Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

ỨNG DỤNG CỌC ÉP REN NGƯỢC CHIỀU TRONG ĐIỀU TRỊ CO RÚT KHỚP pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.41 KB, 8 trang )

ỨNG DỤNG CỌC ÉP REN NGƯỢC CHIỀU
TRONG ĐIỀU TRỊ CO RÚT KHỚP

Tóm tắt
Mở đầu Cọc ép răng ngược chiều được biết nhiều trong lảnh vực kết
xương hai ổ và kéo dài chi. Đẩy xa hay kéo gần 2 bộ phận cố định đinh thực
hiện dễ dàng bằng cách xoay phần xoay ở giữa cọc.
Mục đích đánh giá khả năng chỉnh dần các co rút khớp ở chi dựa trên
đặc điểm nén ép – kéo dãn của cọc ren ngược chiều
Số liệu và phương pháp Xuyên 2 đinh Steinmann vào xương ở trên
và dưới khớp co rút.Lắp 2 cọc ở 2 bên khớp thành khung cố định ngoài kiểu
một mặt phẳng, 2 bên.Chỉnh dần khung tùy theo biến dạng. Chúng tôi đã thử
sử dụng cọc này để điều trị 13 trường co rút khớp (8 khớp cổ chân, 2 khớp
khủyu, 3 khớp cổ tay). Khi khớp về vị trí mong muốn khung được giữ thêm
3-4 tuần trước khi tiến hành vật lý trị liệu tiếp theo.
Keát qua# Cac khớp về vị trí ngược với chiều biến dạng ban đầu
(duỗi hoặc gấp) hoàn toàn hoặc gần hoàn toàn. Co rút tái phát gặp trên 3
trường hợp cổ chân,1 trường hợp khuỷu.
Kết luận Đưa khớp về vị trí hết (giảm) co rút chỉ là bước đầu.Nẹp
chỉnh hình sau bỏ khung và vận động liệu pháp chính là biện pháp căn cơ
phục hồi chức năng và chống co rút tái phát
ABSTRACT
Background The compressive clockwise and anti-clockwise thread
rod is well-known in the compressive- distraction fixation and limb
lenghthening. Pushing or pulling pin fixators is easy by rotating a part at
middle of the rod.
Purpose Evaluating the ability to correct gradually joint contracture
based on distraction- compression characteristic of the rod.
Method and materials Two Steinmann pins were inserted into the
bones proximal and distal to the contractured joint.Two rods were assembled
both sides to form a bilateral- one plane frame.The frame was adjusted


depending on deformity. We tried using the rod for treatment of 13 cases of
joint contracture 8 ankles, 2 elbow and 3 wrist). After finishing the correct,
the frame had been maintained for 3-4 weeks and then the patient followed a
rehabilitation program.
Results The cases returned to the positions opposite to the previous
contractures.But 4 cases(3 ankles,1 elbow) were contractured again.
Conclusion Returning good position is only the first step. Brace for
prevention after removal of rods and kinetic therapy are critical to
prevention of recurrence.
Đặt vấn đề
Cọc ép răng ngược chiều(CERNC) của Giáo sư Nguyễn Văn Nhân bắt
đầu được sử dụng từ thập niên 70
(4)
. CERNC được nhiều người biết đến qua
công trình kết xương hai ổ và kéo dài chi. Tại miền Nam một số bệnh viện
quân y đã dùng cọc này điều trị gãy xương hở. Đặc điểm của cọc này là có thể
căng giãn hoặc nén ép 2 đầu cùng một lúc chỉ bằng động tác xoay vào vị trí ở
giữa khung. Có thể áp dụng cọc này cho các trường hợp co rut khớp khơng?
Phương pháp nghiên cứu
-Dùng cọc đặt cố định ngồi 2 bên khớp kiểu 2 đinh, 2 cọc, 2 bên một
mặt phẳng. Trường hợp nhiều biến dạng thì đặt thêm khung nhưng vẫn theo
nguyên tắc 2 bên một mặt phẳng. Chỉnh khung bằng cách xoay cọc theo
hướng kéo dãn khớp. Tốc độ chỉnh khung sau mổ phụ thuộc vào triệu chứng
đau của bệnh nhân. Lưu giữ khung 3 tuần sau khi đã nắn chỉnh xong.
- Các phẫu thuật kết hợp: Cắt sửa sẹo co rút của khớp khủyu và cổ
tay. Ghép da rời bổ sung khi cần thiết. Đối với cổ chân chúng tôi cắt bán
phần gân gót bên bên qua các đường mổ nhỏ gián cách 2 bên gân.
- Sau rút cọc: đặt nẹp bột giữ chi ở tư thế nắn chỉnh cuối cùng xen kẻ
với tập vận động chủ động khớp.Ở chi dưới khuyến khích bệnh tập đi tì
chống toàn phần lòng bàn chân chân bệnh.

