TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
TIỂU LUẬN
BẢO HỘ VỀ CHỈ DẪN ĐỊA LÝ THEO PHÁP LUẬT
NHẬT BẢN
Giảng viên hướng dẫn
TS. Lê Thị Thu Hà
Họ và tên sinh viên
Mã sinh viên
Nguyễn Tú Linh
0951010483
Phạm Hồng Dƣơng
0951010391
Nguyễn Phƣơng Anh
0951010338
Lê Thảo Trang
0951010597
Lớp: TMA408.2_LT
Hà Nội, tháng 5 năm 2012
2
MỤC LỤC
MỤC LỤC 2
LỜI NÓI ĐẦU 3
CHƢƠNG 1 4
Giới thiệu chung về hệ thống pháp luật Sở hữu trí tuệ Nhật Bản 4
1) Đặc điểm chung về hệ thống pháp luật Nhật Bản 4
2) Tổng quan về hệ thống pháp luật Sở hữu trí tuệ Nhật Bản 8
3) Quy định về chỉ dẫn địa lí bởi các biện pháp điều khiển hành chính 13
CHƢƠNG 2 16
Bảo hộ chỉ dẫn địa lý theo pháp luật Nhật Bản 16
1) Bảo hộ chỉ dẫn địa lý thông qua luật Chống cạnh tranh không lành
mạnh 16
2) Bảo hộ chỉ dẫn địa lý thông qua luật Bảo hiểm 21
3) Bảo hộ chỉ dẫn địa lý thông qua luật của Hiệp hội kinh doanh rƣợu 23
KẾT LUẬN 30
TÀI LIỆU THAM KHẢO 31
3
LỜI NÓI ĐẦU
Cùng với tiến trình toàn cầu hoá về kinh tế và tự do hóa về thƣơng mại,
các quốc gia trên thế giới ngày càng quan tâm hơn tới việc bảo vệ sản phẩm
của mình khi thâm nhập vào thị trƣờng các nƣớc khác thông qua việc sử dụng
chỉ dẫn địa lý. Tuy nhiên, thực tế đã minh chứng, bên cạnh những lợi ích đáng
kể mà chỉ dẫn địa lý mang lại cho đối tƣợng mà nó phục vụ , mục đích lợi
nhuận có thể khiến cho các chủ thể khác sẵn sàng tìm mọi cách để gây thiệt
hại đáng kể cho các quốc gia sở hữu chỉ dẫn địa lý. Bởi vì thế mà nhu cầu về
tăng cƣờng bảo hộ các chỉ dẫn địa lý trong thƣơng mại thông qua các điều
ƣớc quốc tế đƣợc các quốc gia đặc biệt chú ý. Mặc dù từ những nƣớc thuộc
Liên minh Châu Âu, Hoa Kỳ, Australia cho tới những quốc gia Châu Á nhƣ
Trung Quốc, Hàn Quốc đều nhận thức đƣợc tầm quan trọng của chỉ dẫn địa lý
và có những hệ thống luật bảo hộ rất chặt chẽ, nhƣng tại Nhật Bản – đất nƣớc
có nền kinh tế phát triển vô cùng vững mạnh, lại rất xem nhẹ vấn đề bảo hộ
chỉ dẫn địa lý, cũng chính vì vậy đã có không ít những tranh chấp xảy ra trong
quá trình tổ chức và hoạt động kinh doanh, ảnh hƣởng đến lợi ích kinh tế quốc
gia và lợi ích thƣơng mại của doanh nghiệp. Với đề tài “Bảo hộ về chỉ dẫn
địa lý theo pháp luật Nhật Bản”, nhóm nghiên cứu muốn đƣa đến một cái
nhìn tổng quan về hệ thống luật pháp Nhật Bản cùng với những vấn đề liên
quan tới bảo hộ chỉ dẫn địa lý tại Nhật Bản. Trong quá trình hoàn thiện bài
tiểu luận không thể tránh khỏi những thiếu sót, chúng em rất mong đƣợc nhận
sự góp ý và hƣớng dẫn để nhóm có thể chỉnh sửa và rút kinh nghiệm cho
những bài tiểu luận về sau. Chúng em xin chân thành cảm ơn cô.
4
CHƯƠNG 1
Giới thiệu chung về hệ thống pháp luật Sở hữu trí tuệ Nhật Bản
***
1) Đặc điểm chung về hệ thống pháp luật Nhật Bản
Nhật Bản là một quần đảo đông dân cƣ ở Đông Bắc Á, và là nền kinh tế
lớn thứ hai trên thế giới. Mặc dù đã tiến hành mở cửa từ giữa 19 thế kỷ để
hiện đại hóa nền kinh tế, xã hội và hệ thống pháp luật, tại Nhật Bản khái niệm
hiện đại, “phƣơng Tây ", và pháp luật của chính quốc gia vẫn còn chƣa rõ
ràng.
Luật pháp Nhật Bản vay mƣợn từ Trung Quốc, lục địa Châu Âu từ cuối
thế kỷ 19 và từ hệ thống pháp luật Anh – Mỹ. Trƣớc sự trỗi dậy của nền kinh
tế trì trệ và sự thúc đẩy việc bãi bỏ quy định trong những năm 1990, một số
nhà bình luận đã công bố "Mỹ hóa của luật pháp Nhật Bản"
1
. Tuy nhiên, nó
vẫn đƣợc đóng khung bởi luật pháp quốc tế, cải cách pháp luật vẫn còn thu
hút “tiêu chuẩn toàn cầu” rộng lớn đồng thời nó có một truyền thống luật
pháp bản địa lâu đời và mạnh mẽ. Theo đó, luật pháp Nhật Bản đƣợc dự kiến
sẽ vẫn còn một hệ thống pháp luật nguyên mẫu "lai”, không dễ dàng mô tả
nhƣ là thuộc về bất kỳ "gia đình hợp pháp" cụ thể nào.
Nghiên cứu pháp luật của Nhật Bản cũng dẫn đến sự ra đời các mô hình
mới hoặc sự phát triển các lý thuyết, đặc biệt những nhà bình luận nƣớc ngoài
với ngôn ngữ phƣơng Tây, đã giải thích hiện tƣợng rằng dƣờng nhƣ quy định
của pháp luật vẫn còn chƣa thực sự quan trọng trong trật tự kinh tế – xã hội.
Hệ thống luật pháp Nhật Bản cung cấp một nền tảng thử nghiệm phong phú
cho các phƣơng pháp tiếp cận pháp luật so sánh ở cấp độ khái quát hơn.
1
Theo “The Americanization of Japanese law” – Kelemen & Sibbitt, 2002
5
Hiến pháp ở Nhật Bản hiện nay đưa ra ba nguyên tắc cơ bản
Thứ nhất, quyền lực nằm trong tay nhân dân thay vì trong tay Nhật
Hoàng. Mặc dù Nhật Hoàng vẫn đóng vai trò không thể thay thế trong một số
công việc quốc gia, chẳng hạn nhƣ việc triệu tập Quốc hội, nhƣng vai trò đó
chỉ mang tính nghi lễ và chỉ đƣợc thực hiện với sự tƣ vấn và chấp thuận của
nội các.
