Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

LỊCH SỬ CÁC NHÀ GA CỦA ĐƯỜNG SẮT VIỆT NAMGa Yên ViênTheo cuốn sách viết pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.21 KB, 5 trang )

LỊCH SỬ CÁC NHÀ GA CỦA ĐƯỜNG SẮT VIỆT
NAM


Ga Yên Viên



Theo cuốn sách viết về truyền thống của ga Yên Viên, hiện tại chưa có căn cứ để
khẳng định Ga Yên Viên được thành lập từ ngày tháng năm nào, nhưng được biết
đoạn đường sắt Hà Nội - Gia Lâm được đưa vào khai thác cùng với việc hoàn
thành và thông xe cầu Long Biên (Doumer) vào tháng 2-1902. Tiếp đó đoạn Gia
Lâm - Yên Viên được đưa vào khai thác cùng với đoạn Hà Nội - Việt Trì vào
tháng 3-1903. Như vậy, ga Yên Viên đã được xây dựng và đi vào hoạt động từ
tháng 3-1903, đến nay, đã tồn tại trên 100 năm tuổi.

Ga Yên Viên xưa được xây dựng trên đất thuộc tổng Yên Viên, phủ Từ Sơn, tỉnh
Bắc Ninh. Đây là một trong tổng cộng “7 ga chính, 27 ga xép và 12 điểm dừng”
của tuyến ĐS Hà Nội - Lào Cai dài 296 km. Ga Yên Viên nằm song song bên
quốc lộ 1A về phía tây với chiều dài gần 3 km. Giáp cột hiệu phía nam là cầu
Đuống, phía Bắc giáp với địa phận Từ Sơn thuộc tỉnh Bắc Ninh. Ga nằm giữa
nhiều nhà máy xí nghiệp, kho tàng quan trọng như Tổng kho A, kho vật tư ngành
in, kho vật tư điện, kho vật tư địa chất, các nhà máy ôxy, cơ khí ĐK, diêm gỗ, thiết
bị bưu điện, cơ khí địa chất, thiết bị đường dây và trạm, gạch ngói cầu Đuống
Quốc lộ 1A chạy theo hướng nam - bắc và quốc lộ 3 chạy theo hướng đông - tây
tạo nên một tam giác, đặt Ga Yên Viên vào giữa, có vị trí hết sức quan trọng là
cửa ngõ phía Bắc của thủ đô Hà Nội, lại là đầu mối bốn tuyến ĐS nối liền các
vùng miền, thành phố lớn nhất của miền bắc là Hà Nội, Hải Phòng, Lào Cai, Thái
Nguyên.

Ga Yên Viên có vị trí rất quan trọng cả về kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng


cho nên trong điều kiện chiến tranh hay hòa bình cũng được sự quan tâm của Đảng
và Nhà nước. Cùng với toàn ngành, nhiều thế hệ cán bộ, công nhân ga Yên Viên
đã nối tiếp nhau vượt qua biết bao gian khổ hiểm nguy viết nên những trang sử
hào hùng.

Trong một tương lai không xa, ga Yên Viên sẽ được nâng cấp trở thành một trong
những nhà ga đầu mối của tuyến đường sắt trên cao Yên Viên - Ngọc Hồi. Theo
báo cáo tiền khả thi dự án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt sẽ triển khai
vào năm 2005, tuyến đường sắt trên cao dài 24,6 km, xuất phát từ ga Hà Nội đi
trên cao theo tim đường sắt hiện nay, qua sông Hồng và tiếp đất trước ga Gia Lâm.
Sau đó, sẽ đi trên cầu cạn qua sông Đuống và dừng ở ga Yên Viên.

Cũng nằm trong một dự án tiềm năng khác, dự án xây dựng tuyến đường sắt Yên
Viên - Phả Lại - Hạ Long - Cái Lân cũng mở ra cho ga Yên Viên những vận hội
mới. Đoạn đường sắt từ ga Yên Viên đến cảng Cái Lân là đoạn đường sắt quan
trọng, nối liền các tỉnh miền núi giáp Tây Nam Trung Quốc với thủ đô Hà Nội và
các tỉnh đồng bằng phía Bắc sông Hồng tới miền duyên hải Đông Bắc - nơi có nền
công nghiệp đang phát triển mạnh và có cảng Cái Lân (cảng nước sâu vào loại lớn
nhất miền Bắc).
Việc nối thông đường sắt từ Yên Viên - Phả Lại - Hạ Long với cảng Cái Lân mang
lại hiệu qủa thiết thực cho vận tải đường sắt trên toàn tuyến, đặc biệt là vận tải
hàng hóa từ cảng nước sâu đến vùng kinh tế phía Tây: Yên Bái - Lào Cai và vùng
Vân Nam, Trung Quốc. Đó sẽ là những cơ hội thuận lợi để ga Yên Viên ngày càng
phát triển, trở thành một trong những ga lớn của đường sắt Việt Nam.
Ga Cẩm Giàng
Tôi sinh ra ở Ga Cẩm Giàng. Đó là một ga cách Hà Nội tròn 40 cây số và Hải
Phòng 60 cây số. Suốt thời thơ ấu, tôi gắn bó với thị trấn và nhà ga đó nên có khá
nhiều kỷ niệm về nó và ngành đường sắt. Nhà tôi ở chỉ cách đường sắt khoảng ba
mươi thước. Ngôi trường Kiêm bị tôi học đến lớp Nhất cũng nằm kề ngay trên
đường sắt và đi qua cổng nhà văn Thạch Lam, Nhất Linh. Thời ấy đồng hồ còn rất