Kết quả
Thời gian theo dõi ngắn nhất là 3 tháng, dài nhất 2năm,trung bình
8,5tháng. Thời gian chỉnh khung ngắn nhất là 5 ngày,dài nhất là 10 ngày
Bảng1: Co rút khớp

Vị trí

Thương
tổn-Nguyên
nhân
Thời
gian bệnh
ROM
Trước đặt

V
ị trí
khớp trư
ớc
khi rt cọc
ROM
Sau bỏ cọc

Cổ
chân
(8ca)
Co ruùt
g
ấp gân gót do
chấn thương

<12
th
:
4
12-
24
th
: 3
Từ
nhỏ:1
G-D
40
0
40
0
0
0

G-D
30
0
-20
0
-0
0

G-D
25
0
-10

0
-0
0

Duỗi
10
0
:6ca
Duôi 0
0
:
2ca

G-D
35
0
-50- 0
0

G-D
30
0
- 0
0
-10
0


G-D
30

0
-0
0
-10
0

G-D
30
0
-30
0
-0
0

G-D
20
0
-20
0
-0
0

G-D
5
0
-10
0
-0
0


G-D
20
0
-10
0
-0
0

G-D
25
0
-15
0
-0
0

G-D
30
0
-10
0
-0
0

G-D
30
0
-5
0
-0

0

G-D
25
0
-0
0
-5
0

G-D
25
0
-0
0
-5
0

G-D
2
0
-0
0
-5
0

Khuỷu

(2ca)
Co rut

gấp
- s
ẹo
bỏng
- từ nhỏ

6th
Từ
nhỏ
G-D
90
0
-40
0
-0
0

G-D
90
0
-90
0
-0
0

Du
ỗi hạn
chế 10
0


Duỗihạn
chế 30
0

G-
D100
0
-20
0
-
0
0

G-D
90
0
-50
0
-0
0

Cổ tay

(3ca)
Co rút
duỗi

-

G-D


Duỗi 0
0


G-D
- rắn cắn
-nhiễm
trùng
-sẹo bỏng

5năm
-từ
nhỏ
-
4năm
0
0
- 90
0
-90
0

G-D
0
0
-70
0
-70
0


G-D
0
0
-60
0
-75
0

Duỗi 0
0

Gấp 5
0

20
0
-0
0
-0
0

G-D
10
0
-0
0
-40
0


G-D
20
0
-0
0
-20
0


G-D: gấp-duỗi,th:tháng
Biến chứng
Nhiễm trùng 2 đinh. Khỏi sau rút đinh. Tái phát co rút 3 khớp cổ
chân, 1khớp khuỷu: tầm hoạt động khớp giảm so với kết quả cuối cùng từ
10- 20 độ.
bàn luận
Trong y văn việc sử dụng khung cố định ngoài để chỉnh dần các biến
dạng co rút khớp không nhiều và thường được chỉ định khi phẫu thuật kéo
dài gân hay giải phóng bao khớp thất bại
(2,3,5)
. Cố định ngoài được sử dụng
nhiều nhất trong những trường hợp này là khung Ilizarov. Tuy đạt nhiều kết
quả khả quan nhưng nhược điểm chính của khung là cồng kềnh, lắp đặt phức
tạp
(1,6)
.
CERNC sử dụng tương đối dễ dàng, thao tác không phức tạp. Thao
tác căng dãn đơn giản, chỉ cần xoay chỗ điều chỉnh theo hướng ngược với
chiều mũi tên đánh dấu trên cọc, không cần mở các bộ phận khác. Bệnh
nhân với sự hướng dẫn của thầy thuốc có thể thục hiện không khó khăn. Đây
cũng là điểm không có được khi dùng khung Muller và các dạng cải biên

khác.
Đối với các trường hợp co rút, chúng tôi có thể linh hoạt chọn vị trí
đạt thích hợp để chỉnh sửa dần tùy theo hướng biến dạng. Bệnh nhân tự điều
chỉnh hàng ngày với giới hạn là triệu chứng đau. Các khớp bị co rút cải thiện
được tầm họat động khớp với độ an tịan cao, không có biến chứng họai tử
da, tắt mạch hay liệt do căng dãn quá mức.
Trường hợp tái phát chứng tỏ nẹp bột không đáng tin cậy.Nên chăng
có nẹp chỉnh hình tháo lắp dễ nhưng đủ độ chắc chắn.Bệnh nhân không có
điều kiện được theo dõi và điều trị ở các trung tâm phục hồi chức năng cũng
là một yếu tố làm diễn tiến điều trị xấu đi
Kết luận
Cọc ren ngược chiều là dụng cụ năng động, dễ sử dụng trong điều trị
các co rút khớp lớn ở chi. Tuy nhiên đưa khớp về vị trí hết(giảm) co rút chỉ
là bước đầu, nẹp chỉnh hình sau bỏ cọc và vận động liệu pháp phải được
xem là biện pháp căn cơ phục hồi chức năng và chống co rút tái phát.

×