HOÀNG ANH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ
VỀ SỬ DỤNG NGÔN TỪ TRÊN BÁO CHÍ
HÀ NỘI – 2003
1
MỤC LỤC
...............................................................................................................................................7
VI C S D NG CH T LI U V N H C TRONG TÁC PH M BÁO CHỆ Ử Ụ Ấ Ệ Ă Ọ Ẩ Í....................................31
..................................................................................................................................................48
TH PHÂN LO I TIÊU CÁC V N B N BÁO CHỬ Ạ ĐỀ Ă Ả Í..................................................................63
NGÔN NG TÁC GI VÀ NGÔN NG NHÂN V T TRONG TÁC PH M BÁO CHỮ Ả Ữ Ậ Ẩ Í....................99
2
LỜI TÁC GIẢ
Cuốn sách này là tập hợp các bài viết của tác giả đã công bố trên các tạp
chí và các hội thảo khoa học chuyên ngành. Nó đề cập một số vấn đề khá bức xúc
nhưng chưa được các nhà nghiên cứu quan tâm đúng mức trong địa hạt ngôn
ngữ báo chí - một địa hạt vẫn còn hết sức mới mẻ ở Việt Nam. Đó là các vấn đề
như: đặc điểm của ngôn ngữ báo chí, sự kết hợp khuôn mẫu và biểu cảm trong
ngôn ngữ báo chí, cách thức tạo giá trị biểu cảm trong ngôn ngữ báo chí, sự khác
biệt giữa ngôn ngữ văn học và ngôn ngữ báo chí, ngôn ngữ nhân vật và ngôn
ngữ tác giả trong tác phẩm báo chí, phân loại tiêu đề các văn bản báo chí, ... Vì
đây mới chỉ là kết quả của những khảo sát bước đầu cho nên cuốn sách không
tránh khỏi có những hạn chế nhất định. Tuy nhiên, tác giả vẫn hy vọng là nó sẽ
mang lại những điều bổ ích, dù chỉ nhỏ bé, cho các nhà báo, các nhà nghiên cứu
và giảng dạy về báo chí, cũng như tất cả những ai có liên quan.
Hà Nội, tháng 5 năm 2003
Tác giả
3
TRÁCH NHIỆM CỦA NHÀ BÁO TRONG VIỆC GIỮ GÌN SỰ TRONG
SÁNG CỦA TIẾNG VIỆT
Các phương tiện thông tin đại chúng luôn có rất nhiều người sử dụng; thêm
vào đó, chúng vẫn thường được coi là mẫu mực trong việc dùng ngôn từ. Chính vì
thế các sai sót về mặt này của các phương tiện thông tin đại chúng rất nhanh
chóng trở thành sai sót chung của toàn xã hội. Và từ đây, nảy sinh một vấn đề khá
quan trọng nhưng chưa được quan tâm đúng mức: vấn đề trách nhiệm của nhà báo
trong việc nói đúng và viết đúng, nhằm góp phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng
Việt, và cũng có nghĩa là góp phần giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc.
Hiện nay, do nhiều nguyên nhân khác nhau, cả khách quan lẫn chủ quan, mà
không ít nhà báo mới chỉ chú trọng phần nội dung chứ chưa để ý nhiều tới hình
thức diễn đạt thông tin. Bởi vậy, họ bỏ qua khá nhiều lỗi về ngôn từ ở mọi cấp độ:
từ, câu, đoạn văn, thậm chí ở cả bố cục toàn văn bản. Nếu điểm qua một vài tờ
báo, kể cả những tờ báo lớn, chắc hẳn chúng ta sẽ tháy rõ điều này. Không nói đâu
xa, ngay cả báo Văn nghệ, - cơ quan trung ương của Hội Nhà văn Việt Nam, diễn
đàn của các bậc thầy về sử dụng ngôn từ - cũng tương đối thường xuyên mắc phải
các lỗi như: chính tả thiếu chuẩn xác, câu thiếu thành phần nòng cốt, từ dùng
không đúng nghĩa...
1
Có lẽ, chẳng cần phải luận bàn, chúng ta cũng biết là những
sai sót như vậy sẽ gây ra những tác hại nghiêm trọng tới mức nào. Ít nhất, chúng
cũng làm cho hiệu quả tiếp nhận thông tin của người đọc bị giảm sút. Còn cao
hơn, chúng có thể làm cho người đọc không hiểu hoặc hiểu sai vấn đề. Song, vượt
lên trên tất cả là điều như chúng tôi đã nói ở trên: những sai sót này không bị phát
hiện ( nghĩa là được xem như đúng ) và chúng lan truyền trong cộng đồng như
một thứ dịch bệnh.
Vậy nhà báo phải làm gì đây để có thể hoàn thành được trách nhiệm nặng nề
của mình trong việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt? Về vấn đề này, chúng
tôi có vài ý kiến nhỏ như sau:
4
1. Nhà báo cần nắm chắc các tri thức cơ bản liên quan tới việc sử dụng
tiếng Việt thuộc 4 phương diện chính là ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và phong
cách.
Để làm được điều đó, chắc chắn chúng ta phải học một cách bài bản, nghiêm
túc. Có thể học ở trường, lớp mà cũng có thể tự học. Song dù hình thức học có thế
nào đi chăng nữa thì kết quả cuối cùng đạt được phải đáp ứng yêu cầu: nói đúng,
viết đúng. Chưa nói đúng, viết đúng thì chưa thể kỳ vọng nói hay, viết hay được.
Có những điều tưởng như rất đơn giản, nhưng nếu chúng ta không học, chúng ta
vẫn có thể bị mắc lỗi. Chẳng hạn, quan hệ ngữ đoạn trong ngôn ngữ là một vấn đề
hoàn toàn không khó, nhưng do không được trang bị kiến thức cần thiết, nhiều
nhà báo thường xuyên ngắt đoạn sai khi nói, khi đọc. Ấy là còn chưa kể đến
những mảng đầy " gai góc " thuộc phần ngữ pháp mà nếu không đầu tư thời gian
và công sức để nghiên cứu và rèn luyện, chúng ta khó có thể làm chủ được hoạt
động ngôn từ của mình.
Tuy nhiên, việc sử dụng tiếng Việt đúng với chuẩn mực không đồng nghĩa
với sự phủ nhận hoàn toàn những sáng tạo riêng của cá nhân. Có điều, những sáng
tạo ấy phải tuân thủ những quy luật nhất định, nghĩa là có cơ sở khoa học. Chẳng
hạn, khi tạo ra từ mới, người ta phải dựa vào những từ đã có sẵn nào đó mà có
quan hệ trực tiếp với nó về phương diện âm thanh hay ý nghĩa.
2. Nhà báo nên hạn chế tối đa việc vay mượn từ ngữ nước ngoài
Có thể nói, chưa bao giờ các từ ngữ vay mượn từ tiếng nước ngoài lại xuát
hiện trên báo chí tiếng Việt với mật độ dày như hiện nay. Người ta sử dụng chúng
khá tuỳ tiện, bất chấp người đọc, người nghe có hiểu được hay không. Thật phi lý
khi nhà báo là người Việt Nam, mà để hiểu được ngôn từ của họ, nhiều lúc chúng
ta phải mở từ điển song ngữ ra tra cứu. Phải chăng tiếng Việt của chúng ta nghèo
nàn tới mức phải vay mượn tràn lan như vậy? Hoàn toàn ngược lại! Tiếng Việt
của chúng ta vô cùng phong phú, và trong tuyệt đại đa số các trường hợp, có thể
tìm thấy các từ tương đương với các từ vay mượn từ tiếng nước ngoài ( thậm chí
nhiều từ tiếng Việt còn có khả năng diễn đạt khái niệm tinh tế hơn, rõ ràng hơn ).