hiếm, thầy giáo tôi có chiếc đồng hồ quả quýt, thầy hay sai tôi đi bộ từ trường ra
nhà ga xem giờ để thầy lên giây và lấy lại giờ. Tôi không hiểu tại sao thầy tính
đúng giờ, trừ đi đoạn đường tôi đi và về. Mà đồng hồ nhà ga có chữ số La Mã sao
mà chính xác làm vậy. Không cứ thầy giáo mà dân quanh vùng thường lấy tiếng
còi tàu, tiếng bánh tàu lăn kình kình làm giờ sinh hoạt. Nhiều bà mệ nói: Thổi cơm
đi con, tàu Phòng xuống rồi kia kìa. Hoặc tàu ngược rồi, sao chưa thấy bố nó về
nhỉ Cả ông lão trên chiếc vó bè cũ kỹ bên con sông đào cũng lấy giờ tàu làm cữ
cho việc ra sông, hoặc bơi chiếc thuyền thúng ra chiếc vó, nghiêng cái giỏ lấy ít
tôm cá sai con vào chợ thị trấn bán cho bữa chiều.

Không ai gọi là Hà Nội, Hải Phòng mà chỉ gọi tắt là tàu lên hoặc tàu xuống. Có
khi gọi là tàu Phòng hoặc tàu ngược

Nhà ga là một dãy nhà dài, bao giờ cũng quét vôi màu vàng như thể quy định từ
nghìn năm trước. Có 6 gian thì hai gian cho ông sếp ga, hai gian cho hai ông ký
ga, một gian làm phòng đợi tàu gọi là san đát tăng (tiếng Pháp, nhưng ai cũng gọi
thế thành quen, không ai nghĩ nó là tiếng Pháp nữa). Gian đợi tàu không kê tí đồ
đạc nào, ngoại trừ một cái cân bàn to tướng để cân hàng, kể cả con lợn bị trói, lồng
gà hay bao gạo. Khách cần đợi tàu thì tìm góc tường ngả lưng mà đợi, bao giờ có
còi tàu từ xa vang lại thì ùa nhau qua cửa, ông ký ga có cái kìm bấm tách một cái,
rơi ra một hạt tròn tròn từ tấm vé. Một gian phòng nữa là văn phòng, đồ đạc lủng
củng, bao nhiêu là bàn ghế, tủ đựng vé, tủ đựng tiền, tủ đựng đèn xanh đỏ, cờ xanh
đỏ, và có một cái bàn máy, luôn có tiếng tạch tè, đó là chỗ ông ký ga nói chuyện
với ga phía trên và ga phía dưới mà không hề có dây nói a-lô bao giờ (cho đến
Cách mạng Tháng 8). Máy gõ bằng tay, có người gọi là “ma níp”, và được ghi vào
cuộn giấy khổ nhỏ chỉ bằng ngón tay, nhưng cuộn vào bánh xe, nó dài, dài như
ước muốn của bọn trẻ chúng tôi mong có một cuộn mà làm đuôi diều, nhưng
không bao giờ có được

Ngoài ngôi nhà 6 gian ấy còn vài gian phụ ở cách xa, là nhà của hai ông già gác

ghi, luôn mặc quần áo xanh, cũng chỉ quét vôi vàng và núp dưới bóng mát cây
bàng cổ thụ. Mấy ông này có mấy người con gái rất đẹp, mà tôi hay đi theo vì các
anh lớn tuổi thường sai bọn “nhóc” chúng tôi đưa những lá thư tình, thư nói gì
không biết, nhưng các chị nhận được thư thế nào cũng ôm lấy tôi và hôn chùn
chụt, cứ như tôi là người viết thư, và hương bồ kết, hương nhu, hoa ngọc lan làm
tôi về còn vui thích mãi

