Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ LAO PHỔI AFB ÂM TÍNHTÓM TẮT Mục tiêu: Xác định doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.75 KB, 21 trang )

CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ LAO PHỔI AFB ÂM TÍNH

TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định chẩn đoán và điều trị lao phổi AFB âm tính.
Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang phân tích. Phân tích
tất cả bệnh nhân từ 16 tuổi trở lên, được chẩn đoán xác định lao phổi AFB
âm tính và điều trị lao từ tháng 06/2003 đến tháng 06/2006.
Kết quả: Có 197 bệnh nhân lao phổi mới (109 nam và 89 nữ). Tuổi
trung bình là 32,7 ± 11,3 tuổi; (ranh giới 16 – 85). Thường gặp ở lứa tuổi từ
21 – 60 (84,77%). Biểu hiện lâm sàng bao gồm sốt, ớn lạnh về chiều; mệt
mỏi, chán ăn, sụt cân; ho khan hoặc ho khạc đàm, đôi khi ho ra máu; ít gặp
đau ngực và khó thở. 100% trường hợp đều có sang thương lao trên X-quang
phổi, (chủ yếu là dạng thâm nhiễm (84,77%), phì đại hạch rốn phổi và trung
thất (31,98%), hình hạt kê (16,24%) và 5,58% là hình hang); một bên nhiều
hơn hai bên (81,22% so với 18,78%), bên phải nhiều hơn trái (46,70% so với
34,52%). Sang thương lao trên X-quang phổi thường gặp là mức độ nhẹ
(46,7%), kế đến là mức độ trung bình (28,43%) và ít nhất là mức độ nặng
(24,87%). Phản ứng lao tố trong da dương tính chiếm 73,1%. Số lượng bạch
cầu trong giới hạn bình thường hoặc tăng nhẹ. Tốc độ lắng máu tăng. Tất cả
các trường hợp đều đáp ứng với điều trị lao sau 6 – 8 tháng.
Kết luận: Chẩn đoán lao phổi AFB âm cần phối hợp phân tích biểu
hiện lâm sàng và cận lâm sàng (đặc biệt, phân tích X-quang phổi, phản ứng
lao tố, số lương bạch cầu ) và đồng thời, điều trị lao thành công cũng là một
bằng chứng xác định chẩn đoán lao.
ABSTRACT
Objective: to determine the diagnosis and treatment of negative AFB
pulmonary tuberculosis.
Methods: Analytical cross-sectional study. To analyse all patients
over 16 years old diagnosed negative AFB pulmonary tuberculosis and
treated by anti-tuberculosis drugs from 06/2003 to 06/2006.
Results: There were 197 cases (109 male and 89 female patients). The


average age was 32,7 ± 11,3 (age range, 16 – 85). Most of them were from
20 – 40 (84,77%). Clinical symptoms included fever, chilly, fatigue,
anorexia, loss of weight, nonproductive or productive cough, sometimes
haemoptysis, seldom chest pain or dyspnea. 100% of cases had tuberculous
lesions on the chest X-rays (mainly, infiltration (84,77%), hilar and
mediastinal adenopathy (31,98%), miliary lesion (16,24%) and 5,58% of
cavity); unilateral lung more than bilateral lung (81,22% versus 18,78%),
right side more than left side (46,70% versus 34,52%). Tuberculous lesions
on the chest X-rays were often mid level (46,7%), next to average level
(28,43%) and severe level (24,87%). Positive PPD skin test was 73,1%.
White blood cells were normal or light high. Sedimentation was high. All of
them responded successfully to anti-tuberculosis drugs in 6 – 8 months.
Conclusion: The diagnosis of negative AFB pulmonary tuberculosis
needed combination of analysis of clinical symptoms and laboratory test
(especially in analysing chest X-rays, PPD skin test and white blood cells ) and
simultaneously, successful anti-tuberculosis therapy was also a evidence to
determine tuberculosis.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay trên thế giới có khoảng 2,2 tỉ người nhiễm lao (chiếm 1/3
dân số thế giới) theo số liệu công bố của WHO năm 2004, ước tính trong
năm 2003 có thêm khoảng 8 – 9 triệu người mắc lao mới và 2 triệu người
chết do lao. Khoảng 95% bệnh nhân lao và 98% số người chết do lao ở các
nước có thu nhập vừa và thấp, 75% số bệnh nhân lao cả nam và nữ ở độ tuổi
lao động. Đặc biệt, đại dịch HIV/AIDS đang lan rộng làm bùng phát bệnh
lao trong cộng đồng cũng như làm thay đổi các biểu hiện lâm sàng và cận
lâm sàng của bệnh lao. Lao và đại dịch HIV/AIDS là nguyên nhân gây tử
vong đứng hàng thứ 2 trên thế giới (WHO). Bệnh lao gây tổn thương chủ
yếu ở phổi (chiếm đến 90%) nhưng chỉ có khoảng 60% trường hợp AFB
dương tính qua soi đàm trực tiếp (nguồn lây chủ yếu trong cộng
đồng)