Nguyên tắc thứ hai nói về sự tôn trọng dành cho quyền cơ bản của con
ngƣời. Hiến pháp bao gồm một dự luật quyền dài 30 điều, quy định rằng "các
quyền con ngƣời cơ bản ghi trong Hiến pháp đƣợc ban cho con ngƣời và các
thế hệ tƣơng lai là quyền vĩnh cử ". Chúng không chỉ
bao gồm các quyền tự do dân sự nhƣ quyền tự do ngôn luận, tự do thực hiện
tôn giáo và các quyền tố tụng nhau của bị cáo; những quyền phúc lợi nhƣ: "tất
cả mọi ngƣời có quyền đƣợc duy trì những tiêu chuẩn tối thiểu của cuộc sống
lành mạnh và văn hóa". Tuy nhiên, nội dung cụ thể của quyền này đƣợc cho
là phụ thuộc vào các chính sách phúc lợi của chính phủ, vì vậy ngƣời nhận
phúc lợi xã hội không có quyền tuyên bố rằng một chính sách phúc lợi cụ thể
là vi hiến.
Nguyên tắc cơ bản thứ ba là hòa bình. "Nhật Bản vĩnh viễn từ bỏ chiến
tranh nhƣ một quyền của quốc gia và đe dọa sử dụng vũ lực nhƣ là phƣơng
tiện giải quyết tranh chấp quốc tế" và "lục quân, hải quân, không quân và các
tiềm năng chiến tranh khác, sẽ không bao giờ đƣợc duy trì". Chính phủ đã liên
tục khẳng định rằng Hiến pháp không bao giờ cấm việc duy trì một lực lƣợng
cần thiết tối thiểu để tự vệ. Theo điều tra đƣợc thực hiện những năm 1990,
một phần lớn ngƣời dân nghĩ rằng Nhật Bản nên đóng góp một phần do việc
duy trì hòa bình thế giới, và Lực lƣợng Tự vệ Nhật Bản (Self-Defense Force –
SDF) nên đƣợc coi nhƣ hiến pháp nếu cần thiết cho mục đích này. Tƣ tƣởng
đó cùng với áp lực từ phía Hoa Kỳ, chính phủ Nhật Bản đã ban hành luật cho
phép SDF tác chiến ở nƣớc ngoài trong một số trƣờng hợp nhất định.
6
Hiến pháp thông qua việc phân chia các quyền hạn như một nguyên tắc
cho hệ thống Chính phủ
Quyền lập pháp nằm trong tay Quốc hội. Quốc hội bao gồm Hạ viện và
Thƣợng Viện, với Hạ Viện nắm quyền quan trọng hơn trong hầu hết các khía
cạnh. Các thành viên của cả hai Viện đƣợc bầu, và tất cả các công dân trên 20
tuổi có quyền bỏ phiếu. Quyền hành đƣợc trao cho Nội các, bao gồm Thủ
tƣớng Chính phủ và các Bộ trƣởng khác. Thủ tƣớng Chính phủ là ngƣời đứng
đầu nội các và đƣợc lựa chọn từ các thành viên của Quốc hội. Sau đó, Thủ
tƣớng Chính phủ bổ nhiệm các Bộ trƣởng trong số các thành viên của Quốc
hội. Quyền lực tƣ pháp đƣợc trao cho Tòa án Tối cao và các tòa án thấp hơn
đƣợc thành lập theo quy định của pháp luật. Tuy Hiến pháp quy định "Quốc
hội sẽ là cơ quan cao nhất của quyền lực nhà nƣớc", Quốc hội cũng tuân thủ
các ý tƣởng của nguyên tắc phân chia quyền lực, bằng cách trao cho Nội Các
quyền giải tán Quốc hội và Tòa án quyền xác định tính hợp hiến của đạo luật
đƣợc ban hành bởi Quốc hội. Các thành viên của Quốc hội và Nội các có thể
đệ trình một dự luật lên Quốc hội. Trong thực tế, trong số những dự luật đƣợc
thông qua, số lƣợng đệ trình bởi Nội Các đã vƣợt xa số dự luật đệ trình bởi
Quốc hội, mặc dù có nhiều dự luật đƣợc đệ trình bởi các cá nhân hơn kể từ
những năm 1990. Dự luật do nội các vẫn đƣợc soạn thảo chủ yếu bởi các quan
chức trong Bộ hoặc các cơ quan thuộc ngành hành pháp. Vì vậy, quyền lập
pháp lực thực sự nằm trong tay của các Bộ. Điều này khác với Hoa Kỳ nhƣng
là phù hợp với truyền thống "Westminister" dân chủ nghị viện vẫn đƣợc áp
dụng trong một phần của khối Anglo – Khối thịnh vƣợng chung. Quá trình
làm luật của Nhật Bản cũng đã trở nên đa dạng và phức tạp, đặc biệt là kể từ
cuối những năm 1990.
Ngoài Quốc hội, các bộ luật có thể đƣợc soạn thảo bởi các cơ quan khác.
Nguồn luật thứ nhất đến từ Chính phủ, các Bộ, cơ quan thuộc ngành hành
7
pháp. Những luật này chỉ có hiệu lực trong phạm vi các cơ quan cụ thể quy
định bởi các đạo luật. Nguồn luật thứ hai đến từ Tòa án tối cao, liên quan đến
thủ tục tƣ pháp, các vấn đề liên quan đến luật sƣ, kỷ luật nội bộ của các tòa
án, và việc quản lý của ngành tƣ pháp. Tuy nhiên, Quốc hội cũng đƣợc trao
quyền để ban hành luật liên quan đến những vấn đề này, và một đạo luật đƣợc
ban hành bởi Quốc hội có hiệu lực cao hơn một luật đƣợc ban hành bởi Tòa
án Tối cao. Nguồn thứ ba là điều ƣớc quốc tế. Nội các đƣợc trao quyền ký các
điều ƣớc quốc tế. sau, hoặc trƣớc khi đã có đƣợc sự đồng thuận của Quốc hội,
tùy vào hoàn cảnh. Mặc dù nhiều ngƣời nghĩ rằng điều ƣớc quốc tế có hiệu
lực cao hơn pháp luật nhà nƣớc, tồn tại nhiều luồng ý kiến khác nhau về mối
quan hệ giữa Hiến pháp và các điều ƣớc quốc tế. Tuy nhiên, từ trƣớc tới nay
không có tiền lệ tƣ pháp nào liên quan mối quan hệ giữa các điều ƣớc quốc tế
và pháp luật trong nƣớc. Một nguồn tin thứ tƣ của pháp luật là pháp lệnh đƣợc
ban hành bởi chính quyền địa phƣơng. Hiến pháp cho phép chính quyền địa
phƣơng ban hành pháp lệnh của mình trong phạm vi tƣơng thích với pháp luật
của Quốc hội. Trong một số lĩnh vực, chẳng hạn nhƣ bảo vệ ngƣời tiêu dùng
và môi trƣờng, quyền này mở đƣờng cho nhiều tiến bộ hơn ở cấp địa phƣơng.
Nhƣng trong hệ thống tài chính công của Nhật Bản, sau một quá trình xem xét
kỹ càng, quyền lập pháp này thƣờng bị hạn chế. Một cách chính thức, tiền lệ
tƣ pháp không phải là nguồn của pháp luật. Ngay cả quyết định của Tòa án
Tối cao cũng không dựng lên bất kỳ ràng buộc nào về pháp luật cho các
trƣờng hợp tƣơng tự trong tƣơng lai. Tòa án cấp thấp hơn có thể xét xử mà
không bị phụ thuộc vào bất kỳ quyết định trong quá khứ nào của Tòa án tối
cao. Tuy nhiên, tòa án cấp địa phƣơng thƣờng tuân theo những tiền lệ của Tòa
án tối cao và bản thân Tòa án Tối cao cũng rất thận trọng trong việc đi ngƣợc
lại những tiền lệ xét xử của mình. Vì vậy, các tiền lệ là đầu mối quan trọng
nhất để dự đoán kết quả của những vụ án hiện tại, và do đó trở thành một
nguồn thực tế của pháp luật.
