thương ở gan có 1 trường hợp limphôm, Trường
hợp này là một bệnh nhân nữ, 62 tuổi, có u gan, lách. Limphôm gan có thể nguyên
phát hay thứ phát, khởi phát đầu tiên ở gan. Limphôm ở gan hầu hết có kèm với
limphôm lách, trong trường hợp này được gọi là limphôm gan-lách, cũng được xem
là limphôm nguyên phát ở gan. Ở trường hợp này, limphôm được xác định cả ở u gan
và lách

(8)
. Tuy nhiên, trường hợp này vẫn chưa thể kết luận là limphôm nguyên phát
do chúng tôi chưa loại trừ được limphôm có từ một cơ quan khác.
KẾT LUẬN
- Nang gan chiếm tỉ lệ 21,9% trong tất cả tổn thương ở gan được phẫu
thuật. Tỉ lệ nam/nữ là 1/3,3.
- U mạch máu chiếm tỉ lệ 5,6% (7/125 trường hợp u đặc ở gan). U mạch
máu dạng hang chiếm đa số. Tỉ lệ nam/nữ là 2/5.
- Ung thư gan nguyên phát chiếm tỉ lệ 76,1% (86/113 trường hợp u ác ở
gan) u ác tính ở gan được phẫu thuật, carcinôm tế bào gan chiếm đa số với 79
(91,9%) trường hợp. Tỉ lệ nam/nữ là 3,1/1. Tuổi trung bình là 56.
- Ung thư gan thứ phát do di căn từ nơi khác chiếm tỉ lệ 23% u ác ở gan. Tỉ lệ
nam/nữ là 0,6/1 (10/16 trường hợp). Tuổi trung bình là 54.
- Đối với u đặc ở gan nên tiến hành sinh thiết để có chẩn đoán xác định
trước khi phẫu thuật.

×