Sở dĩ một số nhà báo không dùng từ tiếng Việt vì có lẽ họ muốn làm phong phú
5
thêm ngôn từ của mình hoặc muốn tăng cường tính biểu cảm. Đây là dự định tốt
nhưng cách làm chưa hợp lý. Sự phong phú của một chỉnh thể không thể được tạo
bởi các thành tố mới lạ nhưng lại phá vỡ tính thống nhất của nó. Tương tự, tính
biểu cảm không thể được tạo bởi các phương tiện cản trở quá trình nhận thức.
Các từ ngữ vay mượn từ tiếng nước ngoài càng trở nên khó chấp nhận hơn
khi bị dùng sai, do người dùng chưa hiểu thấu đáo ý nghĩa cũng như cách đọc,
cách viết chúng. Vì lúc này chúng không chỉ gây nên những hậu quả như: làm
giảm sút hiệu quả tiếp nhận tác phẩm, tuyên truyền cho cái sai; mà còn hạ thấp uy
tín của tác giả ( người đọc, người nghe khó tránh khỏi có ấn tượng rằng anh ta là
người " sính chữ ngoại " )và bằng việc đó, hạ thấp uy tín của chính cơ quan báo
chí là nơi tác giả làm việc.
Vậy nên chỉ còn cách là hạn chế tối đa việc vay mượn từ ngữ nước ngoài.
Không phải tình cờ mà Bác Hồ của chúng ta đã dặn: " Những từ không dịch được
thì phải mượn tiếng của các nước. Nhưng chỉ mượn khi thật cần thiết, và đã mượn
thì phải mượn cho đúng "
2
.
3. Nhà báo cần có một trình độ ngoại ngữ nhất định
Trình độ ngoại ngữ của nhà báo càng cao càng tốt. Nó mang đến cho nhà
báo rất nhiều lợi ích, nhất là trong thời kỳ đa phương hoá, toàn cầu hoá như hiện
nay. Tuy nhiên ở đây chúng tôi chỉ bàn đến một lợi ích trong số đó, ấy là ngoại
ngữ giúp nhà báo hiểu rõ hơn tiếng mẹ đẻ của mình, để rồi trên cơ sở ấy, có cách
ứng xử thích hợp đối với nó.
Trong thực tế, sau khi học xong một ngoại ngữ nào đó, dù muốn hay không,
chúng ta thường có sự liên hệ nhất định với tiếng Việt. Và dựa vào sự đối chiếu
,so sánh, nhà báo có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng tiếng Việt của chúng
ta giàu đẹp chẳng kém bất cứ ngôn ngữ nào trên thế giới. Và từ đây, anh ta sẽ có
tình cảm yêu quý và thái độ trân trọng hơn đối với tiếng mẹ để của mình. Những
tình cảm và thái độ ấy, nếu được vun đắp thường xuyên, dần dần sẽ trở thành
những phẩm chất văn hoá, thành những giá trị đạo đức của nhà báo, giúp họ trở
thành những nhân tố tích cực trong cuộc đấu tranh chống những biểu hiện xem
thường, coi khinh tiếng nói và chữ viết của dân tộc.
6
Song, bên cạnh đó, chúng ta cũng không thể phủ nhận các giá trị của ngôn
ngữ nước ngoài, mà ngược lại, phải biết tiếp thu chúng để hoàn thiện thêm cho
tiếng mẹ đẻ. Chẳng hạn, tính khoa học và tính chính xác cao của các ngôn ngữ Ấn
- Âu ( như Anh, Pháp, Nga,...) sẽ giúp cho nhà báo sử dụng tiếng Việt một cách
khúc chiết, mạch lạc, gãy gọn, tránh được sự dài dòng, cầu kỳ không cần thiết.
Như vậy, rõ ràng là hiểu biết về tiếng nước ngoài cũng góp phần quan trọng
vào việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
Từ xưa đến nay, người ta vẫn luôn quan niệm rằng trong việc sử dụng ngôn
ngữ của một dân tộc bao giờ cũng bộc lộ tầm vóc văn hoá của nó. Mà báo chí lại
là môi trường rộng lớn nhất và được xem là mẫu mực nhất để ngôn ngữ dân tộc
hành chức. Vì thế, khẳng định trách nhiệm của nhà báo chúng ta trong công cuộc
bảo vệ và giữ gìn sự trong sáng của tiéng Việt, đồng thời đề xuất những giải pháp
để họ hoàn thành trách nhiệm ấy, là việc làm cần thiết. Hy vọng, với bài viết này,
chúng tôi sẽ nhận được nhiều ý kiến quý báu liên quan tới vấn đề trên.
Chú thích
1. Nguyễn Văn Nở, Đôi điều mong muốn về tiếng Việt trên báo Văn Nghệ,
Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, số 10 / 1998, tr. 11 - 14.
2. Một số ý kiến của Hồ Chủ tịch về chữ quốc ngữ và tiếng Việt, Tạp chí Ngôn
ngữ, 1970, số 3, tr.38.
( Bài in trong: Báo chí- những điểm nhìn từ thực tiễn, NXB. Văn hoá - Thông
tin, H., 2000, tập 1 ).
7
CÁC TÍNH CHẤT CỦA NGÔN NGỮ BÁO CHÍ
Hiện nay, ngôn ngữ báo chí đang có xu thế được xem là một phong cách chức
năng trong ngôn ngữ. Trên cơ sở nhận thức rằng " phong cách là những khuôn mẫu
trong hoạt động lời nói, được hình thành từ những thói quen sử dụng ngôn ngữ có
tính chất truyền thống và chuẩn mực trong việc xây dựng các lớp văn bản tiêu biểu
"
1
, người ta đã tìm ra những luận cứ, với các mức độ thuyết phục khác nhau, để
khẳng định là ngôn ngữ báo chí có những nét đặc thù, cho phép nó có vị thế ngang
hàng với các phong cách chức năng khác trong ngôn ngữ như phong cách khoa
học, phong cách hành chính - công vụ, phong cách sinh hoạt hàng ngày, phong
cách chính luận.
Vậy đâu là các nét đặc thù của phong cách báo chí? Các nhà nghiên cứu đã có ý
kiến không thống nhất khi trả lời câu hỏi này.
Đinh Trọng Lạc, sau khi nêu rõ các đặc trưng của phong cách báo chí ( như tính
chiến đấu, tính thời sự, tính hấp dẫn ), đã chỉ ra các đặc điểm của ngôn ngữ báo chí
thuộc các phương diện như từ vựng, cú pháp, kết cấu
2
. Theo chúng tôi, đây phần
lớn mới chỉ là các đặc điểm của một vài thể loại báo chí cụ thể, vì thế chúng chưa
đủ tầm khái quát để có thể khắc hoạ diện mạo của cả một phong cách ngôn ngữ
trong sự đối sánh với các phong cách ngôn ngữ khác.
Còn tác giả Hữu Đạt cho rằng các đặc điểm về ngôn ngữ của phong cách báo chí
bao gồm: 1. Chức năng thông báo, 2. Chức năng hướng dẫn dư luận, 3.Chức năng
tập hợp và tổ chức quần chúng, 4. Tính chiến đấu mạnh mẽ, 5. Tính thẩm mỹ và
giáo dục, 6. Tính hấp dẫn và thuyết phục, 7. Tính ngắn gọn và biểu cảm, 8. đặc
điểm về cách dùng từ ngữ ( gồm cách dùng từ ngữ và cách dùng các khuôn biểu
cảm )
3
. Dễ dàng nhận thấy là Hữu đạt không có sự phân định rõ ràng giữa các đặc
điểm về chức năng của thông tin báo chí và các đặc điểm về ngôn ngữ như là
phương tiện chuyển tải thông tin ấy. Chính vì thế, 8 đặc điểm mà ông đưa ra không
đồng loại, chỉ có các đặc điểm thứ sáu và thứ bảy là có vẻ xác đáng hơn cả.