8
Nhật Bản từ lâu đã là một đất nước mà luật pháp đóng vai trò rất hạn chế
Hầu hết các tranh chấp đƣợc giải quyết bằng cách đàm phán giữa các
bên hoặc thông qua các dịch vụ hòa giải đƣợc cung cấp bởi tòa án hoặc các
thủ tục ADR khác, trƣớc khi phát triển thành các vụ kiện. Tuy nhiên, nhƣ đã
đề cập ngay từ đầu, các lý thuyết khác nhau về cách giải thích hành vi với
những tác động khác nhau.
Cũng nhƣ tòa án đƣợc thƣờng xuyên sử dụng để giải quyết các tranh
chấp cá nhân, luật pháp đóng một vai trò rất hạn chế theo một nghĩa khác: tƣ
pháp rất miễn cƣỡng thực hiện quyền lực đã đƣợc trao để thu hồi quyết định
của các ngành khác của chính phủ. Điều lệ đƣợc ban hành bởi The Diet hầu
nhƣ không bao giờ trái với hiến pháp, và trƣờng hợp mà quyết định của các
cơ quan thuộc ngành hành pháp bị đình chỉ cũng rất hiếm. Hầu nhƣ tất cả các
quyết định chính trị quan trọng đều miễn dịch từ sự giám sát tƣ pháp. Một lý
thuyết "duy lý" đã cho rằng nó là kết quả từ triều đại lâu dài của LDP, dẫn đến
không chỉ các quan chức trong ngành hành pháp mà còn là cơ quan tƣ pháp đã
thực hiện đúng với chính sách rõ ràng của Đảng trong các tình huống chính trị
quan trọng, ngay cả khi không có sự can thiệp trực tiếp nào.
2) Tổng quan về hệ thống pháp luật Sở hữu trí tuệ Nhật Bản
Nhật Bản đã kí kết hầu hết các Hiệp ƣớc Quốc tế có liên quan đến quyền
Sở hữu trí tuệ. Do đó, trong phạm vi điều chỉnh của các Hiệp ƣớc Quốc tế
này, những nguyên tắc chung để bảo hộ và khởi tố thuộc quyền Sở hữu trí tuệ
nằm trong hệ thống pháp luật Sở hữu trí tuệ Nhật Bản hoàn toàn tƣơng tự với
các quốc gia đã kí kết khác. Các Hiệp ƣớc Quốc tế liên quan đến quyền sở
hữu trí tuệ mà Nhật Bản đã kí bao gồm không giới hạn những Hiệp ƣớc sau
đây:
9
o Các khía cạnh liên quan đến Thương mại của Quyền sở hữu trí tuệ
1994
o Công ước Paris về bảo vệ tài sản công nghiệp 1883
o Hiệp ước hợp tác về sáng chế (PTC) 1970
o Hiệp ước Budapest về sự công nhận quốc tế đối với việc nộp lưu chủng
vi sinh nhằm tiến tới các thủ tục về Patent 1997
o Hiệp định quốc tế về bảo vệ giống cây trồng mới 1961
o Sự thỏa thuận tốt đẹp liên quan tới việc phân loại hàng hóa và dịch vụ
Quốc tế để đăng kí nhãn hiệu hàng hóa 1991
o Điều ước Luật nhãn hiệu 1994
o Nghị định thư Marid liên quan tới đăng kí nhãn hiệu quốc tế 1989
o Công ước Burn về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật ( Đạo
luật Paris) 1971
o Công ước Bản quyền quốc tế 1971
o Công ước Rome về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất, bản ghi âm,
tổ chức phát sóng 1961
o Công ước Geneva về bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm chống việc sao
chép không được phép bản ghi âm của họ 1971
o Hiệp ước bản quyền WIPO 1996
o Hiệp ước của WIPO về biểu diễn và bản ghi âm 1996
o Hiệp ước thành lập Tổ chức sở hữu trí tuệ Thế giới 1967
Quyền sở hữu trí tuệ Nhật Bản đề cập đến các khía cạnh liên quan đến
các vấn đề cơ bản bao gồm: (1) sáng chế, (2) quyền thiết kế tiện dụng, (3)
quyền thiết kế, (4) quyền về nhãn hiệu, (5) bản quyền, (6) bảo vệ bí mật
thƣơng mại và (7) bảo hộ chống cạnh tranh không lành mạnh. Cần phải lƣu ý
thêm là ở Nhật Bản không có văn bản Luật sở hữu trí tuệ nhƣ ở Việt Nam mà
chỉ có Quyền sở hữu trí tuệ. “ Nếu sở hữu trí tuệ đƣợc pháp luật thừa nhận thì
10
sẽ hình thành quyền sở hữu trí tuệ. Tập hợp các quyền SHTT và các chính
sách bảo hộ quyền SHTT tạo thành một hệ thống SHTT”.
2
Nếu nhƣ Nhật Bản
muốn bƣớc vào kỉ nguyên của sự sáng tạo trí tuệ, điều cấp thiết lúc này là cần
phải hình thành ngay một Luật đại cƣơng hay Luật cơ bản (Basic Law) về Sở
hữu trí tuệ.
Lịch sử luật Sáng chế Nhật Bản
Luật đầu tiên đề cập đến vấn đề sở hữu trí tuệ tại Nhật Bản là đạo luật về
sáng chế (Patent Act). Đạo luật này bắt đầu đƣợc thực hiện vào năm 1885, có
nghĩa nó xuất hiện trƣớc cả Hiến pháp Minh Trị (1889)
Cố vấn viên đầu tiên của Cục sáng chế Nhật Bản (JPO) là Korekiyo
Takahashi – ngƣời từng là phiên dịch viên của Tiến sĩ Morley trong chuyến đi
của ông từ Mĩ tới Nhật để giúp Nhật xây dựng hệ thống giáo dục. 120 năm về
trƣớc, Takahashi có nhắc tới việc Morley từng than phiền rằng Nhật Bản là
một quốc gia của sao chép các phát minh, nhãn hiệu và bản quyền – những
thứ tài sản đƣợc xem nhƣ vô cùng quý giá đối với ngƣời Mĩ lúc bấy giờ. Cho
rằng mình chƣa có đủ hiểu biết trong lĩnh vực này, Takahashi nỗ lực học hỏi
hết khả năng có thể. Sau khi hoàn thành công việc dƣới vai trò là cố vấn viên
ở JPO, Takahashi trở thành Thống đốc Ngân hàng Nhật Bản, Bộ trƣởng Bộ
nông nghiệp và công nghiệp, Bộ trƣởng Bộ Tài chính và cuối cùng là Thủ
tƣớng Nhật Bản.
