HÌNH DẠNG - VỊ TRÍ - KÍCH THƯỚC TẾ BÀO HALLER
VÀ XƯƠNG GIẤY
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đặc điểm của tế bào Haller’s và xương giấy trong phẫu thuật nội
soi mũi xoang để ngăn ngừa tổn thương ổ mắt khi thực hiện phẫu thuật này.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu cắt ngang và mô tả.
Kết quả: Qua 400 trường hợp CT Scan (trên 200 bệnh nhân) về đặc điểm
của tế bào Haller và 100 trường hợp CT-Scan (trên 50 bệnh nhân) đo khoảng cách
từ xương giấy đến mảnh đứng xương sàng, chúng tôi nhận thấy: Tế bào Haller
chiếm 56% trong nhóm nghiên cứu, Phần lớn trong ổ này là có tế bào Haller hai
bên và thỉnh thoảng có 2 hoặc 3 tế bào Haller cùng một bên. Đường kính trung
bình của tế bào Haller là 6,5mm có hình bầu dục. Có những tế bào Haller chui vào
xoang hàm – ổ mắt tạo vách này có 2 lớp. Có những tế bào Haller phì đại, viêm
đơn độc gây bít tắc lỗ thông xoang hàm. Xương giấy có khuynh hướng cong lồi
vào khối mê đạo sàng.
Kết luận: Kích thước của tế bào Haller là 6,5mm, có thể tồn tại một hoặc
hai bên và có hình bầu dục. Xương giấy có khuynh hướng lồi vào mê đạo sàng.
SUMMARY
Objectives: The characteristics of Haller’s cells and lamina papyracea in
endoscopic sinus surgery in order to prevent orbital damages from the procedures.
Materials & methods: Cross-sectional study & description.
Results: Through 400 cases of CT Scan (200 patients) about characteristics
of Haller’s cell and 100 cases of CTscan (50 patients) measured the distance from
lamina papyracea to perpendicular plate of the ethmoid bone we discovered as
following: Haller’s cell occupied 56% of this sample. Most of this sample had
bilateral Haller’s cells, and sometimes had 2 or 3 ipsilateral Haller’s cells. Average
diameter of Haller’s cells was the 6.5mm and the shape of Haller’s cell was oval.
There are Haller cells protruding to the septum of orbio-maxillary sinus and it has
two layers. There are inflammatory hypertrophic Haller cells causing obstruction
of the maxillary ostium. Lamina papyracea tend to convex into ethmoidal
labyrinth.
Conclusion: Average diameter of Hallers’ cell was the 6.5mm and it co
uld exist unilaterally or bilaterally and its shape was oval. The lamina papyracea
tended to convex into the ethmoidal labyrinth.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Những tiến bộ khoa học gần đây trong ngành tai mũi họng như máy nội soi
ống cứng, camera đã góp phần quan trọng trong phẫu thuật điều trị các bệnh lý của
mũi xoang. Phẫu thuật nội soi mũi xoang là một phẫu thuật tương đối phức tạp và
có thể có nhiều biến chứng như mổ vào hốc mắt, vào não gây rách màng cứng, dò
dịch não tủy, tổn thương thần kinh thị và động mạch cảnh trong, trong đó tai biến
thường nhất là mổ vào hốc mắt gây tụ máu hốc mắt, tràn máu kết mạc, lồi nhãn
cầu, kẹt cơ vận nhãn gây song thị, hoặc nặng hơn là gây mù do chèn ép thần kinh
thị. Để tránh những tai biến trên, trong phẫu thuật nội soi mũi xoang, đòi hỏi kỹ
thuật viên phải nắm thật chắc giải phẫu vùng mũi xoang. Và để tránh mổ vào hốc
mắt, các phẫu thuật viên phải nhận biết rõ ràng tế bào Haller (là một tế bào sàng
trước, thuộc nhóm tế bào mỏm móc, nằm ở góc nhị diện của hốc mắt và xoang
hàm) và xương giấy. Tế bào Haller và xương giấy đều được đề cập trong các sách
giải phẫu kinh điển và các sách giải phẫu nội soi mũi xoang, tuy nhiên chưa có tác
giả nào đi sâu nghiên cứu về hình dạng, vị trí, kích thước của chúng, nhất là trên
người Việt Nam. Vì vậy chúng tôi thực hiện đề tài này với các mục tiêu:
- Nêu ra được hình dạng, vị trí, kích thước tế bào Haller và xương giấy trên
người Việt Nam trưởng thành và những dị dạng của chúng (một số trường hợp
không có tế bào Haller).
- Áp dụng vào thực hành trong phẫu thuật nội soi mũi xoang nhằm tránh
mổ vào hốc mắt.