(9,11,13,18,19)
.
Ở Việt Nam, bệnh lao vẫn còn là một vấn đề lớn của sức khoẻ cộng
đồng, đứng hàng thứ 12 trong 23 nước có số trường hợp bệnh lao cao trên
toàn thế giới (TCYTTG - 2001) và đứng hàng thứ 3 sau Trung Quốc và
Philippines về số lượng bệnh nhân lao trong khu vực Tây Thái Bình Dương.
Chương trình chống lao quốc gia cùng phối hợp với TCYTTG phân tích và
ước tính nguy cơ nhiễm lao hàng năm ở Việt nam là 1,7%. Đồng thời, có
khoảng 40% các trường hợp lao phổi AFB âm tính trong đàm qua soi cấy
trực tiếp
(3,4,12)
. Do đó, nếu chương trình chống lao chỉ tập trung điều trị cho
những trường hợp lao phổi AFB dương tính sẽ bỏ sót rất nhiều bệnh nhân
lao phổi AFB âm tính trong cộng đồng và là nguồn lây lao tiềm ẩn trong
cộng đồng. Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu xác định chẩn đoán
và điều trị lao phổi AFB âm tính nhằm tìm trị nguồn lây và giảm nguy cơ lây
lan lao trong cộng đồng.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Loại hình nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang phân tích
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả bệnh nhân từ 16 tuổi trở lên, được chẩn đoán xác định lao phổi
AFB âm tính và điều trị lao từ tháng 06/2003 đến tháng 06/2006 tại Phòng
khám phổi, Bệnh viện Đại Học Y Dược, thỏa các tiêu chuẩn sau:
Tiêu chuẩn chẩn đoán xác định lao phổi AFB âm tính
· Có triệu chứng lâm sàng gợi ý đến lao: sốt, ớn lạnh về chiều, sụt
cân, ho khan hoặc ho khặc đàm kéo dài trên hai tuần (có thể có ho khạc đàm
vướng máu hoặc ho ra máu), đau ngực, khó thở
· Có bất thường trên X-quang phổi gợi ý đến nguyên nhân do vi
trùng lao

· Xét nghiệm soi trực tiếp 6 mẫu đàm có AFB âm tính
· Không đáp ứng với điều trị bằng kháng sinh thường sau 2 tuần
· Có đáp ứng về triệu chứng lâm sàng và X-quang phổi với điều trị
bằng thuốc kháng lao
Tiêu chuẩn loại trừ
· Các trường hợp AFB dương tính trong đàm qua soi cấy
· Lao phổi tái phát
· Lao phổi phối hợp với lao ngoài phổi
· Bệnh nhân bỏ trị, không tuân thủ thời gian điều trị lao
Phương pháp nghiên cứu
Các bệnh nhân sẽ được hỏi bệnh sử, thăm khám lâm sàng, làm các xét
nghiệm máu, soi tìm AFB trực tiếp trong đàm (6 mẫu), chụp X-quang phổi
thẳng và nghiêng, thử phản ứng lao tố trong da (IDR), xét nghiệm công thức
máu, tốc độ máu lắng tại lần khám đầu tiên. X-quang phổi sẽ được mô tả cụ
thể cho từng trường hợp, sau đó sẽ được phân loại mức độ sang thương lao
theo Hiệp Hội Lồng Ngực Hoa Kỳ. Trong một số trường hợp cần làm CT
scan ngực, nội soi phế quản để giúp chẩn đoán. Và tất cả bệnh nhân lao phổi
AFB(-) sẽ được chẩn đoán xác định sau khi điều trị lao được 1 – 2 tháng tấn
công. Các bệnh nhân được điều trị lao theo phác đồ của chương trình chống
lao của TCYTTG và của Hiệp hội lồng ngực Hoa Kỳ (ATS). Ngoài ra, bệnh
nhân được giải thích rõ tình trạng bệnh và được theo dõi điều trị qua tái khám
mỗi 2 tuần cho đến 1 tháng. Tại thời điểm kết thúc giai đoạn tấn công và kết
thúc quá trình điều trị thuốc kháng lao, bệnh nhân sẽ được chụp X-quang phổi
kiểm tra để theo dõi đáp ứng điều trị lao cũng như giúp khẳng định chẩn đoán
xác định lao phổi AFB/đàm âm tính. Đáp ứng về phương diện lâm sàng là
bệnh nhân hết triệu chứng sau khi kết thúc giai đoạn điều trị tấn công. Đáp
ứng với điều trị về phương diện X-quang phổi là tổn thương xóa sạch hoàn
toàn hoặc chỉ còn sẹo xơ sau khi kết thúc điều trị.
Phân tích sang thương lao trên X-quang phổi dựa theo phân loại của
Hiệp Hội Lồng Ngực Hoa Kỳ (ATS, 1990) như sau