Ngay khi hệ thống sáng chế đi vào hoạt động, Nhật Bản đã phát triển nền
công nghiệp của mình, trải qua cuộc cách mạng về công nghiệp và dần dần
trở nên vững mạnh theo thời gian, sánh ngang mình với các cƣờng quốc trên
Thế giới. Cùng với trình độ công nghệ cao, Nhật Bản sau đó đã sửa đổi bổ
sung Luật sáng chế vào năm 1921 cho phù hợp hơn với thực tế tình hình lúc
2
Theo />te-quoc-te
11
bấy giờ. Môi trƣờng pháp lí đã hoàn toàn trở nên đổi khác sau chiến tranh Thế
giới II với sự ra đời của Hiến pháp, luật Chống độc quyền và sự cải tổ tích
cực Bộ luật dân sự; và vì thế, luật Sáng chế lại một lần nữa đƣợc xem xét lại
vào năm 1959.
Khi nhìn lại có thể thấy Luật Sáng chế đã đƣợc chỉnh sửa cứ 40 năm một
lần. Đó là lí do vì sao Luật này đã lại sửa đổi cập nhật một lần nữa vào năm
1999. Trong những thập kỉ sau chiến tranh, Nhật Bản đã dần bắt kịp với nền
công nghệ châu Âu tiên tiến và hiện nay đang là một trong số những nƣớc đi
đầu về lĩnh vực này ở châu Á. Cùng thời kì sau chiến tranh, phạm vi sáng chế
chuyển dần từ dạng hữu hình sang những dạng dịch vụ và ý tƣởng vô hình.
Kết quả là, Nhật Bản cần một Luật Sáng chế mới phù hợp với sự thay đổi này.
Thế kỉ 21 là Thế kỉ của công nghệ thông tin, và điều cấp thiết là Nhật Bản cần
một Luật sáng chế đề cập đến luật về thiết kế, nhãn hiệu và các lĩnh vực khác
có liên quan.
12
: Lịch sử Luật Sáng chế Nhật Bản
3
Luật Sáng chế mới
Hiện nay quyền Sở hữu trí tuệ Nhật Bản đƣợc chia ra thành 2 lĩnh vực là
sự sáng tạo trí tuệ (intellectual) và sự xác lập kinh doanh (business
designations). Những luật cần thiết để bảo hộ những tài sản trí tuệ có thể chia
ra thành hai nhóm. Nhóm thứ nhất bao gồm Luật Sáng chế, Luật Giải pháp
hữu ích (Utility Model Law), Luật Thiết kế, Luật chống cạnh tranh không
lành mạnh và Luật Bản quyền nhằm bảo vệ sự sáng tạo trí tuệ. Luật Nhãn
hiệu và Luật chống cạnh tranh không lành mạnh nhằm giải quyết vấn đề liên
quan tới sự xác lập kinh doanh.
Tuy nhiên những Luật này thƣờng đƣợc sử dụng một cách kết hợp với
nhau. Ví dụ những phát minh sẽ đƣợc bảo hộ dựa trên Luật Bản quyền, thiết
kế dựa trên Luật Thiết kế, bí mật thƣơng mại dựa vào Luật chống cạnh tranh
không lành mạnh, bản quyền dựa vào Luật Bản quyền và nhãn hiệu dựa vào
Luật Nhãn hiệu. Luật Sáng chế đƣợc mở rộng sang cả lĩnh vực phần mềm và
các sản phẩm vô hình khác, tuy nhiên, việc nó liên quan nhƣ thế nào đến Luật
Bản quyền và ứng dụng vào thực tế bắt đầu từ đâu thì cũng không thực sự rõ
ràng.
Cùng với sự sửa đổi gần đây của Luật chống cạnh tranh không lành
mạnh, việc những sáng chế chƣa đƣợc bảo hộ, hoặc những thiết kế và nhãn
hiệu chƣa đăng kí có đƣợc sự bảo hộ là điều có thể xảy ra. Đây đƣợc xem nhƣ
một sự cải tổ hữu ích. Bởi lẽ Luật chống cạnh tranh không lành mạnh đƣa ra
quan điểm cơ bản rằng việc sao chép tác phẩm của ngƣời khác là hành động
sai trái.
Sự thay đổi đang dần đƣợc thực hiện. Những phát minh đƣợc bảo hộ 20
năm kể từ ngày đƣợc công nhận nhƣng bản quyền kéo dài tận 50 năm sau
3
Intellectual Property Law in the 21st century - Hisamitsu Arai
13
ngày tác giả qua đời. Nhƣng câu hỏi liên tục đƣợc đặt ra về sự chênh lệch thời
gian khá dài này. Ngoài ra còn không ít những câu hỏi về vấn đề có sự tƣơng
quan nào không giữa bảo hộ bản quyền cho một công ty phát triển phần mềm
với mục đích sử dụng thƣơng mại và một tác giả của một cuốn tiểu thuyết,
một bức vẽ hay một bức ảnh.
Bởi sự không rõ ràng trong luật gây ra những vấn đề trong thực tế, toàn
bộ hệ thống pháp luật Sở hữu trí tuệ Nhật Bản cần thiết phải đƣợc cơ cấu lại
để đƣợc áp dụng trong thời đại mới.
3) Quy định về chỉ dẫn địa lí bởi các biện pháp điều khiển hành chính
Đƣợc biết đến là những văn bản luật pháp quốc tế về bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ, trong Công ƣớc Paris, Hiệp định TRIPS đều thiết lập những khung
tiêu chuẩn quy định về vấn đề bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp về chỉ dẫn
địa lý. Nhận thức đƣợc tầm quan trọng của chỉ dẫn địa lý, các nƣớc thuộc
Liên minh châu Âu cũng có hẳn một hệ thống bảo hộ đặc biệt đối với chỉ dẫn
địa lý, Hoa Kỳ và Australia cũng tiến hành đăng ký bảo hộ chỉ dẫn địa lý dƣới
hình thức chứng nhận nhãn hiệu trên cơ sở luật Nhãn hiệu. Trung Quốc và
Hàn Quốc cũng đặt ra hệ thống luật bảo hộ chỉ dẫn địa lý rất độc đáo và còn
có một hệ thống chứng nhận nhãn hiệu, nhờ đó để có thể bảo hộ chỉ dẫn địa lý
dƣới cả hai hệ thống luật. Ngay ở Việt Nam, vấn đề bảo hộ chỉ dẫn địa lý
cũng đƣợc quy định rất rõ ràng trong luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam năm 2005
(sửa đổi bổ sung năm 2009) là một trong những đối tƣợng bảo hộ thuộc quyền
sở hữu công nghiệp. Tuy vậy, khái niệm về quyền sở hữu công nghiệp đối với
ngƣời Nhật Bản còn rất hạn hẹp. Họ quan niệm rằng quyền sở hữu công
nghiệp chỉ bao gồm sáng chế, nhãn hiệu và kiểu dáng. Và hệ quả tất yếu là
vấn đề bảo hộ chỉ dẫn địa lý cho đến nay vẫn chỉ là một phạm trù phát triển
dƣới mức cho phép trong hệ thống pháp luật Nhật Bản.
14
Tầm quan trọng của các biện pháp điều khiển hành chính tại Nhật Bản
Tại Nhật Bản, các quy định hành chính thƣờng dùng để giải quyết các
tranh chấp cá nhân, đặc biệt là những điều khoản có liên quan quan đến kinh
doanh. Trong vấn đề bảo hộ chỉ dẫn địa lí, có một số luật đƣợc điều chính bởi
các ban ngành của chính phủ. Ví dụ nhƣ Luật Thƣơng mại Xuất nhập khẩu (
1952) đƣợc ban hành trong phạm vi quyền hạn của Bộ Thƣơng mại và Công
nghiệp Thế giới. Luật này ngăn cấm việc xuất khẩu trái phép và đặc biệt liệt
kê danh sách những hàng hóa xuất khẩu sai về mặt hình thức trong đó bao
gồm sai về chỉ dẫn địa lí.