- Làm tài liệu giảng dạy cho các bác sĩ thực tập.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Tiêu chuẩn chọn mẫu
+ Bệnh nhân là người trưởng thành không dị tật bẩm sinh.
+ Được chỉ định phẫu thuật nội soi mũi xoang do viêm đa xoang mạn tính.
+ Không u bướu vùng mũi xoang, không polyp mũi xoang.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Cắt ngang, mô tả tiền cứu thống kê.
Cỡ mẫu
+ 400 trường hợp CT Scan trên 200 bệnh nhân (2 bên) được chẩn đoán
viêm đa xoang mạn tính và có chỉ định chụp CT Scan được phẫu thuật nội soi mũi
xoang và nghiên cứu về tế bào Haller.
+ 100 trường hợp CT Scan trên 50 bệnh nhân (2 bên) được đo các khoảng
cách từ xương giấy đến mảnh đứng xương sàng (5 khoảng cách) trên phim CT
Scan/
Phương tiện nghiên cứu
+ Máy nội soi mũi xoang: Nội soi chẩn đoán.
+ CT Scan: đo các kích thước thật trên máy vi tính.
+ Bộ dụng cụ phẫu thuật nội soi mũi xoang: ống soi 4mm (0
0
, 30
0
), ống soi
2.7mm (0
0
), băng video, máy ảnh kỹ thuật số, camera kỹ thuật số.
Các bước tiến hành
Bệnh nhân được thăm khám lâm sàng, nội soi, chẩn đoán, chụp cắt lớp điện
toán (CT Scan) sau đó bệnh nhân được phẫu thuật nội soi mũi xoang. Chúng tôi
ghi nhận các dữ kiện sau đây:
- Có hoặc không có tế bào Haller.
- So sánh số lượng, có hoặc không có tế bào Haller giữa hai bên trên cùng
một bệnh nhân.
- Kích thước (đường kính ngang lớn nhất) của tế bào Haller, so sánh hai
bên.
- Hình dạng của tế bào Haller.
- Vị trí của tế bào Haller, so sánh hai bên.
- Quan sát hình dạng của tế bào Haller trong lúc mổ.
- Đo khoảng cách từ xương giất đến mảnh đứng xương sàng, từ trước ra sau
(giữa xương giấy theo chiều thẳng đứng).
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Để xác định tế bào Haller trên phim CT Scan ở lát cắt coronal xuyên qua lỗ
thông xoang hàm, chúng tôi lập một đường thẳng tiếp tuyến với bờ trong của ổ mắt
và bờ trong của xoang hàm: tế bào Haller là tế bào sàng vượt qua đường thẳng trên
chui vào góc nhị diện hợp bởi hốc mắt và xoang hàm.
Sau khi quan sát, ghi lại hình ảnh và đo các kích thước 400 trường hợp chúng
tôi có các kết quả sau:
1/. 224 trường hợp có xuất hiện tế bào Haller trên phim CT Scan, tỷ lệ là
224/400 = 56%.
2/. Trong 224 trường hợp này:
+ Có 200 trường hợp xuất hiện cả hai bên, tỷ lệ là 200/224 = 89,2%. Điều
này có nghĩa là nếu có tế bào Haller thì 89,2% xuất hiện ở cả hai bên.
+ Có 24 trường hợp chỉ xuất hiện tế bào Haller ở một bên, 14 trường hợp
bên phải và 10 trường hợp bên trái.
3/. Đa số là nằm trong góc nhị diện của hốc mắt và xoang hàm, tuy nhiên
cũng có những tế bào Haller chui sâu vào vách xương của trần xoang hàm (hay
đáy hốc mắt).
4/. Hình ảnh tế bào Haller trong phẫu thuật: nằm ngay trên lỗ thông xoang
hàm: cả hai đều được bộc lộ và mở rộng. Chúng ta cần chú ý tới gờ của tế bào
Haller lồi xuống mặt trên trong của xoang hàm.
5/. Ngoài những hình ảnh trên, chúng tôi còn ghi nhận các hình ảnh tế bào
Haller bị viêm.
6/. Để tìm hiểu hình dạng xương giấy chúng tôi tiến hành đo 5 khoảng cách
từ xương giấy đến mảnh đứng xương sàng, để thấy được mức độ uốn cong của
xương giấy, các kích thước này cũng là kích thước ngang của mê đạo sàng (đo trên
5 lát cắt liên tục từ trước ra sau).
Kho
ảng cách
từ mảnh đứng
xương sàng
đến
Trung bình
c
ủa 100
trường hợp
Bờ trư
ớc
xương giấy
11,71mm
Trung gian 12,62mm
Giữa x
ương
giấy
13,64mm
Trung gian 14,76mm
Bờ sau x
ương
giấy
13,96mm
BÀN LUẬN
Ở Việt Nam chưa có tác giả nào nghiên cứu về tế bào Haller và xương giấy,
cũng như trên thế giới chúng tôi cũng chưa tìm thấy tài liệu nào công bố về vấn đề
này nên chúng tôi không có số liệu để so sánh.