- Sang thương lao mức độ nhẹ (kí hiệu I): Sang thương không có
hang, tổng diện tích tổn thương một hoặc hai bên phổi không vượt quá một
phân thùy phổi.
- Sang thương lao mức độ trung bình (kí hiệu II): Sang thương một
hoặc cả hai bên phổi, tổng diện tích tổn thương không vượt quá giới hạn một
thùy phổi và tổng đường kính các hang lao không quá 4 cm.
- Sang thương lao mức độ nặng (kí hiệu III) : Sang thương nặng hơn ở
mức độ trung bình (II), nghĩa là tổng diện tích tổn thương một hoặc hai bên
phổi vượt qua một thùy phổi hoặc chiếm cả một bên phổi và tổng đường kính
các hang trên 4 cm.
Thống kê và xử lý số liệu
Chúng tôi dùng phần mềm EXCEL 2003 để nhập và quản lý số liệu và
dùng phần mềm STATA phiên bản 6.0 để phân tích số liệu. Các đặc điểm về
lâm sàng và cận lâm sàng được phân tích bằng các test thống kê thích hợp,
giá trị P £ 0,05 được đánh giá là có ý nghĩa thống kê. Các mối liên quan
được xem xét bằng tỉ số nguy cơ tương đối (RR: Relative Risk) và độ tin cậy
95% (95% Confidence Interval).
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Từ tháng 06/2003 – 06/2006, có 197 trường hợp lao phổi AFB âm tính
được chẩn đoán và điều trị lao tại Phòng khám phổi, Bệnh viện Đại Học Y
Dược.
Đặc điểm dịch tễ học
Có 109 trường hợp nam (55,33%) và 89 trường hợp nữ (44,67%). Tỉ
lệ mắc bệnh nam:nữ là 1,23:1. Tuổi trung bình là 32,7 ± 11,3 tuổi; tuổi nhỏ
nhất là 16 và tuổi lớn nhất là 85 tuổi. Có 75 trường hợp (47,17%) cư ngụ tại
TP. Hồ Chí Minh và 122 trường hợp (52,83%) cư ngụ ở tỉnh khác. Về thói
quen hút thuốc lá, 108 trường hợp (54,82%) không hút thuốc, 53 trường hợp
(26,90%) hút thuốc lá từ 1 – 20 gói/năm, và 36 trường hợp (18,27%) hút trên
20 gói/năm.
Bảng 1: Phân bố lứa tuổi

Lứa
tuổi
Số tr.hợp (%)
≤ 20 9 (4,57%)
tuổi
21 –
40 tuổi
114 (57,87%)
41 –
60 tuổi
53 (26,90%)
≥ 61
tuổi
21 (10,66%)
Bảng 2: Tiền căn bệnh lý phổi và bệnh phối hợp
Tiền căn Số tr.hợp
(%)
Bệnh phổi tắc
nghẽn mạn tính
73
(37,06%)
Không có
bệnh lý phổi
124
(62,94%)
Đái tháo
đường týp 2
18
(9,14%)
Nhiễm HIV 5 (2,54%)


Triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng:
Bảng 3: Thời gian khởi bệnh
Th
ời gian khởi
bệnh
S
ố tr.hợp
(%)
< 1/2 tháng 95
(48,22%)
1/2 – 1 tháng 74
(37,56%)
> 1 tháng 28
(14,21%)
Bảng 4: Triệu chứng lâm sàng
Triệu chứng
lâm sàng
Số tr.hợp
(%)
Sốt ớn lạnh
về chiều
146
(74,11%)
Triệu chứng
lâm sàng
Số tr.hợp
(%)
Mệt mỏi,
chán ăn, sụt cân

134
(68,02%)
Ho khan 129
(65,48%)
Ho khạc đàm 61
(30,96%)
Ho khạc đàm
vướng máu
7 (3,55%)

Khó thở 23
(11,68%)
Đau ngực 19
(9,64%)
Bảng 5: Các dạng sang thương trên X-quang phổi
Các dạng sang Số
thương tr.hợp
Thâm nhiễm 167
(84,77%)
Hình hạt kê 32
(16,24%)
Hình hang 11
(5,58%)
Phì đại hạch
rốn phổi, trung thất
63
(31,98%)
Xơ mô kẽ phổi 73
(37,06%)
Khí phế thũng 44

(22,34%)
Bảng 6: Vị trí và mức độ sang thương lao trên X-quang phổi (theo
ATS)
Số
tr.hợp
Bên
trái
68
(34,52%)
Bên
phải
92
(46,70%)
Vị
trí sang
thương lao

Hai
bên
37
(18,78%)
Nhẹ 92
(46,7%)
Trung
bình
56
(28,43%)
M
ức
độ

Sang
thương lao

Nặng 49
(24,87%)
Bảng 7: Phản ứng lao tố trong da (IDR)
IDR Số tr. hợp
(%)
≤ 10 mm

53 (26,90%)
11 – 15
mm
120 (60,92%)
> 15 mm

24 (12,18%)
Bảng 8: Số lượng bạch cầu
Số lượng
bạch cầu
Số tr. hợp
(%)
<
10.000/mm
3

128
(64,97%)
10.000 –
15.000/mm

3

45 (22,85%)
>
15.000/mm
3

24 (12,18%)
Bảng 9: Tốc độ lắng máu trung bình
Tốc độ
lắng máu
Giá trị trung
bình
Giờ thứ
nhất
32,87 ±
9,47mm
Giờ thứ
hai
48,29 ±
14,52mm
Bảng 10: Kết quả các xét nghiệm khác
S
ố tr.
hợp (%)
Đư
ờng huyết lúc
đói > 140 mg%
18
(9,14%)

ELISA – HIV (+) 5
(2,54%)
Hiệu quả điều trị lao
197 trường hợp (100%) đáp ứng tốt với điều trị lao sau 6 – 8 tháng.
Sau thời gian điều trị lao 1/2 – 2 tháng trong giai đoạn tấn công, các triệu
chứng lâm sàng cải thiện rõ rệt (tổng trạng khá hơn, ăn ngủ được, lên cân,
giảm ho, hết sốt, hết đau ngực ); sang thương lao trên X-quang phổi thu hẹp
diện tích, có khuynh hướng xơ hóa, vôi hóa
Bảng 11: Thời gian cải thiện hết sang thương trên X-quang phổi
Thời
gian
Số tr. hợp (%)
Sau
1 tháng
78 (39,59%)
Sau
2 tháng
59 (29,95%)
Sau
4 tháng
42 (21,32%)
Sau
6 tháng
18 (9,14%)
Bảng 12: Kết quả điều trị
Phác
đồ
Số tr. hợp (%)
6
tháng

137 (69,54%)
8
tháng
60 (30,46%)
BÀN LUẬN
Trong 197 trường hợp lao phổi AFB âm tính, có 109 trường hợp nam
(55,33%) và 89 trường hợp nữ (44,67%). Tỉ lệ mắc bệnh nam:nữ là 1,23:1.
Trong nghiên cứu của chúng tôi tỉ lệ chênh lệch giữa nam và nữ không đáng
kể. Theo đánh giá của Tổ chức y tế thế giới tại Việt nam thì việc chênh lệch
về giới tính trong chẩn đoán và phát hiện bệnh lao là không được rõ ràng.
Nhưng trong các nghiên cứu lớn gần đây lại ghi nhận tỉ lệ nữ dao động từ 26
– 29%. Điều này có thể lý giải do nam giới đóng vai trò chính lao động trong
gia đình, đồng thời nam giới cũng có nhiều nguy cơ hơn nữ giới (lao động
quá, hút thuốc lá, uống rượu ) làm suy giảm sức đề kháng dẫn đến thúc đẩy
nhanh tiến trình của bệnh lao
(2,4)
.
Tuổi trung bình là 32,7 ± 11,3 tuổi; tuổi nhỏ nhất là 16 và tuổi lớn
nhất là 85 tuổi. Lứa tuổi thường gặp nhất từ 21 – 60 tuổi chiếm 84,77%. Tỉ
lệ này phù hợp với báo cáo tổng kết chương trình chống lao quốc gia giai
đoạn 1996 – 2000 của Nguyễn Việt Cồ
(3)
ghi rõ: ở người lớn , bệnh lao gặp
phổ biến ở người nghèo, lứa tuổi từ 16 – 55 tuổi, cao nhất trong lớp người
25 – 40 là những người đang đóng góp nhiều nhất cho xã hội. Điều này cũng
phù hợp với các nghiên cứu khác trên thế giới
(15,16)
. Nghiên cứu về kinh tế y
tế, khi mắc bệnh , một bệnh nhân lao sẽ mất trung bình 3 – 4 tháng lao động,
tương đương với 20 – 30% thu nhập bình quân của gia đình trong năm. Bệnh

lao đã tác động mạnh tới 70% đối tượng lao động chính của xã hội, làm lực
lượng sản xuất bị giảm sút. Qua kết quả này, một lần nữa chúng ta thấy rằng,
bệnh lao vẫn còn là một vấn đề của xã hội, nó đã tác động mạnh mẽ đến lực
lượng lao động chính của xã hội. Ngoài ra, nhóm tuổi lao động này lại có nhiều
quan hệ xã hội nên một khi họ bị mắc lao, nếu không được chẩn đoán và điều
trị kịp thời, thì chính họ là nguồn lây quan trọng cho xã hội.
Đa số bệnh khởi phát dưới 1 tháng (chiếm 85,79%), phần lớn trường
hợp đều đã điều trị kháng sinh trên hai tuần nhưng không cải thiện triệu
chứng, bệnh nhân vẫn còn sốt, ớn lạnh về chiều (74,11%); mệt mỏi, chán ăn,
sụt cân (68,02%); ho khan (65,48%) hoặc ho khạc đàm (30,96%), đôi khi ho
ra máu (3,55%), cũng như đau ngực (9,64%) và khó thở (11,64%). Biểu hiện
triệu chứng lâm sàng trong nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với Perez
G.C. et al
(15)
và Couser J.I. et al
(16)
, chủ yếu là sốt ớn lạnh về chiều, chán ăn,
sụt cân, ho khan hoặc ho khạc đàm, rất ít khi đau ngực và khó thở. Vì tất cả
những bệnh nhân này đều có soi AFB trong đàm âm tính nên chẩn đoán
bệnh ban đầu chưa đúng, bệnh nhân đã bị lầm chẩn đoán với một viêm phổi
thông thường làm cho việc điều trị không chính xác dẫn đến tình trạng bệnh
kéo dài và ngày càng nặng hơn. Do đó, ngoài các biểu hiện triệu chứng lâm
sàng, bệnh nhân cần được phân tích cẩn thận X-quang phổi thẳng và
nghiêng, công thức bạch cầu, phản ứng lao tố, sẽ giúp chẩn đoán chính
xác hơn. Trong nghiên cứu của chúng tôi, các dạng sang thương lao thường
gặp trên X-quang phổi là thâm nhiễm (84,77%), kế đến phì đại hạch rốn
phổi và trung thất (31,98%), hình hạt kê gặp ít hơn (16,24%) và ít nhất là
hình hang chỉ có 5,58%. Đa số các trường hợp sang thương lao khu trú một
bên nhiều hơn lan tỏa hai bên (81,22% so với 18, 78%), bên phổi phải nhiều
hơn trái (46,70% so với 34,52%). Tỉ lệ các dạng sang thương lao ở trên cũng

phù hợp với mức độ sang thương lao trên X-quang phổi (theo phân loại của
ATS) thường gặp nhất mức độ nhẹ (46,7%), kế đến là mức độ trung bình
(28,43%) và ít nhất là mức độ nặng (24,87%). Hình ảnh sang thương trên X-
quang phổi đóng vai trò rất quan trọng trong việc định hướng chẩn đoán lao,
đặc biệt khi phổi hợp với các biểu hiện khác như triệu chứng lâm sàng, phản
ứng lao tố trong da, xét nghiệm máu (chủ yếu là công thức bạch cầu ). Theo
nghiên cứu của chúng tôi, phản ứng lao tố trong da dương tính (IDR > 10
mm) chiếm 73,1%. Điều này cũng phù hợp với nghiên cứu của Bùi Xuân
Tám và cộng sự
(6)
(IDR dương tính:83%), và của các tác giả nước ngoài 70 –
95%. Phản ứng lao tố trong da biểu hiện tình trạng nhiễm lao trước đó, là xét
nghiệm không thể thiếu giúp hướng đến chẩn đoán bệnh, đặc biệt những
trường hợp lao phổi AFB âm tính có sang thương trên X-quang phổi. Đa số
các trường hợp có số lượng bạch cầu trong giới hạn bình thường (chiếm
64,97%) và số lượng bạch cầu rất ít khi tăng trên 15.000/mm
3
. Đây cũng là
điểm khác biệt so với nhiễm trùng phổi do vi trùng thường (đa số các trường
hợp số lượng bạch cầu tăng cao trên 15.000/mm
3
). Điều này cũng phù hợp
với trong y văn. Trong nghiên cứu của chúng tôi, đa số các trường hợp có
biểu hiện tốc độ lắng máu đều tăng trong giờ đầu và giờ thứ hai. Mặt khác
chúng tôi cũng ghi nhận 18 trường hợp có đái tháo đường týp 2 kèm theo và
5 trường hợp có nhiễm HIV. Đây là những bệnh lý thường làm suy giảm sức
đề kháng của ký chủ tạo điều kiện cho bệnh lao bùng phát. Đồng thời, chúng
tác động xấu, làm giảm hiệu quả điều trị lao nếu chúng ta không khống chế
đường huyết và tăng sức đề kháng của ký chủ.
Về hiệu quả điều trị lao, 197 trường hợp (100%) đáp ứng tốt với điều

trị lao sau 6 – 8 tháng, gồm 137 trường hợp (69,54%) hoàn tất phác đồ điều
trị lao 6 tháng và 60 trường hợp (30,46%) hoàn tất phác đồ điều trị lao 6
tháng. Sau thời gian điều trị lao 1/2 – 2 tháng trong giai đoạn tấn công, các
triệu chứng lâm sàng cải thiện rõ rệt (tổng trạng khá hơn, ăn ngủ được, lên
cân, giảm ho, hết sốt, hết đau ngực ); sang thương lao trên X-quang phổi
thu hẹp diện tích, có khuynh hướng xơ hóa, vôi hóa và bạch cầu về bình
thường. Trong đó, 69,54% trường hợp tổn thương trên X-quang phổi cải
thiện hết sau 1 – 2 tháng điều trị, chỉ có 9,14% trường hợp sau 6 tháng điều
trị. Sau khi hoàn tất điều trị tất cả các trường hợp đều cải thiện tốt các triệu
chứng lâm sàng, và cận lâm sàng (sang thương xóa sạch hoàn toàn hoặc chỉ
còn sẹo xơ trên X-quang phổi). Bệnh nhân có đáp ứng thành công với điều
trị lao cũng là một bằng chứng giúp xác định chẩn đoán lao phổi.
KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi đã cho thấy vấn đề chẩn đoán và
điều trị lao phổi AFB âm tính đòi hỏi phải phân tích biện luận hợp lý các
biểu hiện lâm sàng và cận lâm sàng, trong đó X-quang phổi thẳng nghiêng,
phản ứng lao tố trong da và số lượng bạch cầu đóng vai trò quan trọng giúp
định hướng chẩn đoán lao phổi một cách chính xác và tiến hành điều trị lao kịp
thời nhằm tránh kéo dài thời gian bệnh và giảm chi phí điều trị cho bệnh nhân.
đồng thời, điều trị lao thành công cũng là một bằng chứng xác định chẩn đoán
lao phổi.

×