Bảo hộ chỉ dẫn địa lí thông qua Luật chống độc quyền lũng đoạn
Luật tiếp theo có liên quan đến biện pháp điều khiển hành chính về vấn
đề cạnh tranh không lành mạnh là Luật chống độc quyền Nhật Bản ( 1947),
đặc biệt là những khía cạnh có liên quan đến bảo hộ chỉ dẫn địa lí. Vấn đề này
còn đƣợc nhắc tới trong Luật chống Bảo hiểm bất hợp lí, sự thể hiện và các
vấn đề khác ( sau này chính là Luật Bảo hiểm) ban hành vào năm 1962 và là
một luật cụ thể hóa cho mục số 19 của Luật chống độc quyền.
Tính hiệu quả của Công bằng Thương mại viện
Dƣới hệ thống pháp luật Nhật Bản, sự ảnh hƣởng của Công bằng
Thƣơng mại viện trong các vấn đề có liên quan đến chỉ dẫn địa lí không lành
mạnh trong kinh doanh đang ngày càng gia tăng. Đóng vai trò nhƣ một cơ
quan hành chính đầu ngành, Công bằng Thƣơng mại viện tích cực đƣa ra
những lời khuyến nghị, cảnh báo; song thực tế Viện này chƣa đi sâu vào gốc
rễ vấn đề từ thực tế đạo đức kinh doanh của các công ty Nhật Bản. Hiển nhiên
Công bằng Thƣơng mại viện đóng một vai trò quan trọng, song Nhật Bản cần
phải tìm ra một con đƣờng nhằm thúc đẩy môi trƣờng kinh doanh “ có đạo
15
đức”, tức là phải tìm một giải pháp thay thế những điều mà bản thân doanh
nghiệp kinh doanh còn hiểu chƣa đúng và chƣa đủ thế nào là công bằng và
không công bằng trong hệ thống chủ đạo hiện giờ.
Bảo hộ chỉ dẫn địa lí với vấn đề đăng kí nhãn hiệu thương mại
Tại Nhật, quy định về đăng kí đƣợc áp dụng đối với vấn đề bảo hộ nhãn
hiệu thƣơng mại trong đó chỉ dẫn địa lí là một trong số những yếu tố đƣợc
đƣa ra xem xét bởi Cục Sáng chế để quyết định liệu doanh nghiệp có đƣợc
phép đăng kí nhãn hiệu thƣơng mại hay không.
Bảo hộ chỉ dẫn địa lí trong Điều lệ hải quan về nhập khẩu hàng hóa
Dƣới quy định của Luật Hải quan Nhật Bản, hàng hóa nhập khẩu trực
tiếp hoặc gián tiếp chứa các dấu hiệu chỉ dẫn sai lệch hoặc gây hiểu lầm về
nguồn gốc xuất xứ sẽ không đƣợc phép nhập khẩu vào lãnh thổ nƣớc này.
16
CHƯƠNG 2
Bảo hộ chỉ dẫn địa lý theo pháp luật Nhật Bản
***
Bởi luật pháp Nhật Bản không có hệ thống quy định rõ ràng về bảo hộ
chỉ dẫn địa lý mà chỉ đề cập đến thông qua một số văn bản pháp luật khác, do
đó dàn ý của phần này sẽ không đƣợc phân tích theo quy chuẩn thông thƣờng
nhƣ: đối tƣợng bảo hộ, điều kiện bảo hộ, nội dung quyền Tổng hợp từ một
số bài nghiên cứu, phân tích cấp Nhà nƣớc của các giáo sƣ, tiến sĩ đầu ngành
về luật sở hữu trí tuệ cũng nhƣ của Cục Sở hữu trí tuệ Nhật Bản, nhóm đề tài
sẽ phân tích các khía cạnh trong bảo hộ chỉ dẫn địa lý của Nhật Bản thông qua
luật Chống cạnh tranh không lành mạnh, luật Bảo hiểm, và luật của Hiệp hội
kinh doanh rƣợu, trên cơ sở phân tích nhóm sẽ đƣa thêm các quy định của luật
Việt Nam cũng nhƣ luật quốc tế để so sánh và làm rõ các vấn đề phát sinh
trong các case-study.
1) Bảo hộ chỉ dẫn địa lý thông qua luật Chống cạnh tranh không lành
mạnh
Điều 2 của luật Chống cạnh tranh không lành mạnh ban hành năm 1993
đã đƣa ra một số quy định liên quan đến bảo hộ chỉ dẫn địa lý. “Cạnh tranh
không lành mạnh” đƣợc đề cập trong luật này hƣớng đến những hành vi sau:
hành vi gây nhầm lẫn với hàng hóa hay việc kinh doanh của ngƣời
khác bằng cách sử dụng một dấu hiệu chỉ hàng hóa hay hoạt động kinh doanh
(có nghĩa là tên, tên thƣơng mại, nhãn hiệu, dấu hiệu, hoặc container hoặc bao
bì hàng hóa đƣợc sử dụng gợi liên tƣởng đến hoạt động kinh doanh của ngƣời
khác, hay bất cứ một dấu hiệu nào của hàng hóa hay hoạt động kinh doanh
của đối tƣợng khác) mà tƣơng đƣơng hoặc có thể giống với dấu hiệu hàng hóa
17
hay hoạt động kinh doanh của một đối tƣợng đã quá quen thuộc với ngƣời
tiêu dùng; hoặc hành vi bàn giao, vận chuyển, trƣng bày nhằm mục đích giao
hàng, xuất khẩu, nhập khẩu hoặc cung cấp qua các phƣơng tiện những hàng
hóa sử dụng những dấu hiệu đã đề cập ở trên;
4
Điển hình cho sai phạm này có thể kể tới vụ bánh nhân thịt Kobe. Từ
tháng 4/1989, nguyên đơn là công ty Rockfield đã sản xuất và bán một loại
bánh nhân thịt có tên là “Bánh nhân thịt Kobe”. Loại bánh này đƣợc sản xuất
ở Kobe, một thành phố vốn nổi tiếng với hình ảnh thời thƣợng và văn minh.
Những chiếc bánh này đặc biệt thu hút các phụ nữ trẻ thời đó. Sản phẩm đƣợc
bán tại chính cửa hàng của Rockfield và cũng đƣợc tiêu thụ trực tiếp tại 26
cửa hàng đại lý trên toàn Nhật Bản. Năm 1988, doanh thu bánh nhân thịt của
Rockfield ƣớc tính đạt 200 triệu yên. Tuy nhiên, một thời gian sau đó, một
công ty thực phẩm đông lạnh khác là Katokichi đã đăng trong cuốn catalogue
về sản phẩm mới cho mùa thu một quảng cáo về sản phẩm bánh nhân thịt
đông lạnh cũng với tên gọi “Bánh nhân thịt Kobe”. Tuy nhiên những chiếc
bánh nhân thịt đông lạnh này không đƣợc sản xuất tại Kobe.