Theo số liệu trên thì chỉ có 56% trường hợp người Việt Nam có xuất hiện tế
bào Haller ở xoang sàng. Tương ự như có tế bào khí của cuốn giữa (concha
bullosa), nếu các tế bào Haller càng phát triển thì nguy cơ hẹp hoặc bít tắc lỗ
thông xoang hàm càng gia tăng.
Nếu đã có tế bào Haller thì đa số 89.2% trường hợp có tế bào này ở cả hai
bên, tuy nhiên cũng có người chỉ có ở một bên, và ở một bên có thể có 2 hoặc 3 tế
bào Haller, và số lượng tế bào này càng cao thì nguy cơ bít tắc lỗ thông xoang hàm
càng gia tăng.
Kích thước của tế bào Haller rất thay đổi trung bình là 6.5mm, đa số có
hình bầu dục, chìm sâu vào gốc nhị diện của hốc mắt và xoang hàm, thậm chí
chúng tạo cho vách ngăn giữa xoang hàm và hốc mắt có 2 lớp.
Các tế bào Haller nằm ngay phía trên trong của lỗ thông xoang hàm, tạo
một gờ xương ở phía trong của mặt trên xoang hàm (lồi vào xoang hàm). Tam giác
tấn công từ xoang hàm vào xoang sàng của Delima (trong phẫu thuật nạo sàng
hàm cổ điển) chính là gờ xương này.
Viêm tế bào Haller đơn độc hoặc cùng với nhóm tế bào sàng trước là một
trong những nguyên nhân thường gặp gây hẹp khe giữa, bít tắc lỗ thông khe giữa
và lỗ thông xoang hàm.
Theo số liệu đo đạc các khoảng cách của xương giấy đến mảnh đứng
xương sàng (được xem gần như phẳng) thì xương giấy có khuynh hướng chéo ra
ngoài ở phần sau, có nghĩa là càng vào sâu ở khu vực nền sọ, sàng sau thì mê đạo
sàng có khuynh hướng rộng ra, điều này cũng phù hợp với lý thuyết kinh điển về
kích thước khối sàng: hẹp ở phía trước và rộng ở phía sau (1,5cm) (Nguyễn Thị
Quỳnh Lan).
Do vị trí tế bào Haller nằm ngay phía trên trong của lỗ thông xoang hàm
nên trong phẫu thuật nội soi mũi xoang các phẫu thuật viên, nhất là các phẫu thuật
viên trẻ thường đi lầm vào tế bào Haller hoặc xương giấy và đi vào hốc mắt gây
tai biến trong hốc mắt.
Để tránh mổ nhầm vào hốc mắt, chúng ta cần lưu ý những điều sau:
- Xác định rõ vị trí của lỗ thông xoang hàm sau khi đã cắt bỏ mỏm móc.
- Đọc phim CT Scan thật kỹ lưỡng: xác định có hoặc không có tế bào
Haller, ở bên nào, số lượng, kích thước, vị trí.
- Sau khi cắt mỏm móc, dùng que thăm dò đưa vào vùng của lỗ thông
xoang hàm: nếu lọt vào một khoảng trống khoảng 1 – 2cm nhưng lại đụng vách
xương phía đầu dụng cụ thì phải ngưng ngay, đó là tế bào Haller, nếu tiếp tục ấn
bể lớp xương này (thường rất mỏng) chúng ta sẽ lọt vào ổ mắt. Lui que thăm dò
xuống dưới và ra trước chúng ta sẽ vào được xoang hàm.
KẾT LUẬN
Qua bộ sưu tập này chúng ta rút ra một số kết luận sau:
- Có 56% trường hợp xuất hiện tế bào Haller ở người Việt Nam.
- Đa số có tế bào Haller hai bên nhưng cũng có trường hợp một bên và ở
một bên có thể có 2 hoặc 3 tế bào Haller, kích thước tế bào này rất thay đổi, trung
bình 6.5mm, hình bầu dục.
- Chúng ta đã tìm ra rằng: tam giác tấn công Delima chính là phần lồi của tế
bào Haller vào mặt trên trong xoang hàm, nằm ngay phía trên trong sau của lỗ
thông xoang hàm.
- Có những trường hợp tế bào Haller chui vào vách xoang hàm – ổ mắt làm
vách này có 2 lớp. Có những trường hợp tế bào Haller phì đại, viêm đơn độc gây
bít tắc lỗ thông xoang hàm.
- Xương giấy có khuynh hướng cong lồi vào trong khối mê đạo sàng.