Nếu nhà ông gác ghi dễ vào bao nhiêu thì nhà ông xếp ga khó đến gần bấy nhiêu.
Có một cái gì rất cách biệt giữa dân phố ga (nơi có gia đình tôi) và các ông ấy. Lúc
nào ông cũng quần áo vàng, đi giày tây oai vệ, tay cầm chiếc còi có sức mạnh phi
thường, bắt con tàu đỗ lại hoặc cho phép con tàu chuyển bánh. Những chiếc đầu
tàu không biết bao nhiêu tuổi, bao giờ cũng màu đen, tỏa khói, “nồi súp de” hơi
nhỏ, nên ống khói khá dài. Gần tháng 8 năm 1945 mới xuất hiện loại đầu tàu to,
gọi là đầu tàu Quảng Sĩ, ống khói thấp, còi vang to hơn, hai bên đầu tàu có hai tấm
lá chắn vừa to vừa chắc, nhưng cái đói năm ất Dậu, những người đi buôn gạo, bất
chấp lá chắn ra sao, cứ quăng bừa các đó gạo, bao gạo lên thành đoàn tàu, mặc kệ
cái lá chắn, mặc kệ cả toa chở than chở nước gọi là “Tăng đe”. Gạo đi Hà Nội, Hải
Phòng Trong khi Ga Cẩm Giàng ngày nào cũng có người chết đói ở phòng đợi, ở
sân ga, ở cửa mấy hiệu tạp hóa Hoa kiều mà chính mấy ông gác ghi phải đem họ
đi chôn ngoài nghĩa địa thị trấn.

Nhưng con tàu vẫn đi và về rất đúng giờ. Tôi cũng không hiểu Hà Nội ở đâu, Hải
Phòng là đâu, chỉ biết nghe tiếng còi tàu và ngóng theo từng chuyến tàu đi, khuất
vào chỗ đường vòng, cái đĩa màu đỏ ở toa cuối cùng dần khuất hẳn. Những lúc có
con tàu đi qua cửa trường, thầy giáo tôi bao giờ cũng ngừng giảng bài, ngóng qua
cửa sổ nhìn theo đoàn tàu khuất bóng, cứ như nó mang theo đi của thầy một cái gì
đó đầy luyến tiếc không thể không ngóng theo, không thể lạnh lùng vô cảm Sau
này lớn lên tôi mới hiểu rằng đời sống các thầy giáo ở một thị trấn hẻo lánh cũng
không vui vẻ gì, và đoàn tàu đi, đi về một nơi nào đó, cũng là một phần mơ ước
đổi thay của các thầy, vì thế mà sau tháng Tám, có thầy đã đi theo cách mạng, có

thầy thành phụ trách thiếu niên, tôi cũng có mặt trong đội thiếu nhi ấy, thầy cho
phép gọi thầy bằng anh: Anh đồng chí.

Những năm đó chưa hề xuất hiện đầu tàu diezel cũng như taxi. Ga Cẩm Giàng có
một loạt xe tay kéo, luôn đỗ thành dãy ở sân ga. Dân Hà Nội nhiều người giàu có,
làm nghề buồn bán vàng bạc, người vùng Châu Khê, Kẻ Sặt, Thanh Miện, Phù
ủng, mỗi lần về thăm quê thường phải xuống Ga Cẩm Giàng. Thuận tiện nhất là
ngồi xe tay kéo đi tiếp về quê với khoảng cách một vài chục cây số, không nhanh
lắm nhưng rẻ tiền và bình dân. Cũng có thời có xe ô tô chạy bằng than, phía trước
có cái bảng viết chữ G to tướng, nghĩa là ô tô chạy bằng Gazôzen, và sau đó có vài
cái xe ngựa bánh lốp ô tô. Nhưng hình như có chuyện đánh nhau lộn xộn, rồi các
loại xe mất hẳn, chỉ còn xe tay kéo, nghe đồn là những người kéo xe phản đối vì
họ bị cướp mất miếng cơm, mà nhà ga thì không thể can thiệp.

Thi thoảng có toa tàu “cháy bánh” phải cắt lại để sửa chữa, nó nằm ở đường sắt
nhánh phụ. Đó là những ngày thần tiên của bọ trẻ chúng tôi ở xóm ga. Tha hồ lên
đấy mà chơi, mà ngồi vào hai hàng ghế dọc theo toa, mà tưởng tượng mình đang
đi Hà Nội hoặc Hải Phòng, tiếng đầu máy và còi tàu vang lên từ miệng chúng tôi,
chân thì giậm xuống sàn làm tiếng kình kình của bánh tàu chạy qua chỗ nối hai
thanh ray Cũng lạ, những hôm ấy, ông xếp ga cấm bọn tôi qua cửa ga vào đường
“ke” cũng như cấm luôn bạn bè tôi phải đi bán hàng cho khách đi tàu từ tấm mía,
túm nhãn, cốc nước vối, khuôn xôi nén, mớ lạc luộc v.v

Ga Cẩm Giàng còn có một két nước khá cao, là nơi cung cấp nước cho đầu tàu,
bơm lên bằng máy bơm to của Pháp mang sang, sản xuất từ thế kỷ XVIII, nó kêu
kình kình suốt đêm như tiếng ma (bọn trẻ chúng tôi tin rằng chính là ma kêu). Két
nước này đã thành kỷ niệm gần nửa thế kỷ của Cẩm Giàng, vượt qua cả thời chống
Mỹ, đến khoảng giữa năm bảy mươi nó mới bị ngành đường sắt phá đi mà dân
Cẩm Giàng còn tiếc mãi.


Thấm thoát đã 60 năm trôi qua, từ năm đói ất Dậu, năm 2005 này lại trở về ất Dậu,
tròn một Hoa Giáp. Tôi xa Ga Cẩm Giàng từ thuở ấy, nhưng hình ảnh một nhà ga,
có chỗ đường sắt cong cong, con tàu vào ga phải qua một cây cầu sắt nó kêu lên,
nó rên rỉ, và không hiểu vì sao nó chỉ được lát phẳng một nửa mặt cầu, còn nửa kia
chỉ có tà vẹt và đường ray, nên không ai dám bước qua, sợ lọt chân xuống dòng
sông quanh năm lờ lững bèo tây bèo ta và mấy chiếc vó bè trong cô liêu lặng lẽ

Lớn lên, tôi đã đi khá nhiều nơi, theo khắp 5 ngả đường sắt trên toàn đất nước. Có
độ dốc cao, có đường dài, có vực sâu, có những nhà ga đồ sộ như Ga Hà Nội, Ga
Đà Nẵng, Ga Huế, Ga Sài Gòn và các ga vùng biên giới Con tàu cũng đã thay
đổi từ đầu máy đến toa xe, từ ông sếp ga đến cô nhân viên soát vé mặc đồng phục,
đội mũ kê-pi Nhưng không hiểu sao, tôi vẫn nhớ như in hình ảnh Ga Cẩm Giàng
nhỏ bé một thời, phòng đợi tàu nhỏ hẹp, văn phòng có chiếc máy bấm vé kêu lên
“cậm cành” như một tiếng chim, một loài chim gì tôi không biết, và những con
người sống bám vào nhà ga từ người gác ghi, người phu bơm nước đến những bác
những chị buôn bán nhì nhằng quà bánh, đuổi theo từng chuyến tàu để bán cho
khách ngồi trong toa

Năm 1945, tháng ba, Nhật đảo chính Pháp, tàu ngừng hoạt động mấy ngày. Người
dân phố ga ngơ ngác không biết sống bằng gì. May sao tàu lại chạy và tiếng còi
tàu lại làm đồng hồ cho nhiều sinh hoạt một vùng

Ngày nay, nhiều khách đi tàu, mỗi lần tàu qua Ga Cẩm Giàng, lại ngó qua cửa sổ,
tìm ngôi nhà giữa một trang trại gần ga, đó là gia đình bà cụ Thông Nhu - nhà của
mấy anh em nhà văn Nhất Linh, Hoàng Đạo và được yêu mến nhất là Thạch Lam.
Nay quãng ấy chỉ còn là một kho lương thực của huyện Cẩm Giàng và con tàu
ngược con tàu xuôi vẫn làm cho thị trấn này đỡ bao nhiêu vắng vẻ tịch liêu. Tiếng
còi tàu ồn ã lên giây lát. Nhịp bánh xe và hình ảnh những toa tàu nối vào nhau đi
theo sự chỉ dẫn của làn khói con tàu bay ngược cũng làm cho thị trấn có thêm
sinh khí Chỉ không hiểu những người rời khỏi Cẩm Giàng ra đi như tôi và những

con tàu xuôi ngược qua Cẩm Giàng cách đây 60 năm, có ai còn nhớ, có con tàu
nào còn trở lại?

Mùa xuân thì năm nào cũng trở lại. Nhưng con tàu thì ai mà biết được, kể cả màu
vôi vàng của tường ga, những thanh ray nằm trong sương nắng trước mặt nhà ga

Có lẽ rồi tôi phải về thăm. Ga cũ ngày xưa ơi, xin đợi!





×