Rockfield cho rằng đơn đăng ký nhãn hiệu cho sản phẩm của họ vẫn
đang đƣợc xem xét, vì vậy sản phẩm của Katokichi sẽ gây nhầm lẫn tới khách
hàng, và Katokichi cũng sẽ diễn giải sai về nơi xuất xứ của sản phẩm nếu họ
thực sự bán bánh nhân thịt. Mặt khác, Katokichi thì lại cho rằng dù là bánh
nhân thịt đúng là có thể đƣợc sản xuất ở nơi khác, nhƣng họ chỉ sử dụng hình
ảnh thƣợng lƣu của Kobe để đặt tên cho sản phẩm mà thôi.
4
acts of creating confusion with another person's goods or business by using an indication of goods or
business (which means a name, trade name,trademark, mark, or container or package of goods used in
relation to a person's business, or any other indication of a person's goods or business; the same shall apply
hereinafter) that is identical or similar to said person's indication of goods or business that is well-known
among consumers or other purchasers, or by assigning, delivering, displaying for the purpose of assignment
or delivery, exporting, importing or providing through an electric telecommunication line the goods using
such an indication;
18
Dù Katokichi biện hộ nhƣ thế nào thì rõ ràng việc sử dụng nhãn hiệu
“Bánh nhân thịt Kobe” trong khi sản phẩm lại không hề đƣợc sản xuất ở Kobe
hoàn toàn có thể gây nhầm lẫn về xuất xứ thật của sản phẩm bởi Kobe là dấu
hiệu chỉ nguồn gốc địa lý để cho thấy sản phẩm có nguồn gốc từ Kobe.
hành vi sử dụng mang tính sở hữu cá nhân dấu hiệu hàng hóa hay
kinh doanh giống với dấu hiệu hàng hóa, kinh doanh đã rất nổi tiếng của
ngƣời khác, hoặc hành vi chuyển nhƣợng, vận chuyển, trƣng bày nhằm mục
đích giao hàng, xuất khẩu, nhập khẩu hoặc cung cấp qua các phƣơng tiện
những hàng hóa sử dụng những dấu hiệu đã đề cập ở trên;
5
Có thể lấy ví dụ trƣờng hợp vụ giả mạo nhãn hiệu quýt. Vụ án này, xảy
ra từ năm 1988, đã dính dáng đến rất nhiều nhà buôn giả mạo thƣơng hiệu
quýt nổi tiếng bằng cách đóng gói vào các thùng giấy giống hệt với những
thùng giấy vốn đƣợc sử dụng bởi các nông hộ - đối tƣợng chịu trách nhiệm
phân phối quýt thật. Thiết kế của chiếc thùng đã đƣợc đăng ký bảo hộ theo
luật Kiểu dáng thiết kế.
Các bị cáo trong vụ án này cũng đã đánh cắp hai nhãn hiệu đã đƣợc đăng
ký của một nông hộ khác phân phối một nhãn hiệu quýt cũng rất nổi tiếng.
Các nhãn hiệu sao chép đã đƣợc in trên các thùng giấy giả. Thực chất, sản
phẩm quýt thật có nguồn gốc từ hai khu vực rất đặc biệt của Nhật Bản, và nổi
tiếng bởi vị ngọt tự nhiên. Quýt giả là những sản phẩm kém chất lƣợng có
xuất xứ từ những khu vực khác ở Nhật Bản. Trong suốt hơn ba năm, hơn
200.000 thùng cam giả đã đƣợc tiêu thụ ở nhiều quận tại Nhật Bản thông qua
một đƣờng dây phân phối độc lập, không hề liên quan tới bất cứ hợp tác xã
nào, cũng bởi vậy nên việc tiêu thụ quýt giả mới đƣợc che đậy trong suốt ba
năm.
5
acts of using as one‟s own an indication of goods or business that is identical or similar to another person's
famous indication of goods or business, or the act of assigning, delivering, displaying for the purpose of
assignment or delivery, exporting, importing or providing through an electric telecommunication line the
goods using such an indication;
19
Phía cảnh sát điều tra vụ việc cho biết những ngƣời bán khác trên thị
trƣờng hẳn biết rất rõ việc lƣu thông của quýt giả. Những bị cáo đã bị khởi tố
vì xâm phạm luật Kiểu dáng thiết kế, luật Nhãn hiệu và luật Chống cạnh tranh
không lành mạnh.
Hành vi trên chính là việc sử dụng dấu hiệu hàng hóa hay kinh doanh
giống với dấu hiệu hàng hóa, kinh doanh đã rất nổi tiếng của ngƣời khác (kiểu
dáng thiết kế trên chiếc thùng đựng quýt) gây nhầm lẫn về xuất xứ thật của
hàng hóa.
hành vi giao hàng, cho thuê, trƣng bày nhằm mục đích giao hàng, cho
thuê, xuất khẩu hoặc nhập khẩu những hàng hóa bắt chƣớc tính năng (ngoại
trừ tính năng thực sự cần thiết để đảm bảo sự vận hành của hàng hóa đã nêu)
của hàng hóa của đối tƣợng khác;
6
hành vi chiếm đoạt quyền sử dụng tên miền tƣơng đƣơng hoặc có thể
giống với chỉ dẫn cụ thể của hàng hóa hoặc dịch vụ (ở đây là tên, tên thƣơng
mại, nhãn hiệu, dấu hiệu hay bất cứ dấu hiệu nào khác của hàng hóa, dịch vụ),
hoặc hành vi sử dụng những tên miền nhƣ đã đề cập nhằm mục đích buôn bán
trái phép hay cố tình gây tổn hại tới ngƣời khác;
7
hành vi diễn giải sai thông tin xuất hiện trên hàng hóa, dịch vụ, hoặc
trong một quảng cáo, văn bản đƣợc sử dụng nhằm mục đích giao dịch, theo
cách mà có thể gây nhầm lẫn về nguồn gốc xuất xứ, chất lƣợng, nội dung, quy
trình sản xuất, mục đích sử dụng hay số lƣợng của những hàng hóa, dịch vụ
đó; hoặc hành vi chuyển nhƣợng, giao hàng, trƣng bày nhằm mục đích giao
6
acts of assigning, leasing, displaying (iii) for the purpose of assignment or leasing, exporting or importing
goods which imitate the configuration (excluding configuration that is indispensable for ensuring the function
of said goods) of another person‟s goods;
7
acts of acquiring or holding a right to use a domain name(s) that is identical or similar to another person‟s
specific indication of goods or services (which means a name, trade name, trademark, mark, or any other
indication of a person‟s goods or services), or the acts of using any such domain name(s), for the purpose of
acquiring an illicit gain or causing injury to another person;
20
hàng, xuất khẩu, nhập khẩu hay cung cấp thông qua đƣờng dây thông tin liên
lạc những hàng hóa, dịch vụ với chỉ dẫn nhƣ trên;
8
Việc diễn giải sai thông tin về xuất xứ hàng hóa để nhằm mục đích kiếm
lợi nhuận khi giao dịch có thể gây những thiệt hại rất lớn. Xin đƣợc trích dẫn
vụ việc của doanh nghiệp Toto Industries. Các nhà sản xuất phụ tùng ở Tokyo
nhập khẩu các bộ phận máy từ công ty liên doanh tại Hàn Quốc, sau đó đóng
gói lại và đóng dấu “Made in Japan” trƣớc khi xuất khẩu tới thị trƣờng châu Á
và Trung Đông. Trong suốt hơn hai năm rƣỡi, Toto Industries – các bị cáo –
đã xuất khẩu trung bình từ 35.000 đến 40.000 bộ phận mỗi tháng, những bộ
phận này khi mua lại từ Hàn Quốc chỉ có mức giá 2000 yên/bộ phận nhƣng
khi xuất khẩu thì lại lên tới 3000 yên/bộ phận. Tổng giá trị hàng xuất khẩu
ƣớc tính cũng phải ít nhất đạt 1 tỷ yên.