Tuy nhiên, các quan niệm nêu trên của Đinh Trọng Lạc cũng như Hữu Đạt
4
cho
thấy, khi khảo sát các đặc điểm của ngôn ngữ báo chí, họ đều xuất phát từ góc độ
8
chức năng của nó. Đây là hướng đi hợp lý, vì chính chức năng chứ không phải bất
cứ yếu tố nào khác, quy định các phương thức biểu đạt có tính đặc thù của từng
loại hình sáng tạo.
Như chúng ta đều biết, chức năng cơ bản, có vai trò quan trọng hàng đầu của
báo chí là thông tin. Báo chí phản ánh hiện thực thông qua việc đề cập các sự kiện.
Không có sự kiện thì không thể có tin tức báo chí. Do vậy, theo chúng tôi, nét đặc
trưng bao trùm của ngôn ngữ báo chí là có tính sự kiện.
Chính tính sự kiện đã tạo nên cho ngôn ngữ báo chí một loạt các tính chất cụ thể
như:
1. Tính chính xác
Ngôn ngữ của bất kỳ phong cách nào cũng phải bảo đảm tính chính xác. Nhưng
với ngôn ngữ báo chí, tính chất này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Vì báo chí có
chức năng định hướng dư luận xã hội. Chỉ cần một sơ suất dù nhỏ nhất về ngôn từ
cũng có thể làm cho độc giả khó hiểu hoặc hiểu sai thông tin, nghĩa là có thể gây ra
những gây hậu quả xã hội nghiêm trọng không lường trước được. Chẳng hạn, sau
chuyến tháp tùng một quan chức cao cấp sang thăm trung quốc, một nhà báo đã
viết một bài phóng sự, trong đó có câu: " Chúng tôi đã chia tay với tình hữu nghị
dạt dào của hai nước Việt - Trung ". Rõ ràng, từ " với " ở đây là không thể chấp
nhận được (vì cụm từ " chia tay với..." biểu đạt ý nghĩa " từ bỏ, từ giã "), cần phải
thay nó bằng từ "trong" .
Muốn sử dụng ngôn ngữ một cách chính xác, nhà báo phải tuân thủ ít nhất 2 yêu
cầu. Thứ nhất, nhà báo phải giỏi tiếng mẹ đẻ, nói cụ thể là: nắm vững ngữ pháp; có
vốn từ vựng rộng, chắc, và không ngừng được trau dồi; thành thạo về ngữ âm; hiểu
biết về phong cách. Thứ hai, phải bám sát các sự kiện có thực và nguyên dạng để
phản ánh, không tưởng tượng, thêm bớt. Hai yêu cầu này có quan hệ qua lại hết
sức mật thiết. Giỏi ngôn ngữ mà xa rời hiện thực thì ngôn ngữ có thể " kêu " những
rỗng tuếch, thiếu hơi thở ấm nóng của cuộc sống vốn là thứ có sức chinh phục
mạnh mẽ đối với độc giả. Ngược lại, biết rõ hiện thực nhưng kém về ngôn từ thì
cũng không thể chuyển tải thông tin một cách hiệu quả như mong muốn, thậm chí
đôi khi còn mắc lỗi tới mức gây hại cho người khác hoặc xã hội.
9
Sử dụng ngôn từ trong tác phẩm một cách chính xác, nhà báo không chỉ đạt hiệu
quả giao tiếp cao, mà còn góp phần không nhỏ vào việc giữ gìn sự trong sáng của
tiếng Việt. Vì số lượng người tiếp nhận các sản phẩm của báo chi đông tới mức
không xác định được và họ ( nhất là trẻ em ) lại luôn xem các cơ quan báo chí là "
ngọn đèn chỉ dẫn " trong việc dùng ngôn từ, cho nên ngôn ngữ báo chí càng hoàn
thiện thì tiếng Việt càng có điều kiện phát triển.
2. Tính cụ thể
Tính cụ thể của ngôn ngữ báo chí trước hết thể hiện ở chỗ cái mảng hiện thực
được nhà báo miêu tả, tường thuật phải cụ thể, phải cặn kẽ tới từng chi tiết nhỏ. Có
như vậy, người đọc, người nghe mới có cảm giác mình là người trong cuộc, đang
trực tiếp được chứng kiến những gì nhà báo nói tới trong tác phẩm của mình. Đoạn
trích sau đây trong phóng sự " Hai giờ dưới lòng đất " của nhà báo Huỳnh Dũng
Nhân là một minh chứng:
"...Tôi cố nén sự tự ái, ưỡn ngực tiến tới. Xì, lò thế này mà ngán gì. Đi như hầm
địa đạo Củ Chi là cùng. Nhưng... sâu dần, đen dần. Rồi tất cả biến mất. Tôi lọ mọ
đi. Hai tay sờ soạng tứ tung. Cốp! Lùn tịt như tôi mà cũng còn va đàu vào đá. Tôi
nghĩ bụng và bắt đầu đi lom khom. Mẹ ơi, chỉ còn mình tôi thôi sao? Tống, Lực đâu
rồi. Đã hết lom khom được. Phải nằm xuống, bò. Có tiếng nước róc rách. Đường lò
ướt nhẹp. Tôi vớ phải một sợi dây cáp ở đầu một cái dốc. " Bám vào - ngửa người
ra, tụt xuống! ". Một mênh lệnh vang lên. A! Tống, Lực đây rồi. Thì ra hai anh vẫn
đi sát tôi, như có vẻ cố tình thử thách nhau một tý " cho nhà báo có thêm thực tế ".
Thấy tôi thở phì phò, thợ lò bảo: " Đây là lò ngắn nhất và dễ nhất mỏ Mông Dương
đấy! Dễ nhất! Tôi suýt la lên. Cả tiếng đồng hồ mới lấy được vài xe goòng than đá.
Dễ nhất mà thợ lò phải bò như những con rắn mối trong hang".
Một bức tranh chân thực và sinh động đã được tạo dựng nhờ sự miêu tả một loạt
các hành động, các cảm giác cụ thể của tác giả. Khi đọc đoạn văn trên, độc giả thấy
mình như cũng đang trải qua một cuộc hành trình đầy gian nan, vất vả dưới lòng
đất. Và đây chính là khởi nguồn của niềm cảm thông sâu sắc với nỗi cực nhọc
trong côngviệc của những người thợ lò.
10
Bên cạnh đó, tính cụ thể của ngôn ngữ báo chí còn nằm ở việc tạo ra sự xác định
cho đối tượng được phản ánh. Như thực tế cho thấy, mỗi sự kiện được đề cập trong
tác phẩm báo chí đều phải gắn liền với một không gian, thời gian xác định; với
những con người cũng xác định ( có tên tuổi, nghề nghiệp, chức vụ, giới tính... cụ
thể ). Đây là cội nguồn của sự thuyết phục, vì nhờ những yếu tố đó người đọc có
thể kiểm chứng thông tin một cách dễ dàng. Do đó, trong ngôn ngữ báo chí nên
hạn chế tối đa việc dùng các từ ngữ, cấu trúc không xác định hay có ý nghĩa mơ hồ
kiểu như " một người nào đó ", " ở một nơi nào đó ", " vào khoảng ", " hình như ",
v. v...
3. Tính đại chúng
Báo chí là phương tiện thông tin đại chúng. Tất cả mọi người trong xã hội,
không phụ thuộc vào nghề nghiệp, trình độ nhận thức, địa vị xã hội, lứa tuổi, giới
tính..., đều là đối tượng phục vụ của báo chí: đây vừa là nơi họ tiếp nhận thông tin,
vừa là nơi họ có thể bày tỏ ý kiến của mình. Chính vì thế, ngôn ngữ báo chí phải là
thứ ngôn ngữ dành cho tất cả và của tất cả, tức là có tính phổ cập rộng rãi. Tuy
nhiên, phổ cập rộng rãi không có nghĩa là dễ dãi, thấp kém. Vì, nói như nhà nghiên
cứu ngôn ngữ báo chí nổi tiếng người Nga V. G. Kostomarov: " Ngôn ngữ báo chí
phải thích ứng với mọi tầng lớp công chúng sao cho một nhà bác học với kiến thức
uyên thâm nhất cũng không cảm thấy chán và một em bé có trình độ còn non nớt
cũng không thấy khó hiểu "
5
.
Với ngôn ngữ không có tính đại chúng, tức là chỉ dành cho một đối tượng hạn
hẹp nào đó, báo chí khó có thể thực hiện được chức năng tác động vào mọi tầng
lớp quần chúng và định hướng dư luận xã hội. Và đây chính là lý do khiến cho
trong tác phẩm báo chí người ta ít dùng các thuật ngữ chuyên ngành hẹp, các từ
ngữ địa phương, tiếng lóng cũng như các từ ngữ vay mượn từ tiếng nước ngoài.
4. Tính ngắn gọn
Ngôn ngữ báo chí cần ngắn gọn, súc tích. Sự dài dòng có thể làm loãng thông
tin, ảnh hưởng đến hiệu quả tiếp nhận của người đọc, người nghe. Thêm vào đó, nó
còn làm tốn thời gian vô ích cho cả hai bên: cho người viết, vì anh ta sẽ không đáp
ứng được yêu cầu truyền tin nhanh chóng, kịp thời; cho người đọc ( người nghe ),
11
vì trong thời đại bùng nổ thông tin, người ta luôn cố gắng thu được càng nhiều
thông tin trong một đơn vị thời gian càng tốt. Đấy là còn chưa kể đến việc viết dài
dễ mắc nhiều dạng lỗi khác nhau, nhất là các lỗi về sử dụng ngôn từ ( thực tế khảo
sát của chúng tôi cho thấy một tỉ lệ khá lớn các câu sai về ngữ pháp trong các tác
phẩm báo chí có liên quan tới việc nhà báo quá ham mở rộng các thành phần phụ
mà quên mất các thành phần chính của câu ).
Câu nói nổi tiếng của đại văn hào Nga A. P. Chekhov có lẽ chính xác hơn cả với
phong cách ngôn ngữ báo chí: " Ngắn gọn là chị của thành công "
6
.
5. Tính định lượng
Các tác phẩm báo chí có tính định lượng về ngôn từ vì chúng thường bị giới hạn
trong một khoảng thời gian hay một diện tích nhất định. Vì thế, việc lựa chọn và
sắp xếp các thành tố ngôn ngữ cần kỹ lưỡng, hợp lý để phản ánh được đầy đủ
lượng sự kiện mà không vượt quá khung cho phép vè không gian và thời gian.
Hiện tại, không ít báo yêu cầu phóng viên, cộng tác viên khi viết bài không được
phép vượt quá một lượng chữ nhất định. Đối với những bài " không đặt trước "
biên tập viên buộc phải chỉnh lý, cắt xén cho thích ứng với việc công bố. Rồi ngay
trong số các cơ sở đào tạo nhà báo cũng có không ít nơi, khi tuyển sinh, đòi hỏi đối
tượng dự thi phải thử nghiệm khả năng định lượng của mình thông qua việc viết
một hay một số văn bản với độ dài cho sẵn.
Tính định lượng của ngôn ngữ báo chí giúp cho nhà báo rèn luyện được thói
quen chủ động trong việc sáng tạo tác phẩm. Nhờ đó, họ có thể dễ dàng thích nghi
với mọi điều kiện thời gian cũng như không gian được dành cho việc công bố
chúng.
6. Tính bình giá
Các tác phẩm báo chí không chỉ đưa thông tin về các sự kiện, mà còn phải thể
hiện công khai thái độ của tác giả đối với sự kiện thông qua sự bình giá ( có lẽ
trong các thể loại báo chí chỉ có tin vắn, tin ngắn là không có tính bình giá, tức là
tác giả thể hiên sắc thái biểu cảm trung tính ). Sự bình giá này có thể là tích cực mà
cũng có thể là tiêu cực, song trong bất kỳ tình huống nào nó cũng được biểu đạt
trực tiếp qua ngôn từ.
12
Chẳng hạn, có nhiều bài báo đã bộc lộ rõ thái độ, cảm xúc của tác giả ngay từ
tiêu đề như: " Góc tối ở thành phố cảng ", " Bông hoa Thủ đô giữa núi rừng Tây
Bắc ", " Lặng lẽ quá ... liên hoan phim ", " Giai điệu buồn của một đêm nhạc trẻ ",
" Đó cũng là một cách sống đẹp "...Còn trong các phần khác ( cả mở đầu, triển khai
lẫn kết thúc ) những câu văn mang sắc thái đánh giá của người viết còn gặp thường
xuyên hơn, nhất là ở các thể loại như bình luận, xã luận, phóng sự, ghi chép, ký...
7. Tính biểu cảm
Tính biểu cảm trong ngôn ngữ báo chí gắn liền với việc sử dụng các từ ngữ, lối
nói mới lạ, giàu hình ảnh, in đậm dấu ấn cá nhân, và do đó sinh động hấp dẫn hay
ít nhất cũng gây được ấn tượng đối với độc giả. Ví dụ:
" Ở những " cua " cấp tốc, chuyện thầy viết lia lịa lời giải ở trên, trò cắm cổ chép
như chép chính tả ở dưới vì không có thời gian giảng là " chuyện thường ngày ở
huyện ". ( Hà Nội mới cuối tuần, 18 / 4 / 1998 );
" Sông Tô mà không lịch ". ( Văn hoá, 17 / 5 /1999 ).
Nguồn gốc của sự biểu cảm trong ngôn ngữ báo chí là vô cùng phong phú và đa
dạng. Đó có thể là việc dùng các thành ngữ, tục ngữ, ca dao..., là sự vay mượn các
hình ảnh, từ ngữ, cách diễn đạt từ các tác phẩm văn học nghệ thuật, là lối chơi chữ,
nói lái, dùng ẩn dụ, v. v...hay chỉ đơn giản là việc thể hiện sự bình giá có tính chất
cá nhân
7
.
Nếu ngôn ngữ báo chí không có tính biểu cảm, những thông tin khô khan mà nó
chuyển tải khó có thể được công chúng tiếp nhận như mong muốn, vì chúng mới
chỉ tác động vào lý trí của họ. Chính tính biểu cảm vốn là hiện thân của cái hay, cái
hấp dẫn mới là nhân tố tác động mạnh mẽ tới tâm hồn của người nghe, người đọc,
làm cho họ đạt tới một trạng thái tâm lý cảm xúc nhất định, để rồi từ đó thực hiện
những hành động mà người viết vẫn chờ đợi.
8. Tính khuôn mẫu
Trước hết, cần phải làm rõ khái niệm " khuôn mẫu ". Đó là những công thức
ngôn từ có sẵn, được sử dụng lặp đi lặp lại nhằm tự động hoá quy trình thông tin,
làm cho nó trở nên nhanh chóng, thuận tiện hơn. Khuôn mẫu bao giờ cũng đơn
nghĩa và mang sắc thái biểu cảm trung tính. Chúng bao gồm nhiều loại và có mặt
13
trong nhiều phong cách chức năng của ngôn ngữ. Chẳng hạn trong văn phong báo
chí, khi viết các mẩu tin, người ta thường dùng các khuôn mẫu như:
- Theo AFP, ngày...tại...trong cuộc gặp gỡ...Tổng Bí thư...đã kêu gọi...
- TTXVN, ngày...người phát ngôn Bộ Ngoại giao... cho biết...
Giao tiếp báo chí không thể thiếu khuôn mẫu vì nó tiết kiệm thời gian và công
sức cho chủ thể sáng tạo, thích ứng với việc đưa tin cập nhật, tức thời.
Song, khác với khuôn mẫu trong văn bản hành chính và văn bản khoa học,
khuôn mẫu báo chí không cứng nhắc, bất di bất dịch mà rất linh hoạt, uyển chuyển.
Chẳng hạn, một thông tin trên báo về nguyên tắc phải thoả mãn 6 câu hỏi: Ai? Cái
gì? Ở đâu? Bao giờ? Như thế nào? Tại sao? nhưng thứ tự trả lời cho các câu hỏi đó
có thể được sắp xếp khác nhau tuỳ thuộc vào từng hoàn cảnh giao tiếp cụ thể.
Bên cạnh đó, các thành tố khuôn mẫu trong ngôn ngữ báo chí lại luôn kết hợp
hài hoà với các thành tố biểu cảm cho nên ngôn ngữ báo chí thường rất mềm mại,
hấp dẫn chứ không khô khan như ngôn ngữ trong văn bản khoa học và văn bản
hành chính, là nơi người ta chỉ sử dụng thuần nhất các thành tố khuôn mẫu mà
thôi.
Trên đây là một số tính chất cơ bản của ngôn ngữ báo chí. Với những tính chất
đặc thù như vậy, ngôn ngữ báo chí hoàn toàn có đủ tư cách để được xem là một
phong cách chức năng trong ngôn ngữ.
Chú thích
1. Đinh Trọng Lạc, Phong cách học tiếng Việt, NXB. Giáo dục, H., 1997, tr.19.
2. Đinh Trọng Lạc, Sđd., tr. 98 - 111.
3. Hữu Đạt, Phong cách học và các phong cách chức năng tiếng Việt, NXB. Văn
hoá - Thông tin, H., 2000, tr. 224 - 248.
4. Khi bài viết này được công bố, cuốn " Ngôn ngữ báo chí " của nhà nghiên cứu
Vũ Quang Hào còn chưa được xuất bản. Tác giả cuốn sách đó cho rằng đặc điểm
nổi bật nhất của ngôn ngữ báo chí có khả năng chế định phong cách của nhà báo là
sự " chệch chuẩn ". Không xem ngôn ngữ báo chí là một phong cách chức năng
14
riêng, ông đi sâu vào khảo sát 3 phong cách chức năng, mà theo ông, báo chí
thường sử dụng là: phong cách chính luận, phong cách khoa học và phong cách
hành chính.
Xem: Vũ Quang Hào, Ngôn ngữ báo chí, NXB. Đại học quốc gia, H., 2001.
5. Kostomarov V. G., Tiếng Nga trên trang báo, M., 1978, tr. 62 ( bằng tiếng
Nga ).
6. Lịch sử văn học Nga thế kỷ XIX, M., 1984, tr. 287 ( bằng tiếng Nga).
7. Vấn đề này chúng tôi trình bày khá cụ thể trong bài " Những thủ pháp nhằm
tăng cường tính biểu cảm trong ngôn ngữ báo chí ".
( Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền, số 3 / 2001 )
15
SỰ ĐAN XEN KHUÔN MẪU VÀ BIỂU CẢM TRONG NGÔN NGỮ BÁO CHÍ
Việc trình bày hay lập mã thông tin được thực hiện khác nhau trong các lĩnh
vực giao tiếp khác nhau. Chẳng hạn, trong lĩnh vực sản xuất - công nghệ người ta
thường dùng lối miêu tả kê khai: Tên gọi ... Đặc điểm... Trọng lượng .... Chức năng
... Người sản xuất...
Dưới đây là những dòng chữ được ghi trong một giấy chứng nhận sáng chế:
" Chiếc đèn nháy điện tử có tên gọi là " Electron " do nhà máy điện quang
Washington sản xuất là một dụng cụ có trọng lượng 250 g, có khả năng phát sáng
với công suất 20 j và làm việc nhờ hệ thống ắc qui ".
Song, vẫn thông tin nói trên, khi được đưa trên một tờ báo, lại có dạng thức như
sau:
" Một trong những nhà máy điện quang của Washington đã tạo nên một sự bất
ngờ thú vị cho những người yêu thích chụp ảnh. Ngọn đèn nháy điện tử " Electron
" nặng chỉ vẻn vẹn có 250 g. Tia chớp xinh xắn này làm việc nhờ hệ thống ắc qui có
thể nạp được điện từ những ổ cắm thông thường ".
Dễ dàng nhận thấy là thông tin trên báo sinh động và hấp dẫn hơn nhiều so với
những gì được ghi trên giấy chứng nhận sáng chế.
Nguyên nhân thật đơn giản: Trong ngôn ngữ báo chí, người ta đã đan xen một
cách hài hoà các thành tố khuôn mẫu với các thành tố biểu cảm; còn trong ngôn
ngữ có tính chất kê khai của một giấy chứng nhận sáng chế, người ta chỉ dùng
thuần nhất các thành tố khuôn mẫu mà thôi.
Nếu so sánh các phong cách chức năng trong ngôn ngữ về phương diện quan hệ
giữa khuôn mẫu và biểu cảm, chúng ta nhận thấy: Trong phong cách hành chính -
công vụ và phong cách khoa học, tính khuôn mẫu của cách thức diễn đạt đạt tới
mức tối đa, nghĩa là không còn chỗ cho các thành tố biểu cảm. Trong phong cách
văn học nghệ thuật, tính biểu cảm chiếm ưu thế so với tính khuôn mẫu; đặc biệt,
trong một số tác phẩm thơ, tính biểu cảm có thể đạt tới mức tối đa. Riêng trong
phong cách báo chí - chính luận, tính khuôn mẫu và tính biểu cảm của ngôn từ nằm
trong quan hệ tương đối hài hoà, cân bằng.
16
Các trường hợp đan xen khuôn mẫu và biểu cảm trong ngôn ngữ báo chí, nhìn
chung, có thể chia thành 3 kiểu chính như sau:
1. Đan xen trong phạm vi câu
Đây là sự đan xen ( chủ yếu là giữa các từ ) trong nội tại câu. Ví dụ:
"Không giống như nhiều tập đoàn khác bỏ hàng núi tiền để giành một suất
quảng cáo trên truyền hình hay các phương tiện thông tin đại chúng, Piaggio chơi
kiểu khác " độc " hơn và " cao tay " hơn: Đổ tiền vào sản xuất các bộ phim hay và
khéo léo lồng thương hiẹu của mình vào. Sau khi bộ phim " Kỳ nghỉ thành Rôma "
được trình chiếu ( 1954 ) với hai ngôi sao Gregorg và Herburrn luồn lách ngang
dọc trên các đường phố Rôma cùng con ong xinh xắn ( Vespa - tiếng ý có nghĩa là
con ong ), thì Vespa trở thành biểu tượng của nước ý ". ( Tuổi trẻ Thành phố Hồ
Chí Minh, 10 / 7 /2001 );
" Nhưng “chảo dầu sôi " trên sân Vinh với gần 3 vạn khán giả cuối cùng cũng
"nấu chín " đội Công an Hà Nội ". ( Lao động, 31 / 3 /2000 );
" Công - coóc từ trước đến nay vẫn được coi là phi cơ quý tộc vì những tiện
nghi và các ưu thế kỹ thuật " độc nhất vô nhị " của nó. ( Quân đội nhân dân, 3 / 9 /
2000 );
" Faustino asprila, " mũi tên đen " hay gây tranh cãi của Clombia mới đây thổ lộ
rằng... anh sẵn sàng từ chối một bản hợp đồng hàng triệu đô la tại một vương quốc
dầu lửa và muốn kết thúc sự nghiệp của mình tại đội " thường thường bậc trung "
Tutu của thành phố quê hương ". ( Thể thao và Văn hoá, 12 / 9 / 2000 );
" Lành mạnh " nhất trong các chiêu lôi kéo khách của những quán cà phê kiểu "
tục " là cho tiếp viên ... khoe " của ". ( Người lao động, 16 / 8 /2000 ).
2. Đan xen trong phạm vi đoạn văn
Đay là sự đan xen giữa các câu với nhau. Ví dụ:
" Trước hết, nợ của Chính phủ Nhật Bản rất cao, khoảng 9,3 % GDP hàng năm.
Đây là một quả bom nổ chậm đang ẩn trong nền kinh tế Nhật ". ( Hà Nội mới cuối
tuần, 21 / 12 / 1998 );
" Đảo đèn Long Châu đã dược phong danh hiệu anh hùng năm 1972. Người ta
gọi nó là " con mắt ngọc " của biển Đông ". ( Lao động, 11 / 4 /1998 );
17
" Hầu hết các thành viên Hội đồng quản trị, Tổng và các Phó Giám đốc, Trưởng
và các Phó ban đều làm việc chính tại Hà Nội. Đầu tuần, tất cả đều xuống Quảng
Ninh họp giao ban với một xe tuyến và gần hai chục xe con dành riêng cho các "
sếp ". ( Văn nghệ trẻ, 20 / 8 /2000 );
" Tuy nhiên, theo các nhà quan sát, mọi sự nói vậy mà không hẳn đã là vậy.
Trong chương trình làm việc mới được đưa ra kèm theo khoản viện trợ cả gói cho
kế hoạch " Cô - lum - bi - a ", Oa - sinh -tơn thực chất đã thay đổi một cách căn
bản nguyên tắc phối thuộc cùng Bô - gô - ta trong cuộc đấu tranh chống lại nạn
buôn bán ma tuý. Từ nay trở đi, người Mỹ không chỉ đứng đằng sau quân đội Cô -
lum - bi -a, mà với vai trò cố vấn huấn luyện, sẽ thực sự và trực tiếp nhúng tay vào
công việc nội bộ của Cô - lum - bi -a ". ( Quân đội nhân dân , 10 / 9 /2000 )...
3. Đan xen trong phạm vi kết cấu toàn văn bản
Ở đây, các thành tố biểu cảm được sử dụng để xây dựng những mảng màu đối
lập ở bậc kiến trúc của toàn bài. Đó có thể là:
a, Đối lập giữa tiêu đề với nội dung, ví dụ:
Nắm người có tóc
Trong vòng vài ngày qua, Đà Nẵng gần như chấm dứt hẳn nạn ùn tắc giao
thông vào các giờ tan học, tan tầm. Hiệu lực chỉ thị nghiêm cấm học sinh không
được đi học bằng xe gắn máy, mô tô của chính quyền, nhằm vãn hồi trật tự giao
thông trên đường phố có tác dụng thấy rõ. Gần chục ngàn học sinh của 7 trường
phổ thông trung học đã tự giác đến trường bằng xe đạp thay vì xe máy như trước
đây. Có thể nói đây là hiện tượng tích cực mà mà Đà Nẵng là một trong số rất ít đô
thị trong cả nước hiện nay làm được nhằm giảm thiểu tai nạn giao thông đang có
chiều hướng gia tăng mạnh mẽ trên khắp các địa phương trong cả nước... ( Lao
động, 13 / 1 / 2003 ).
Khôn ngoan chẳng lọ thật thà
Hai vợ chồng giàu có vào bậc nhất phố tôi, dạo này buồn rười rượi, rất năng đi
chùa lễ Phật. Hàng xóm thạo tin kháo nhau: Nhà ấy phất nhờ đánh hàng lậu biên
giới, vừa bại quả lớn, may mà không phải vào tù. Trời có mắt cả, được cái này mất
18
cái kia, lắm tiền " đen ' nên thằng con đầu đi xe máy ngã, cưa mất một chân, thằng
thứ hai, nghiện hút đang đi cai... ( Hà Nội ngày nay, số 8 / 1999 ).
b, Đối lập giữa phần mở đầu và phần triển khai, ví dụ:
" Lại nói Tôn Sách là con Tôn Kiên muốn nối chí cha xưng hùng xưng bá ở
Giang Đông, nhưng hiềm một nỗi là không có binh mã. Thủ hạ của Sách hiến kế
rằng: " Tướng quan nên đem ngọc tỷ của Tôn Phụ để lại, thế chấp cho Viên Thuật,
lấy quân mà thu phục Giang Đông ". Sách nghe theo. Viên Thuật giao cho Sách
3000 quân và 500 ngựa chiến để đổi lấy ngọc tỷ truyền quốc. Có quân mã trong tay,
lại được Chu Du giúp mẹo mực, chẳng bao lâu Tôn Sách đã làm chủ cả một vùng
Giang Đông rộng lớn ".
Nay trở lại quy chế lên bán chuyên nghiệp do LĐBĐVN đề ra cho các đội bóng
muốn tham dự.." ( Lao động, 21 / 7 /2000 ).
c, Đối lập giữa phần triển khai và phần kết thúc, ví dụ:
" Thiết nghĩ, Kodak là một công ty lớn, việc kinh doanh đã có uy tín, thương
hiệu sản phẩm nổi tiếng trên toàn thế giới, nhưng qua kiểu làm ăn " đánh trống
rồi... cất luôn dùi với VAFACO như vừa nêu gây thiệt hại cho đối tác hàng chục tỷ
đồng, đã tự hạ uy tín của mình và chứng tỏ " ông chủ lớn " đôi khi chỉ vì muốn thu
lợi cho nhiều mà tính toán rất " nhỏ "...
Rõ là:
" kinh doanh có ba, bảy đường
Anh chơi kiểu ấy khó lường về sau
Nên lấy chữ tín làm đầu
Giữa đường phản phé thì mau... sụp hầm ". ( Công an Thành phố Hồ
Chí Minh, 26 / 8 / 2000 ).
Thực tế khảo sát cho thấy, hầu hết các tác phẩm báo chí ( cho dù chúng có
thuộc về bất cứ thể loại nào ) đều sử dụng sự đan xen khuôn mẫu và biểu cảm như
là nguyên tắc cấu tạo về ngôn ngữ, song, tất nhiên là với mức độ và cách thức
không giống nhau. Chỉ trong một số dạng tin thời sự phản ánh các sự kiện chính trị
- xã hội quan trọng ( hoạt động của các nhà lãnh đạo, các cơ quan quyền lực cao
cấp của đất nước ) là có vẻ thiếu vắng các thành tố biểu cảm. Tuy nhiên, theo
19
chúng tôi thì ở ngay các tin kiểu này cũng không nên phủ nhận hoàn toàn vai trò
của việc đan xen khuôn mẫu và biểu cảm, mà ngược lại, phải biết hướng tới nó,
biết vận dụng nó một cách mềm mại, sao cho vừa không làm phương hại đến tính
khách quan của thông tin, vừa giúp cho độc giả phần nào bớt được cảm giác là
mình đang phải đọc một thông báo khô khan. Chúng ta có thể thấy rõ điều đó khi
đọc các tờ báo lớn, thu hút được một lượng độc giả đông đảo, của nước ngoài.
Vậy phải làm thế nào để cho ngôn ngữ báo chí có tính biểu cảm? Hay nói cụ
thể hơn, là làm thế nào để tăng cường giá trị biểu cảm cho các thành tố ngôn ngữ
được dùng trong tác phẩm của anh? Bài viết tiếp sau của chúng tôi sẽ phần nào giải
đáp cho câu hỏi không dễ dàng này.
( Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền, số 6 / 2000 )
20
MỘT SỐ THỦ PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG TÍNH BIỂU CẢM
TRONG NGÔN NGỮ BÁO CHÍ
Như chúng ta đều biết, chức năng quan trọng hàng đầu của báo chí là thông tin.
Nhưng nếu trong ngôn ngữ báo chí người viết chỉ dùng các từ ngữ, cách diễn đạt
có tính chất khuôn mẫu để phản ánh các sự việc, hiện tượng, vấn đề,... thì thông tin
khó tránh khỏi khô cứng, đơn điệu, thậm chí tẻ nhạt. Để khắc phục các nhược điểm
này, các tác giả đã sử dụng khá nhiều những thủ pháp nhằm tăng cường tính biểu
cảm khác nhau; và nhờ đó, thông tin của họ trở nên sinh động, hấp dẫn, dễ đọc và
dễ tiếp thu hơn đối với độc giả. Qua khảo sát sơ bộ, các thủ pháp nhằm tăng cường
tính biểu cảm cho ngôn ngữ báo chí có thể chia thành một số loại chính như sau:
1. Dùng từ ngữ hội thoại
Từ " hội thoại " ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, tức là nó không chỉ bao hàm
các từ thuộc vốn từ vựng của ngôn ngữ văn hoá được dùng đặc biệt trong lời nói
miệng, trong sinh hoạt hàng ngày, mà còn gồm cả một số từ thông tục và từ lóng,
vì những từ thuộc hai loại sau này cũng chỉ được chuyên dùng trong khẩu ngữ. Ví
dụ:
" Bằng cấp đầy người, anh vẫn chỉ là một nhân viên quèn ". ( Hà Nội mới chủ
nhật, 22 / 11 /1998 );
" Đã qua ngày rằm mà nhiều công sở vẫn còn vắng hoe. Điện thoại réo mệt nghỉ
vẫn không có ai trả lời ". ( Nhà báo và Công luận, số 10 / 1998 );
" Vòng đấu thứ 17 là vòng đấu " bốc mùi " nhất kể từ đầu giải. Những quan sát
viên khẳng định rằng cách mà Thừa Thiên - Huế " chết " trên sân Hà Nội còn " thô
" hơn so với cách mà Công an Hà Nội đã " nằm " trên sân Tự Do - trận đấu mà
BTC giải đã lôi hai đội ra " chém ", và bị dư luận phản ứng về cách " chém " nửa
vời ". ( Lao động, 25 / 5 /2001 );
" Thực tế thì Tú chẳng có xu gỉ nào để góp vốn ". ( An ninh thế giới, 6 / 3 /
1998 );
" Tôi... vội nháy anh bạn đồng nghiệp uống một hơi hết cốc cà phê đen, hấp tấp
nổ xe máy, dông thẳng ". ( lao động, 4 / 3 /1998 )...
21
Hiện nay, xu hướng chung trên thế giới là hội thoại hoá ngôn ngữ báo chí để nó
đơn giản hơn, gần gũi hơn với cuộc sống thường ngày. Chính vì thế, từ ngữ ( và
thậm chí cả cú pháp ) của ngôn ngữ hội thoại được dùng để tăng cường tính biểu
cảm trong các bài viết ngày càng phong phú và đa dạng.
Tuy nhiên, hội thoại hoá ngôn ngữ báo chí không có nghĩa là chúng ta được
phép bê nguyên xi ngôn ngữ đời thường với tất cả cái dáng vẻ thô ráp, xù xì, gai
góc của nó vào trong tác phẩm báo chí. Vì dù thế nào đi chăng nữa, ngôn ngữ trên
trang báo phải là một thứ ngôn ngữ đã được gọt giũa, được trải qua sự nhào nặn
của tác giả và phải đạt tới một sự chuẩn mực nhất định về văn hoá. Vì thế, tình
trạng lạm dụng quá mức các từ ngữ thuộc tiếng lóng hay các từ ngữ thô tục đang
diễn ra ở một số nhà báo và ở một số tờ báo ( nhất là các tờ báo dành cho thiếu
niên nhi đồng ) là rất đáng lo ngại, cần được quan tâm đúng mức và không chậm
trễ
1
.
2. Dùng từ ngữ vay mượn từ tiếng nước ngoài
Những từ ngữ dược vay mượn từ các ngôn ngữ Ấn - Âu có thể được giữ nguyên
dạng hay phiên âm. Ví dụ:
" Hơn một chút... họ sẽ là " Speaker " ( văn hoá, 18 / 1 /1998 );
" Tôi thấy không ít người giản dị mang những bộ đồ rát đẹp nhưng quả thực dó
không phải là cái đẹp modern hiện đại mà một nét đẹp rất riêng, cái đẹp của một
phong cách giản dị ... " ( Văn hoá- Tết 1999 );
" ... Ông ta không làm cho một tờ báo cụ thể nào mà chỉ hợp tác làm những
chuyên san về đời tư nghệ sỹ, thậm chí còn bới móc hay lăng xê vô tội vạ cho một
ai đó với mục đích chỉ là để ... có tiền " ( Tiền Phong, 21 / 5 / 2002 );
" Tôi vốn không thích táo nhưng thấy táo ngon mua vài quả dùng làm đét xe
cho bữa cơm chiều " ( Lao động, Xuân Mậu Dần, 1998 )...
Trong số các từ được vay mượn từ các ngôn ngữ Ấn - Âu, có khá nhiều từ đã
phần nào thích nghi với chuẩn mực của tiếng Việt cho nên được sử dụng khá rộng
rãi. Tuy nhiên, người ta vẫn dẽ dàng nhận thấy cái nguồn gốc ngoại loại của
chúng, chẳng hạn như: apphe, xêmina, makettinh, kiôt...
22
Còn các từ Hán - Việt thì được dùng quá phổ cập và đã trở thành một bộ phận
không thể thiếu của tiếng Việt. Song, không vì thế mà người ta không nhận thấy
khả năng tăng cường tính biểu cảm của chúng. Ví dụ:
" Quý hồ tinh bất quý hồ đa " ( Văn hoá, 25 / 2 /1998 );
" Về phía chủ quan, cũng nên thẳng thắn nhìn nhận những yếu kém, bất cập của
ta trong lĩnh vực này ..." ( Tuổi trẻ Thủ đô, số 6 / 1998 )...
Việc sử dụng các từ ngữ vay mượn từ tiếng nước ngoài cần có chừng mực để
tránh gây phản cảm cho người đọc, vì sự xuất hiện quá nhiều các từ không thuần
Việt trong một văn bản báo chí không chỉ làm cho ngôn ngữ của nó có vẻ không
trong sáng mà còn tạo ấn tượng rằng người viết muốn " khoe chữ ". Bên cạnh đó,
những từ ngữ được lựa chọn phải có những ưu thế thật sự nổi trội so với các từ
hoặc những cách diễn đạt tương đương trong tiếng Việt ( Chẳng hạn như diễn đạt
khái niệm rõ ràng, đầy đủ, chính xác hơn; hoặc có vỏ âm thanh nghe gợi cảm
hơn ) và đồng thời phải tương đối quen thuộc đối với công chúng ( tức được dùng
thường xuyên trong giao tiếp ) để không gây cản trở gì đáng kể cho quá trình nhận
thức của độc giả.
3. Dùng thuật ngữ
Các thuật ngữ, xét theo tự thân, là những từ trung tính, tức không mang sắc thái
biểu cảm. Thế nhưng, khi được kết hợp hài hoà với các từ khuôn mẫu, chúng lại
có khả năng tăng cường tính biểu cảm rất đáng kể. Ví dụ:
" Với biểu tượng về sức mạnh vô song, hổ là hình ảnh để nói sự đứng đầu xuất
chúng: chúa sơn lâm. Bằng tư duy, bằng hành động thực tiễn, con người luôn văn
hoá hoá thế giới xung quanh" ( Ngôn ngữ và Đời sống, số 2 / 1998 );
" Sự thành công của những hạng mục đầu tiên sẽ tạo nên sự hấp dẫn, thu hút các
nhà đầu tư vào liên doanh, liên kết để có thể triển khai dự án " ( Nhân dân hằng
tháng, số 5 / 1998 );
" Ít thích lý luận trừu tượng, tự biện, kinh viện, giàu óc thực tế, nắm bắt nhanh
kỹ thuật, gắn lý luận với tình cảm, về gần cái chân chất, bình dị...đó cũng là nét khu
biệt của văn hoá Nam Bộ " ( Thể thao và Văn hoá, Xuân Mậu Dần / 1998 );
23
" Đây là một bước ngoặt vì từ trước đến nay đảng LDP cầm quyền vẫn chủ
trương cắt giảm thâm thủng ngân sách bằng mọi giá " ( Hà Nội mới cuối tuần, 21 /
2 /1998 )...
Hiện nay, do khoa học kỹthuật phát triển mạnh, nhiều lĩnh vực nghiên cứu mới
ra đời, cho nên số lượng thuật ngữ gia tăng nhanh chóng và chúng xuất hiện với
mật độ ngày càng dày trên các báo.
4. Dùng từ ngữ địa phương
Các từ ngữ địa phương luôn mang đậm dấu ấn riêng về lời ăn tiếng nói của một
cộng đồng người gắn liền với một vùng đất, vì thế chúng làm cho câu văn có sắc
thái mới lạ, đôi khi khá giàu sức gợi.
Các từ ngữ địa phương có thể gặp trong ngôn ngữ của tác giả cũng như trong
ngôn ngữ nhân vật. Ví dụ:
"Ước mong sao đến đâu ta cũng gặp những cái chạnh ( xóm, tiếng Nghệ An -
H A.) như ở Liên Trì, bắt gặp những con người từ chạnh ra đi " ( Lao động, 4 / 4 /
2002 );
" Huế ơi, biết về mô bây chừ? " ( Gia đình, số 5 / 2000 );
" Bà Ngô Thị Của ( 67 tuổi ) - Hội trưởng Hội Phụ nữ làng cố giấu sự xấu hổ":
" Đúng là có chuyện đó thiệt, cũng là do đời sống mà ra cả. Nói mô xa, chỉ nhìn
sang mấy làng bên tê núi là đêm nằm tủi thân muốn khóc hết nước mắt. Nhưng nói
gì thì nói, mấy chục năm giải phóng lên, làng Cổ Dù đã thay đổi nhiều lắm rồi.
Trước phần vì đói, phải ăn độn, phần vì uống nước đục, gái trai, già trẻ làng ni đều
bụng phình to như bụng chửa, mặt bủng, da chì " ( Lao động, 20 / 3 / 2003 );...
Dễ dàng nhận thấy là trong ngôn ngữ nhân vật, từ ngữ địa phương xuất hiện
một cách tự nhiên như là sự phản ánh chân xác lời ăn tiếng nói của họ, vì thế tính
biểu cảm của chúng có vẻ như không được cao bằng so với các từ ngữ địa phương
được chuẩn bị kỹ lưỡng về mọi phương diện trong ngôn ngữ tác giả.
5. Sử dụng chất liệu văn học
Các chất liệu văn học có mặt rộng rãi trong hầu hết các thể loại báo chí, theo
nhiều cách thức khác nhau. Nhưng những cách thức thường gặp nhất là vay mượn
cốt truyện, hình ảnh hay từ ngữ, cách diễn đạt từ các tác phẩm văn học
2
. Ví dụ:
24
" Trong tiểu thuyết " Đất vỡ hoang " của nhà văn Xô Viết Sôlôkhôp có miêu tả
một ông chủ tịch nông trang Nagunôp không chịu được tiếng gáy của con gà nhà
một mụ hàng xóm. Cứ đúng lúc ông ngủ say thì phải bừng thức vì con gà nhà nọ cất
tiếng gáy. Nó gáy mới oai vệ, mới thách thức, mới trêu ngươi. Không chịu nổi tiếng
con gà, ông chủ tịch mới dùng quyền hành tìm đến nhà nọ bóp chết con gà.
Với ông bạn tôi thì lại khác, ông lại mang con gà nhà mình đến gáy ở thiên hạ.
Thói đời vẫn vậy, con gà tức nhau tiếng gáy tất sinh lắm chuyện, trước hết là
chuyện sĩ diện, sau đến hao tiền tốn của. Ông bạn tôi là chủ một công ty nhỏ.
Người ta tán ông nên đưa hàng đi triển lãm quốc gia, hàng của ông phải nổi tiếng
cả nước. Nổi tiếng trong nhà coi như vứt, như áo gấm đi đêm..." ( Nông nghiệp
Việt Nam, 10 / 4 / 2002 );
" Cảng Sài Gòn: Đâu là gót chân A-sin? ( Tuổi trẻ TP HCM 27 / 5 /2001 );
" Bản quyền âm nhạc: - cuộc chiến của chàng Đôn kihôtê chống lại cối xay gió (
Gia đình và Xã hội, số 34 / 2002 );
" Ngày 15 / 5 Leverkusen sẽ chơi trận chung kết tranh cúp Đức với Schaltre 04
trước khi gặp Real Madrid trong trận tranh cúp C1. Không biết câu lạc bộ này thi
đấu ra sao. Cầu chúc cho ước mơ ban đầu của học không trở thành " miếng da lừa "
( Tiền phong, 12 / 5 /2002 );
" Buồn vui cũng một hội này chùa Hương "; " Lời vui có một khúc này " ( Hà Nội
mới cuối tuần, 21 / 2 /1998 );
" Nghề chơi cũng lắm công phu " ( Đầu tư, 9/ 3 /1998 );
" Điều lệ bảo hiểm có những quy định theo kiểu " sống chết mặc bay " ( Gia
đình và Xã hội , số 68 / 2001 );
...Với đội bóng Liverpool : Không có nơi nào đẹp như Rôma " ( Thể thao và văn
hoá, 20 / 2 /2001 )...
6. Sử dụng thành ngữ, tục ngữ, danh ngôn... cùng các biến thể của chúng
Các phương tiện ngôn ngữ này thường có ý nghĩa rõ ràng, dễ hiểu, lại xuất hiện
với tần số cao trong hoạt động giao tiếp thường ngày ( nhất là thành ngữ, tục ngữ )
3
, cho nên việc sử dụng chúng rất thuận lợi đối với cả người viết lẫn người đọc.Ví
dụ:
25