Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

LIỆT MẶT NGOẠI BIÊN TRÊN CÁC BỆNH NHÂN PHẪU THUẬT TAI XƯƠNG CHŨM pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (425.75 KB, 12 trang )

LIỆT MẶT NGOẠI BIÊN
TRÊN CÁC BỆNH NHÂN PHẪU THUẬT TAI XƯƠNG CHŨM


TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định các bệnh lý tai xương chũm gây liệt mặt ngọai biên
trên các bệnh nhân phẫu thuật tai xương chũm.
Phương pháp nghiên cứu: Khảo sát hồi cứu 48 bệnh nhân liệt mặt ngọai
biên có phẫu thuật tai xương chũm.
Kết quả: Viêm tai xương chũm mạn có kèm cholesteatoma là nguyên nhân
gây biến chứng liệt mặt ngoại biên ở 44 bệnh nhân (91,7%), nếu không kèm
cholesteatoma biến chứng này xảy ra ở 4 bệnh nhân (8,3%), các nguyên nhân khác
hiếm gặp là lao và ung thư, thường được chẩn đoán sau mổ. 70,83% bệnh nhân
nhập viện có liệt mặt độ III (phân loại theo House JW, Brackmann). Đa số bệnh
nhân có thời gian chảy tai >10 năm (64,59%). Vị trí dễ tổn thương nhất (đoạn II +
đoạn III + khuỷu) của thần kinh mặt tìm thấy ở 31 bệnh nhân(64,58 %).Tất cả các
bệnh nhân có liệt mặt ngọai biên độ II đều hồi phục hoàn toàn sau phẫu thuật.
Kết luận: Tiên lượng của bệnh nhân phụ thuộc vào nhiều yếu tố như thời
gian khởi phát, mức độ liệt mặt, loại bệnh tích Chúng ta cần phải phát hiện và
điều trị tốt bệnh lý việm tai giữa và viêm tai xương chũm trong giai đoạn sớm.
Đây là phương cách phòng ngừa chủ động và hiệu quả nhất biến chứng liệt thần
kinh mặt.
Objective: To estimate the characteristics of otogenic facial palsy on
operated otogenic patients.
Methods: We performed a retrospective study on 48 patients hospitalized
for operated otogenic facial palsy in the period from 1-2001 to 6-2006 at ENT
hospital, HCMC.
Conclusion: The prognosis of the patient depended on many factors such
as onset, facial palsy grade, etiology We had to diagnose and to treat well
chronic otitis media and chronic mastoiditis in early stage.These were the most
initiative and efficacy prevention to facial palsy complication.


ĐẶT VẤN ĐỀ
Liệt mặt ngoại biên là tổn thương thần kinh thường gặp trong các bệnh lý
tai xương chũm, có thể để lại di chứng nặng nề cho người bệnh nếu không được
phát hiện và điều trị kịp thời
1,2)
. Nghiên cứu này được tiến hành để khảo sát các
đặc điểm của liệt mặt ngoại biên trên các bệnh nhân có phẫu thuật tai xương chũm,
từ đó xác định các yếu tố giúp cải thiện tiên lượng cho bệnh nhân. Vì vậy chúng
tôi thực hiên đề tài này với những mục tiêu cụ thể sau:
– Xác định các bệnh lý tai xương chũm gây liệt mặt ngoại biên
– Khảo sát các yếu tố liên quan đến liệt mặt ngọai biên: thời gian chảy tai,
thời gian nhập viện từ lúc khởi phát, mức độ liệt mặt
– Đánh giá các thương tổn dựa vào thăm khám lâm sàng và các phương
pháp cận lâm sàng: hình dạng màng nhĩ qua nội soi, thính lực đồ, X Quang
Schuller.
– Khảo sát các thương tổn khi phẫu thuật.
– Đánh giá khả năng hồi phục sau phẫu thuật.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Mô tả hàng loạt ca
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả các bệnh nhân liệt mặt ngoại biên đã được phẫu thuật tai xương chũm
tại Bệnh Viện Tai Mũi Họng TPHCM từ tháng 1-2001 đến tháng 6-2006.
Dữ kiện nghiên cứu
– loại tổn thương trong tai giữa và liệt mặt
– các yết tố liên quan và liệt mặt
– vị trí tổn thương của dây VII
Tiến hành nghiên cứu
Hồi cứu hồ sơ và xử lý số liệu bằng SPSS 11.0
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Tổng số bệnh nhân liệt mặt:151
Tổng số bệnh nhân liệt mặt có can thiệp phẫu thuật: 48
Vtxc
mạn
Sau
phẫu
thuật
Lao