Hành vi phạm pháp của các bị cáo đã bị Tổng cục Hải quan vạch trần, và
theo luật Hải quan Nhật Bản, bên xuất khẩu phải cam kết ghi chú lại nguồn
gốc xuất xứ của hàng hóa xuất khẩu. Hành vi lừa đảo của Toto Industries đã
hoàn toàn che mắt đƣợc mọi ngƣời khi có đƣợc giấy chứng nhận của Phòng
Thƣơng mại Tokyo rằng hàng hóa đƣợc sản xuất ở Nhật Bản. Rất nhiều nƣớc
nhập khẩu vốn cho rằng hàng hóa có xuất xứ từ Nhật Bản đã bày tỏ sự phẫn
nộ vì họ đã đặt 100% niềm tin vào sự trung thực của các doanh nghiệp Nhật
Bản. Tuy vậy, ban điều hành của công ty, dù có thừa nhận hành vi phạm pháp
vẫn cho rằng “ai làm kinh doanh cũng sẽ làm điều tƣơng tự”. Không chỉ có
vậy, giám đốc công ty cho biết ngay khi hàng hóa có mặt tại Nhật Bản, nhãn
hiệu “Made in Japan” sẽ lập tức đƣợc gắn lên hàng hóa.
8
acts of misrepresenting information on goods or services, or in an advertisement thereof or in a document or
correspondence used for a transaction related thereto, in a manner that is likely to mislead the public as to the
place of origin, quality, contents, manufacturing process, use or quantity of such goods, or the quality,
contents, purpose or quantity of such services, or the act of assigning, delivering, displaying for the purpose
of assignment or delivery, exporting, importing or providing through an electric telecommunication line,
goods with such an indication or providing services with such an indication;
21
Có thể thấy hành vi của Toto Industries đã xâm phạm nghiêm trọng tới
vấn đề bảo hộ chỉ dẫn địa lý. Không chỉ phía doanh nghiệp đối tác bên Hàn
Quốc bị thiệt hại khi hàng hóa do mình sản xuất lại đƣợc tiêu thụ công khai
với nguồn gốc không chính xác, mà ngay chính các khách hàng mua sản
phẩm trên cũng đã bị lừa gạt về xuất xứ thật của sản phẩm.
Vấn đề bảo hộ chỉ dẫn địa lý chỉ đƣợc đề cập ở một số khía cạnh trong
luật Chống cạnh tranh không lành mạnh. Tuy đƣợc ban hành từ năm 1934
nhƣng thực sự luật Chống cạnh tranh không lành mạnh vẫn chƣa phát huy hết
tính hiệu quả, và trong luật vẫn tồn tại những kẽ hở để doanh nghiệp có thể lợi
dụng để lách luật.
2) Bảo hộ chỉ dẫn địa lý thông qua luật Bảo hiểm
Là một bộ luật đặc biệt đƣợc ban hành vào năm 1962 theo phần 19 của
luật Chống độc quyền lũng đoạn (1947), luật Bảo hiểm hàm chứa khá nhiều
điều khoản liên quan đến vấn đề bảo hộ chỉ dẫn địa lý tại Nhật Bản. Thực
hiện theo Điều 4 khoản 3 đƣợc quy định tại luật này, năm 1973, Công bằng
Thƣơng mại viện – nơi trực tiếp điều chỉnh các thông tƣ – đã ban hành hiệu
lực chỉ thị đề cập đến hành vi diễn giải sai nguồn gốc xuất xứ của hàng hóa.
Theo đó bất cứ doanh nghiệp nào vi phạm vào một trong những điều khoản
của chỉ thị này sẽ buộc phải ngừng hoạt động và có nguy cơ phải đóng cửa.
Chỉ thị nêu rõ:
sự diễn giải, chú thích đƣợc liệt kê ở từng mục dƣới đây, nếu áp dụng
cho hàng hóa sản xuất nội địa, đƣợc xem là gây khó khăn cho ngƣời tiêu dùng
trong việc nhận biết hàng hóa là sản xuất nội địa
_ sự diễn giải, chú thích bao gồm tên của một quốc gia nƣớc ngoài, tên
của một địa danh quốc gia nƣớc ngoài, quốc kỳ hoặc quốc huy của một
quốc gia nƣớc ngoài, hoặc bất cứ sự diễn giải, chú thích nào tƣơng
đƣơng hoặc có thể giống
22
_ sự diễn giải, chú thích bao gồm tên hoặc nhãn hiệu của bất kỳ doanh
nhân hay nhà thiết kế nƣớc ngoài nào
_ sự diễn giải, chú thích mà ở tất cả hoặc một phần chủ đạo của phần
mô tả bằng lời văn đƣợc viết bằng kí tự nƣớc ngoài
sự diễn giải, chú thích đƣợc liệt kê ở từng mục dƣới đây, nếu áp dụng
cho hàng hóa sản xuất ở nƣớc ngoài, đƣợc xem là gây khó khăn cho ngƣời
tiêu dùng trong việc nhận biết hàng hóa đƣợc sản xuất tại nƣớc ngoài
_ sự diễn giải, chú thích bao gồm tên quốc gia, tên của một địa danh
thuộc quốc gia, quốc kỳ hoặc quốc huy của quốc gia mà không phải là
quốc gia xuất xứ của hàng hóa, hay bất cứ sự diễn giải nào tƣơng
đƣơng hoặc có thể giống
_ sự diễn giải, chú thích bao gồm tên hoặc nhãn hiệu của bất cứ doanh
nhân hoặc nhà thiết kế ở quốc gia mà không phải là nƣớc xuất xứ của
hàng hóa
_ sự diễn giải, chú thích mà tất cả hoặc một phần chủ đạo ở phần mô tả
bằng lời văn đƣợc viết bằng kí tự Nhật Bản
Chỉ thị trên cũng đƣa ra một số chú thích nhỏ nhƣ sau:
thuật ngữ “nguồn gốc xuất xứ của hàng hóa” hàm ý chỉ quốc gia mà
tại đó diễn ra quá trình ảnh hƣởng đến sự thay đổi thiết yếu của bản chất hàng
hóa
trong những trƣờng hợp mà việc chỉ dẫn địa điểm xuất xứ của hàng
hóa bằng tên quốc gia là không phù hợp, lí do thƣờng là tên địa danh của quốc
gia đó đƣợc biết đến nhiều hơn tên của quốc gia đó, nơi xuất xứ sẽ coi là quốc
gia xuất xứ của hàng hóa
23
3) Bảo hộ chỉ dẫn địa lý thông qua luật của Hiệp hội kinh doanh rượu
Theo khổ 1 điều 86.6 của luật Thuế rƣợu, “Tiêu chuẩn chỉ dẫn về chỉ
dẫn địa lý” đã đƣợc thiết lập nhằm giải quyết một số sai phạm về bảo hộ chỉ
dẫn địa lý.
