Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Bệnh tự kỷ đang "tấn công" trẻ pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.91 KB, 18 trang )

Bệnh tự kỷ đang "tấn công" trẻ
Tôi có dịp đi "khảo sát" một số trường mẫu giáo và
nhà trẻ tư nhân. Tại hầu hết nhà trẻ có khi rất nhỏ, chỉ
trông nom 5,7 cháu cũng thấy một cháu ngồi lủi thủi
một mình, cái nhìn đờ đẫn, vô cảm, không chơi với
bất cứ bạn bè nào, trong khi ở các trường lớn đông
đúc, các cháu kiểu như vậy được tập trung thành một
nhóm riêng để chăm sóc.
Chúng là những đứa trẻ mắc hội chứng tự kỷ, một hội
chứng, không chỉ phụ huynh mà ngay cả các bác sĩ
cũng ít người biết đến. Là hội chứng gì vậy? Và phụ
huynh cũng như nơi trông nom các cháu (sau này, có
thể là trường học, nếu các cháu đến trường) phải đối
xử, quan tâm thế nào cho đúng?

Mỗi bé một thế giới riêng
Nhà trẻ A: Mai Châu và Hoàng Linh - cùng 3 tuổi -
mỗi bé "chiếm" một góc trong một gian phòng rộng
chừng 15m2, trong khi cô và các bạn đang ngồi giữa
lớp thành vòng tròn, học hát.
Châu mặt phụng phịu như đang hờn dỗi. Nhìn chăm
chăm vào con búp bê đã bị vặt cụt chân, tay từ bao
giờ. Cả ngày bé chẳng nói một câu. Ai gọi đúng tên
cũng mặc, hỏi gì cũng mặc. Dường như bé đang ở
một cõi trống vắng mơ hồ nào đó, theo đuổi một ý
nghĩ xa xăm nào đó và xung quanh bé dường như
chẳng người nào có mặt.
Linh khác hẳn. Béo ục ịch, chỉ với chiếc ô tô bé xíu,
Linh cứ miệng lẩm bẩm "bim! bim" bò theo xe, chạy
vòng quanh, động tác cứ lặp đi lặp lại một kiểu mà
không biết chán. Không thèm để ý đến các bạn cùng


lớp đang sôi nổi vỗ tay theo nhịp.
Nhà trẻ B: Duy Cương - 4 tuổi rưỡi - nét mặt sáng
sủa, thông minh. Chẳng thế mà cách đây 1 năm,
chính bé được nhà trẻ phát hiện ra là "thần đồng", vì
có thể đọc vanh vách quảng cáo trên ti vi, một
chương trình Cương cực kỳ say mê. Thế nhưng khi
các nhà báo được mời đến chứng kiến, hỏi chuyện thì
em ú ớ, trả lời lung tung hoặc chẳng trả lời. Rồi
người ta nhận ra cậu bé thần đồng này chẳng hiểu gì
những điều mình đọc.
Trường mẫu giáo C: Trường tậm trung 4 em, "nhặt"
từ 6 lớp trong trường vào 1 nhóm, và để hẳn 2 cô
giáo có tiếng là nền tính chăm sóc. Bọn trẻ có đặc
điểm chung là lầm ì ít nói hoặc không nói, chẳng bé
nào chơi với bé nào. Bình thường hiền lành như cục
đất, nhưng đôi khi tranh nhau đồ chơi lại khá hung
hăng, lăn ra đất, giật tóc, gào khóc Có bé ngơ ngác
trước những câu hỏi, dù rất đơn giản của mọi người.
Cậu bé xúc cơm rất vụng về, rơi vãi đầy sàn. May,
các cô giáo rất tận tụy, dạy các cháu nói năng, bày trò
cho các cháu chơi chung, có gì bất thường đều
"phone" đến mấy nhà tâm lý hoặc khoa phục hồi
chức năng bệnh viện nhi trung ương xin tư vấn.
Những trẻ em nói trên là những "bệnh nhân" tí hon
của hội chứng ở ta mới bắt đầu nói đến : chứng tự kỷ.
Hội chứng tự kỷ
Martin Luther (nhà thần học, tu sĩ, giáo sư đại học,
nhà cải cách tôn giáo người Anh), từ thế kỷ 15 trong
cuốn sách "Trò chuyện quanh bàn" của mình có kể về
một cậu bé 12 tuổi với những triệu chứng của một kẻ

bị tự kỷ năng, mà ông cho rằng chỉ là một khối thịt vì
đã bị quỷ dữ bắt mất linh hồn.
Mãi sau này, đầu thế kỷ 20, nhà tâm lý học Thụy Sỹ
Eugen Breuler mới đưa ra khái niệm tự kỷ dựa trên
tiếng Latinh autismus (xuất xứ của chữ autos nghĩa là
tự mình), được hiểu là "sự tự quản bệnh hoạn
(morbid self - administration), lôi cuốn sự tưởng
tượng của "bệnh nhân" vào một điều gì đó, bất chấp
tác động bên ngoài.
Đến năm 1943, bác sĩ người Áo Leo Kanner mô tả
những nét chung của hội chứng tự kỷ, dùng thuật ngữ
autism, như một dạng tâm thần phân liệt của trẻ thơ.
Từ cuối những năm 1960, hội chứng (có sách còn gọi
là "hội chứng kanner") được nghiên cứu khá đầy đủ
kể cả hướng điều trị.
Định nghĩa về hội chứng này, các từ điển y khoa
thường viết: "Tự kỷ là triệu chứng rối loạn thần kinh
não trong quá trình phát triển của trẻ, làm ảnh hưởng
tới chức năng của vùng quan hệ tương giao (social
interaction) và vùng kỹ năng giao tiếp
(communicatinon).
Chúng ta biết rằng hệ não bộ của chúng ta được chia
làm 2 bán cầu, 4 thùy não, chịu trách nhiệm về các
giác quan và kỹ năng khác nhau như ngôn ngữ và vận
động (thuỳ trước), thị giác (thùy sau), khả năng đọc
và vị giác (thùy phải), khả năng thính giác và khứu
giác (thùy trái). Các não bộ được cấu tạo từ tế bào
thần kinh (neuron), và những tín hiệu được truyền đi
trong não bộ nhờ các phản ứng hóa học diễn ra cực
nhanh giữa các neuron. Một sự rối loạn nào đó gây ra

tình trạng các tín hiệu không truyền đi được trên
vùng tương giao và kỹ năng giao tiếp cho các em trở
thành những "nạn nhân" của hội chứng tự kỷ.
Tự kỷ không buông tha nền văn hóa nào, dân tộc nào.
Những năm đầu mới phát hiện, người ta cho rằng
chứng tự kỷ khá hiếm hoi, trung bình khoảng 10.000
trẻ mới có 1, nhưng dường như có khuynh hướng
tăng dần ( hoặc do cuộc sống ngày càng cởi mởi,
không chỉ khép kín trong gia đình hoặc trẻ em đã "xã
hội hoa" nhiều hơn nên người ta dễ phát hiện hơn,
thống kê đầy đủ hơn) và hiện người ta cho rằng cứ
500 trẻ em, thì có 1 em mắc hội chứng tự kỷ, thậm
chí có nhiều tài liệu cho rằng chỉ 150 trẻ em đã có 1
em mắc chứng tự kỷ rồi.
Tự kỷ thường xảy ra ở các em trai nhiều hơn các
em gái, với tỷ lệ khoảng 4/1
Chưa có thống kê nào ở Việt Nam nhưng theo các
ước đoán thì số trẻ em mắc chứng tự kỷ có thể hàng
chục vạn mà bản thân gia đình các em không biết, chỉ
cho rằng chúng hơi "đần" hơn các bạn cùng trang lứa
đôi chút, rồi tặc lưỡi, chẳng sao,"trăng đến rằm trăng
tròn", lớn lên khắc hết. Đôi khi, không có thời gian
chăm sóc (vì chúng đòi hỏi sự chăm sóc, dạy dỗ chu
đáo hơn) lại quá bận làm ăn kiếm sống, dành phó
mặc chúng cho "ô sin" và thấy thế là đủ mà không
nghĩ đến hậu quả lâu dài. Thậm chí, thấy trẻ bất bình
thường, có người còn mêm tín, cho rằng "bị ma ám",
"thần thánh quở" hoặc biểu hiện của "con Trời con
Phật".
Mặt khác, dù có muốn điều trị "tính bất thường" cho

chúng cũng chẳng biết đưa đi đâu.
Chính vì vậy, vấn đề "trẻ em tự kỷ" cần phải được sự
hiểu biết và quan tâm của xã hội. Bởi đằng sau nó là
những mảnh đời, những số phận khác nhau của
những người mà cuộc sống có nhiều bất hạnh.
Nguyên nhân gây tự kỷ
Cho tới nay, các nhà khoa học vẫn chưa tìm ra
nguyên nhân chính nào gây hội chứng tự kỷ ở trẻ, và
rất có thể là do nhiều nguyên nhân khác nhau. Người
ta tạm sắp xếp các giả thuyết về nguyên nhân gây tự
kỷ thành hai loại:
Một loại giả thuyết cho rằng tự kỷ gây ra do các
nguyên nhân tác động từ bên ngoài não. Ví dụ các
hóa chất xâm nhập (xã hội ngày càng sử dụng nhiều
hóa chất trong cuộc sống) vào não bộ, đặc biệt những
hợp chất của thủy ngân và chì Làm sự vận hành của
não bộ bị xáo trộn. Thuộc dạng này, người ta còn cho
rằng sự căng thẳng trong cuộc sống của người mẹ khi
mang thai cũng là một nguyên nhân, vì stress làm
thay đổi lượng hóa chất (viết tắt CRH) làm chậm sự
phát triển của não bộ. Giả thuyết khác đề cập đến vi
khuẩn trong ruột là Helicobacter pylori (gây đau dạ
dày) ảnh hưởng đến sự sản sinh ra hóa chất cần thiết
của não bộ.
Loại giả thuyết thứ hai cho rằng nguyên nhân nằm ở
chính não bộ. Có thể não bộ bị biến dạng ở một vị trí
nào đó, hoặc do nhiễm sắc thể ADN 6 làm thay đổi
gen AHI-1 tạo nên nếp gấp trong não. Một nghiên
cứu khác công bố ảnh chụp não bộ của các bé trai bị
tự kỷ có hạch hạnh nhân (amygdala) lớn hơn những

trẻ bình thường. Cũng thuộc loại giả thuyết này là
những dẫn chứng về gen di truyền ví dụ có người
thân trong gia đình bị tâm thần phân liệt. Nhưng thôi,
cãi lý là việc của những nhà khoa học. Chúng ta chỉ
biết để đấy, nghĩ chỉ tổ đau đầu.
Những biểu hiện ở trẻ tự kỷ

Tự kỷ không phải một bệnh đổ có thể phát hiện qua
những xét nghiệm chỉ số này nọ, hoặc chụp tia X,
siêu âm, cộng hưởng từ như các bệnh thực thể
khác. Tuy nhiên nó lại dễ dàng đoán nhận qua các
dấu hiệu bên ngoài.
Dấu hiệu phản ánh hội chứng tự kỷ thường bộc lộ rất
sớm kể từ những tháng đầu tiên khi trẻ ra đời. Ví dụ,
khi 2-3 tháng trẻ không ầu ơ hóng chuyện, 5-6 tháng
không được "mụ dạy" thỉnh thoảng toét miệng ra
cười và cười thành tiếng. 7-8 tháng không nhìn theo
những vất sặc sỡ di động. Không phân biệt được
người quen hay lạ nên ai bế cũng được.
Biểu hiện rõ hơn vào cuối năm đầu tiên và càng dễ
nhận thấy hơn ở năm thứ hai và thứ ba. Ở lứa tuổi
này, trẻ bình thường đã biết thể hiện cảm xúc khá
nhiều, những trẻ tự kỷ thì "cha mẹ đặt đâu con ngồi
đó", không "thắc mắc", không nũng nịu, không hờn
dỗi, không đòi hỏi, thờ ơ khi bố mẹ bỏ đi, hờ hững
khi gặp lại bố mẹ Nếu không để ý quan sát chúng
so với những đứa trẻ bình thường, có thể khen là
chúng "cực ngoan".
Nặng hơn nữa, chúng có thể tránh mọi người, kể cả
bố mẹ và thường thu mình trong một xó tối. Trong

khi bạn cùng trang lứa bi ba bi bô, nói theo bố mẹ và
đôi khi rất lắm mồm, "lên ba cả nhà học nói" thì trái
lại, trẻ tự kỷ phát âm rất kém, cả ngày chẳng nói một
câu, nhưng thường chỉ bị coi là "chậm nói" hoặc lấy
nệ "xưa ông A, bà B, ba bốn tuổi mới biết nói mà bây
giờ cứ mồm năm miệng mười đấy thôi".
Lớn hơn nữa, chúng chấp nhận đi nhà trẻ một cách dễ
dàng, nhưng xa lánh bạn bè, tự chơi một mình suốt cả
buổi (hoặc không chơi gì cả vì không biết chơi đồ
chơi). Tưởng tượng của chúng nghèo nàn. Khả năng
vận động kém, đơn điệu, vụng về và không nhạy
cảm. Ví dụ chúng có thể tự quay trong nhiều vòng mà
không lảo đảo, chóng mặt. Chúng có thể có những
hành vi bất chợt, không nguyên nhân như cười sằng
sặc một mình, hoặc tự nhiên vùng chạy và bất chấp
xe cộ đang đến gần
Tất nhiên, không phải trẻ tự kỷ nào cũng có bấy
nhiêu triệu chứng mà tùy thuộc vào mức độ nặng hay
nhẹ. Song dù thế nào, nếu quan sát kỹ sẽ nhận thấy ở
chúng không hiếm những cách ứng xử, những hiện
tượng "bất thường".
Tự kỷ và "nhà bác học ngốc ngếch"
Khi khảo sát hệ số thông minh IQ của trẻ tự kỷ,
người ta thấy khoảng 30% trẻ tự kỷ có trí thông minh
bình thường (tức IQ trên dưới 100); 60% trí tuệ chậm
phát triển; còn lại 10% là "thần đồng".
Vâng, đúng vậy! ở đây có những "thần đồng", nếu
xét về một vài phương diện nào đó. Số trẻ tự kỷ này
sớm biết đọc, biết làm toán, thuộc rất nhiều số điện
thoại, kể cả những con số dài dằng dặc của điện thoại

di động, có thể thuộc làu làu cả 3.254 câu Kiều.
Một em bé tự kỷ 5 tuổi đi chơi về, bảo vẽ lại một cái
cây, với trí nhớ rất tốt em đã vẽ đủ những đặc điểm
để mọi người có thể nhận ra chính là cái cây đó,
nhưng em lại vẽ từ ngọn xuống gốc, từ phải qua trái,
hệt như theo cách nhìn của em. Một em bé khác
thuộc lòng bảng cửu chương nhưng không biết cộng
"một với một là mấy". Có em khi học nhạc nhớ
những đoạn giao hưởng phức tạp, có thể tái hiện trên
chiếc dương cầm nhưng không hề làm người nghe
xúc động vì bản thân em không hề có cảm xúc.
Trên thế giới, người ta biết đến hiện tượng này từ lâu,
gọi là hội chứng "nhà bác học ngốc nghếch" (idiot
savant) và gần đây, để tránh nhầm lẫn, người ta thay
bằng thuật ngữ "nhà bác học tự kỷ" (autistic savant)
để chỉ những cá nhân trí tuệ trung bình nhưng giỏi
đột xuất ở một lĩnh vực đặc biệt nào đó.
Trong thực tế, ở ta đã có những em hồi 4-5 tuổi đã
đọc báo vanh vách, được mọi người ngưỡng mộ, bố
mẹ tự hào và sẵn sàng chấp nhận những tính khí bất
thường của con - ôi dào, thiên tài nào chẳng lập dị!!!"
- Không những đã không đưa cháu đến để được các
bác sĩ tư vấn, còn để chúng tự do "phát triển tài năng"
để rồi chỉ vài năm sau, đi học cháu không thể theo
kịp chúng bạn để rồi phải bỏ học.
Cho nên, thấy con cái có dấu hiệu của "thần đồng"
càng cần phải quan sát một cách khách quan để đánh
giá đúng, tránh sự ngộ nhận có hại.
Làm gì khi con em bị tự kỷ?
Tự kỷ là một hội chứng không nguy hiểm đến thế

chất nhưng có ảnh hưởng lớn đến tương lai của các
trẻ em bị tự kỷ sau này. Có thể nói nếu như không
được điều trị, hầu hết trẻ không bao giờ có thể giao
tiếp hoặc sống cuộc sống bình thường. Lớn lên,
chúng sẽ rở thành người đần độn, ngớ ngẩn, hâm hấp,
lơ ngơ như bò đội nón", ăn nói rất kém cỏi, chân tay
vụng dại, chậm hiểu, chỉ làm được những việc chân
tay đơn giản.
Đáng mừng là não bộ ở con người khi còn rất nhỏ
tuổi có khả năng tự thích nghi, điều chỉnh những
khiếm khuyết của mình và kỹ năng giao tiếp, vì thế,
áp dụng các liệu pháp tâm lý có thể dạy được cho
những trẻ em tự kỷ. Những nhà tâm lý học và bác sĩ
khoa tâm thần cho biết "nếu phát hiện sớm và điều trị
tập trung, đúng cách có thể cải thiện được điều kiện
sống của hầu hết, nếu không nói là tất cả trẻem bị tự
kỷ". Những nghiên cứu cho biết, nếu được phát hiện
sớm và can thiệp sớm thì 30% trẻ tự kỷ có cơ hội
khỏi hoàn toàn, 70% còn lại có thể phát triển tốt.
Tự kỷ không cần chữa bằng thuốc, tuy đôi khi cũng
dùng thuốc an thần chẳng hạn để hỗ trợ, góp phần
điều trị một triệu chứng nào đó như hành vi hung
hăng hoặc sự mất tập trung ở trẻ.
Chương trình điều trị hội chứng tự kỷ, với mục đích
dạy giao tiếp và đưa trẻ trở lên với xã hội, với cộng
đồng, huấn luyện cho chúng những kỹ năng sống là
một chương trình tổng hợp, từ dạy nói, trị liệu bằng
những phương pháp vật lý, trị liệu bằng âm nhạc,
thay đổi thực đơn, trị liệu chuyên nghành
(occupational therapy), trị liệu bằng phương pháp

nghe - nhìn chương trình chăm sóc và rèn luyện ấy
đòi hỏi phải có những giáo viên có phương pháp sư
phạm tốt, có kinh nghiệm, hết sức nhẫn nại, kiên trì,
thực sự thương yêu các học sinh "đặc biệt" của mình.
Khả năng phục hồi của trẻ tự kỷ phụ thuộc vào thời
điểm can thiệp thích hợp nên đòi hỏi gia đình phải
can thiệp sớm để đưa trẻ đến những trung tâm điều
trị, tốt nhất là khi trẻ từ 18 đến 36 tháng tuổi, khi não
ở thời kỳ phát triển nhanh nhất. Nội dung can thiệp
và sự kiên trì của bố mẹ các em là điều hết sức quan
trọng. Chương trình "chuẩn" của thế giới quy định
việc điều trị phải là "một thầy một trò", tiến hành hết
sức tập trung trong nhiều đợt, mỗi đợt 6 tháng liên
tục.
Sự phối hợp của gia đình theo hướng dẫn của các
chuyên gia tâm lý là rất quan trọng. Chắc chắn vì
tương lai của con cái, chẳng vị phụ huynh nào thiếu
kiên nhẫn theo đuổi việc điều trị công phu này.
Trên thế giới không ít những người tự kỷ rất thành
công. Cô Temple Grandin (Mỹ) thuở nhỏ bị tự kỷ
nặng (hiện vẫn còn di chứng và vẫn phải tập luyện
hàng ngày) đã kiên trì học xong Đại học, lấy được
bằng tiến sỹ, có chồng con và được bổ nhiệm làm
giáo sư của chính nhà trường. Cô là tác giả cuốn sách
nổi tiếng: " Suy nghĩ bằng hình ảnh và những câu
chuyện khác từ cuộc đời sống chung với chứng tự kỷ
của tôi" đã trở thành Best - Seller một thời.

×