Ung
thư
42 1 3 2
Giới
21 nam và 27 nữ
Tuổi
Nhỏ nhất: 16; lớn nhất:73 ;
Tuổi trung bình: 48,7
Thời gian chảy tai
Số
bệnh nhân
Tỷ lệ %

<5 năm

5 10.41
5-10 12 25
năm
>10
năm
30 62,5

Tổng số

47 97,91
Có 1 trường hợp không có tiền căn chảy tai (2,09 %)

Thời gian nhập viện sau khi khởi phát liệt mặt
Số
bệnh nhân
Tỷ lệ %

<8 ngày

11 22.91
8-14
ngày
22 45.83
>14
ngày
15 31.26
Tổng số

48 100
Đa số bệnh nhân nhập viện sau 7 ngày

Phân độ liệt mặt ngọai biên theo house jw, brackmann
Độ Số
bệnh nhân

T
ỷ lệ

%
II 4 8.33
III 34 70.83
IV 10 20.84
V 0 0
Tổng số 48 100

Hình ảnh trên phim x quang schuler
- Mờ thông bào chũm:15
- Hình ảnh nghi có hủy xương:33

Thính lực đồ
M
ức độ
nghe kém
Số
bệnh nhân

T
ỷ lệ
%
1 1 2.08
2 11 22.91
3 17 35.41
4 19 39.6
Tổng số 48 100
Hình ảnh ống tai ngoài & màng nhĩ

Phương pháp phẫu thuật
Khoét rỗng đá chũm toàn phần + giải áp dây thần kinh mặt.

Điều trị nội khoa trước & sau mổ
Kháng sinh+ corticosteroid.
Các nguyên nhân gây liệt mặt ngọai biên
Vtxc
mạn
cholesteatoma
thứ phát
Lao

Ung
thư
Ung
thư +
cholesteatoma
(+)
Vtxc
mạn
cholesteatoma
nguyên phát
42 3 1 1 1
Vị trí tổn thương của dây thần kinh mặt
Đoạn ii Đo
ạn ii+đoạn
iii+ khuỷu
17 31
Tỷ lệ hồi phục sau phẫu thuật
Độ

Trư
ớc

phẫu thuật
H
ồi
phục
%
II 4 4 100
III

34 25 73.52
IV

10 7 70
Các thương tổn bộc lộ tự nhiên kèm theo:
- Tổn thương thần kinh mặt + xoang tĩnh mạch bên: 7 bệnh nhân
- Tổn thương thần kinh mặt + màng não: 16 bệnh nhân
- Chỉ có tổn thương thần kinh mặt: 25 bệnh nhân
Thời gian nằm viện trung bình: 12,8 ngày
BÀN LUẬN
- Tổng số các bệnh nhân liệt mặt ngoại biên có can thiệp phẫu thuật là 48.
- Liệt mặt ngoại biên gặp ở nữ nhiều hơn nam, tập trung ỡ tuổi trung niên,
khác với kết quả nghiên cứu của Mary C Snyder (bệnh nhân trẻ tuổi hơn)
5)
. Điều
này có thể là do ở nước ta người bệnh chỉ đến bệnh viện khi bệnh đã diễn tiến
nặng, xuất hiện biến chứng.
- 43/48 trường hợp (89,58%) là viêm tai xương chũm mạn tính có
cholesteatoma
- Có 2 bệnh nhân ung thư tai và 3 bệnh nhân lao tai có chẩn đoán xác định
sau mỗ (giải phẫu bệnh)
- So sánh với nghiên cứu của Võ Quang Phúc

(4)
: thời gian chảy tai trên 10 năm
thấp hơn (64,59 <70,7%) và tỷ lệ bệnh nhân nhập viện sau khi khởi phát liệt mặt sớm
hơn (45,83% tập trung tuần lễ thứ 2) có thể do đời sống kinh tế xã hội được cải thiện,
ý thức về sức khỏe bản thân của bệnh nhân càng lúc được nâng cao, do đó người bệnh
có xu hướng đi khám bệnh sớm hơn trước đây.
- Mức độ liệt mặt (theo House JW, Brackmann): khi nhập viện đa số bệnh
nhân có tổn thương từ độ III trở lên, phù hợp với một số nghiên cứu khác.Chỉ có 1
trường hợp liệt mặt sau mổ do tai biến lúc mổ (hồi phục tốt).
- Tất cả các trường hợp nghi có hủy xương chũm trên phim X quang
schuller đều có chẩn đoán xác định sau mổ (33/48 trường hợp bao gồm do
cholesteatoma, lao và ung thư), tuy nhiên những trường hợp mờ thông bào chũm
(15/ 48 trường hợp) khi phẫu thuật vẫn ghi nhận thấy có tình trạng hủy xương do
cholesteatoma. Như vậy, giá trị của phim Schuller trong bệnh lý này không cao,
những bệnh nhân liệt mặt có mờ thông bào chũm nên được chụp CT SCAN trước
mổ dể đánh giá mức độ lan rộng của thương tổn.
- Hình ảnh ống tai ngoài & màng nhĩ: 2 tổn thương thường gặp là thủng rộng
sát xương (40%) và sụp thành sau ống tai(29%). Như vậy, thủng rộng sát xương cũng
là dạng tổn thương nên có chỉ định phẫu thuật sớm để loại bỏ bệnh tích, tránh nguy cơ
lan rộng gây tổn thương thần kinh mặt.
- Cholesteatoma thứ phát là nguyên nhân thường gặp nhất gây biến chứng
liệt mặt, đa số có tiền căn chảy tai. Tuy nhiên chúng tôi ghi nhận 1 trường hợp
bệnh nhân nữ 35 tuổi có Cholesteatoma nguyên phát: đây là trường hợp duy nhất
không có tiền căn chảy tai, màng nhĩ đóng kín, Schuller và CTScan chỉ cho thấy
hình ảnh mờ các thông bào chũm. Khi mổ thám sát thì nhận thấy cholestetatoma ở
thượng nhĩ ăn luồn chân tường dây VII và ngách nhĩ, bộc lộ tự nhiên đoạn II, III
và khuỷu. Một trường hợp khác bệnh nhân nữ 55 tuổi có ung thư tai kết hợp
cholestetatoma. Người bệnh này có tiền căn chảy tai > 10 năm, Schuller có hình
ảnh hủy xương. Khi phẫu thuật cholesteatome đầy ắp từ sào bào đến thượng nhĩ,
bộc lộ tự nhiên dây VII. Tuy nhiên thượng nhĩ có ít mô lùi sùi và giải phẫu bệnh

cho kết quả ung thư.
- Tổn thương của dây thần kinh mặt đa số do bộc lộ tự nhiên: tuy nhiên do
đặc điểm giải phẫu của dây thần kinh VII và bệnh sinh cholesteatome thường đi từ
trung nhĩ sau, ngách mặt nên thương tổn thường ở đoạn II + đoạn III và khuỷu,
trong nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ này chiếm 64,58%.
- Tỷ lệ hồi phục sau phẫu thuật: mức độ liệt mặt càng nhẹ thì khả năng hồi
phục càng cao nếu được mổ giải áp sớm, trong khảo sát của chúng tôi, tất cả các
bệnh nhân liệt mặt độ II đều hồi phục sau mổ.
KẾT LUẬN
- Liệt mặt ngọai biên là một biến chứng nguy hiểm trong bệnh lý tai xương
chũm vì có thể để lại di chứng nặng nề ảnh hưởng đến thẩm mỹ và đời sống, tâm
lý của bệnh nhân
- VTXC mạn có Cholesteatoma là nguyên nhân thường gặp nhất gây liệt
mặt ngoại biên
- Tổn thương của dây thần kinh mặt đa số do bộc lộ tự nhiên,vị trí thường
gặp ở đoạn II+ đoạn III + đoạn khuỷu.
- Khoét rỗng đá chũm toàn phần + giải áp dây thần kinh mặt là phương
pháp phẫu thuật duy nhất được chọn lựa
- Mức độ liệt mặt càng nhẹ thì khả năng hồi phục càng cao.

×