Đối tƣợng bảo hộ
Chỉ dẫn địa lý là chỉ dẫn về rƣợu vang và rƣợu mạnh (sẽ đƣợc định nghĩa
cụ thể dƣới đây), bắt nguồn từ lãnh thổ của một thành viên thuộc Tổ chức
Thƣơng mại Thế giới WTO, hoặc từ một khu vực hay địa phƣơng thuộc lãnh
thổ đó, có chất lƣợng, uy tín hoặc những đặc tính nhất định chủ yếu do xuất
xứ địa lý quyết định
9
.
Khái niệm “Rƣợu vang” đƣợc định nghĩa trong khổ 8 điều 3 của luật
Thuế rƣợu
10
. “Rƣợu mạnh” gồm có rƣợu Shochu, rƣợu Whiskey, rƣợu
Brandy, và những loại rƣợu mạnh trong số những loại đồ uống có nồng độ
cồn mạnh cũng đƣợc đề cập rõ ở khổ 5, 9, 10 điều 3 luật Thuế rƣợu (Liquor
Tax Law)
11
.
9
“Geographical indications” mean indications which identify a liquor as originating in the territory of a
member of the World Trade Organization, or a region or locality in that territory, where a given quality,
reputation or other characteristic of the liquor is essentially attributable to its geographical origin.
10
(a) Liquors produced in whole or in part from malted cereals or fruit (including dried fruit or boiled-down
or concentrated must, but excluding dates or other fruit as stipulated in government ordinances. The same
shall apply hereafter).
(b) Liquors produced by filtering it through white birch charcoal or other substances specified in government
ordinances.
(c) Liquors produced in whole or in part from saccharized substances (e.g: molasses, sugar, syrup and honey;
excluding sugar as defined by government ordinances) and by the distillation at less than 95% vol.
(d) Liquors produced by flavouring alcohol by way of steeping ingredients of other substances during
distillation.
11
„Shochu‟ shall mean liquors produced by the distillation of alcohol containing substances. Included in this
definition are those produced by adding water, sugar or other substances stipulated in government ordinances
to the abovementioned
24
Nhƣ vậy đối tƣợng đƣợc bảo hộ chỉ dẫn địa lý ở đây là rƣợu vang và
rƣợu mạnh đã đƣợc quy định rất cụ thể trong điều 3 luật Thuế rƣợu. Đối với
luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam năm 2005, đối tƣợng bảo hộ không đƣợc quy
định cụ thể là những loại hàng hóa nào, nhƣng Điều 80 đã chỉ rõ những đối
tƣợng không đƣợc bảo hộ với danh nghĩa chỉ dẫn địa lý. Theo đó các đối
tƣợng sau đây không đƣợc bảo hộ với danh nghĩa chỉ dẫn địa lý:
tên gọi, chỉ dẫn đã trở thành tên gọi chung của hàng hoá ở Việt Nam
chỉ dẫn địa lý của nƣớc ngoài mà tại nƣớc đó chỉ dẫn địa lý không
đƣợc bảo hộ, đã bị chấm dứt bảo hộ hoặc không còn đƣợc sử dụng
chỉ dẫn địa lý trùng hoặc tƣơng tự với một nhãn hiệu đang đƣợc bảo
hộ, nếu việc sử dụng chỉ dẫn địa lý đó đƣợc thực hiện thì sẽ gây nhầm lẫn về
nguồn gốc của sản phẩm
chỉ dẫn địa lý gây hiểu sai lệch cho ngƣời tiêu dùng về nguồn gốc địa
lý thực của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý đó
Điều kiện bảo hộ
Nếu chỉ dẫn địa lý của các loại rƣợu vang hoặc rƣợu mạnh sản xuất tại
Nhật Bản hoặc các nƣớc thành viên WTO đã đƣợc chứng nhận bởi Tổng cục
Thuế, đƣợc sử dụng cho những loại rƣợu vang hoặc rƣợu mạnh không bắt
nguồn từ lãnh thổ tƣơng ứng với chỉ dẫn địa lý đó, thì chỉ dẫn địa lý trên sẽ bị
ngăn cấm sử dụng ở chính các quốc gia đó. Khẳng định trên sẽ đƣợc áp dụng
kể cả khi chỉ dẫn về xuất xứ thật của rƣợu vang hoặc rƣợu mạnh đƣợc nêu,
hoặc chỉ dẫn địa lý đƣợc sử dụng dƣới dạng dịch hoặc đƣợc sử dụng kèm theo
liquors. They must have an alcoholic strength of 45% vol or less. The liquor must be less than 36% vol in
case distilled by a „continuous still‟, the definition of which is as follows: a machine that removes fusel oil,
aldehyde and other impurities during the process of continuous distillation. The definition of the type of
sugar which can be added is given by government
ordinances. In case produced by adding substances other than water, the extract of the product ought to be
less than 2g/100 ml.
25
các từ nhƣ “loại”, “kiểu”, “dạng”, “phỏng theo” hoặc những từ tƣơng tự nhƣ
vậy.
Có thể thấy quy định về bảo hộ chỉ dẫn địa lý đối với rƣợu vang và rƣợu
mạnh của Nhật Bản ảnh hƣởng khá nhiều từ Điều 23 của Hiệp định TRIPS:
“Mỗi Thành viên phải quy định những biện pháp pháp lý để các bên liên quan
ngăn ngừa việc sử dụng một chỉ dẫn địa lý của các rượu vang cho những loại
rượu vang không bắt nguồn từ lãnh thổ tương ứng với chỉ dẫn địa lý đó hoặc
sử dụng chỉ dẫn địa lý của rượu mạnh cho những loại rượu mạnh không bắt
nguồn từ lãnh thổ tương ứng với chỉ dẫn địa lý đó, kể cả trường hợp có nêu
chỉ dẫn về xuất xứ thật của hàng hoá hoặc chỉ dẫn địa lý được sử dụng dưới
dạng dịch hoặc được sử dụng kèm theo các từ như "loại", "kiểu", "dạng",
"phỏng theo" hoặc những từ tương tự như vậy.”
Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam cũng quy định chỉ dẫn địa lý chỉ đƣợc bảo
hộ nếu đáp ứng hai điều kiện:
sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý có nguồn gốc địa lý từ khu vực, địa
phƣơng, vùng lãnh thổ hoặc nƣớc tƣơng ứng với chỉ dẫn địa lý
sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý có danh tiếng, chất lƣợng hoặc nƣớc
tƣơng ứng với chỉ dẫn địa lý đó quyết định
Ở cả hai điều luật đều đề cập đến sản phẩm “có nguồn gốc từ khu vực,
địa phƣơng, vùng lãnh thổ hoặc nƣớc tƣơng ứng với chỉ dẫn địa lý”. Vậy nên
hiểu cụm từ này nhƣ thế nào? Một sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý có nguồn
gốc địa lý từ khu vực, địa phƣơng, vùng lãnh thổ hoặc nƣớc tƣơng ứng nếu
sản phẩm đó đƣợc sản xuất từ khu vực, địa phƣơng, vùng lãnh thổ hoặc nƣớc
đó. Tức là tất cả các khâu tạo nên sản phẩm đều đƣợc thực hiện tại nơi mà sản
phẩm mang chỉ dẫn địa lý. Bởi đối tƣợng bảo hộ trong luật Việt Nam có phạm
vi rộng hơn nên còn có thể xác định nguồn gốc của hàng hóa theo hai trƣờng
hợp: