Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

NGHIÊN CỨU SỬ DỤNG ROCURONIUM TRONG GÂY MÊ PHẪU THUẬT CẤP CỨU pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.12 KB, 25 trang )

NGHIÊN CỨU SỬ DỤNG ROCURONIUM TRONG GÂY MÊ
PHẪU THUẬT CẤP CỨU

Tóm tắt
Rocuronium là thuốc chẹn thần kinh - cơ không khử cực mới được
tổng hợp được chứng minh là có khởi phát tác động nhanh hơn bất cứ thuốc
chẹn thần kinh – cơ không khử cực nào khác. Mặc dù đã được nghiên cứu
rộng rãi trong phòng mổ chương trình nhưng chưa có báo cáo về việc sử
dụng thuốc này trong gây mê phẫu thuật cấp cứu.
Mục tiêu nghiên cứu: Nghiên cứu sử dụng Rocuronium trong gây mê
phẫu thuật cấp cứu.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiền cứu trên 6
tháng bằng cách dùng phiếu thu thập dữ liệu được điền khuyết khi đặt nội
khí quản. Dữ liệu thu thập gồm lý do chọn lựa thuốc chẹn thần kinh – cơ,
thời gian bắt đầu liệt cơ và tất cả các biến chứng gặp phải. Sử dụng thang
đánh giá 9 điểm để ghi nhận các mức độ cử động cơ thể, cử động dây thanh
và sự hài lòng chung của thầy thuốc về mức độ liệt cơ.
Kết quả: Trong thời gian từ tháng 1/2006 đến tháng 7/2006, chúng tôi
thực hiện được 160 trường hợp, trong đó: Rocuronium được sử dụng cho
154 BN (96.25%), Atracurium được sử dụng cho (3.75%). Tỷ lệ Nữ/nam:
2,27%. Phân lọai ASA I & II: 80%. Đánh giá tình trạng đặt NKQ tốt: trên
lâm sàng: 95%, 90% trên máy TOF – Watch. Không có bệnh nhân nào bị
mất bảo hòa cần thông khí trợ giúp trong thời gian chờ liệt cơ. Không có tai
biến biến chứng ghi nhận liên quan đến Rocuronium.
Kết luận: Rocuronium gây liệt cơ nhanh và đáng tin cậy để đặt nội
kghí quả nhanh trong gây mê phẫu thuật cấp cứu. Đây là thuốc hữu dụng,
hiệu quả và mua dể dàng trong điều kiện của chúng ta. Việc theo dõi chặt
chẽ trước trong và sau phẫu thuật sẽ đem lại thành công cho các lọai phẫt
thuật cấp cứu và giảm thiểu các biến chứng.
ABSTRACT
Introduction: Rocuronium is a recently synthesized non –


depolarizing neuromuscular blocking agent (NMBA) that has been
demonstrated to have a faster onset of action than any other non –
depolarizing NMBA. Although widely studied in the operating room, there
are no reports regarding its use for rapid tracheal intubation in anesthesia for
emergency surgery.
Objectives: Rocuronium for rapid intubation in anesthesia for
emergency surgery
Methods: Over six month prospective study was performed using a
data collection form completed at the time of intubation. Data collected
included the reason for the neuromuscular – blocking agent chosen, the time
to onset of paralysis and any complications encoutered. The nine – point
numerical descriptor scales recorded the degree of body movement, vocal
cord movement and the physician’s overall satisfaction with the extent of
paralysis.
Results: Rocuronium was used in 154 patients (96.25%) and
Atracurium was used in 6 patients (3.75%). Rate of female / male: 2.27%.
Classify of ASA I & II: 80%. Good condition for rapid intubation: 95% in
clinical appreciate and 90% in TOF – Watch. No patient desaturated and
required assisted ventilations while waiting for paralysis to occur. Of the
complications reported, none appeared to be related to Rocuronium.
Conclusions: Rocuronium produced fast and reliable paralysis for
rapid intubation in anesthesia for emergency surgery. Use of Rocuronium in
anesthesia for emergency surgery setting appears useful. This is the drug to
be effective, buying easily and widely in condition of our country. A well –
prepared surgery and a close careful monitoring during and after the surgery
must be applied in order to detect and manage in time complications. It will
contribute to succesful method.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thuốc dãn cơ là một phần cơ bản trong hành trang của các nhà GMHS.
Chúng được sử dụng cho việc đặt NKQ dể dàng, cho những phẫu thuật bên

trong cơ thể được thuận lợi, cho nắn chỉnh trật khớp, gãy xương và cho nhiều
những chỉ định khác.
Giai đoạn khởi mê được xem là thời điểm nguy hiểm vì những phản
xạ tự bảo vệ cơ thể của người bệnh bị ức chế nên khả năng trào ngược dịch
dạ dày và hít phải chất nôn ói vào khí phế quản thường xảy ra nhất là trong
những trường hợp gây mê để mổ những phẫu thuật cấp cứu. Do đó, khoảng
thời gian này được mong muốn càng ngắn càng tốt mà Succinylcholine đã
được xem là thuốc dãn cơ duy nhất đáp ứng yêu cầu này.
Tuy nhiên, Succinylcholine lại có những tác dụng phụ bất lợi với
nguy cơ phát triển thành những biến chứng nghiêm trọng, đe dọa tính mạng
người bệnh. Chính điều này đã làm hạn chế tính thông dụng của nó trên thực
hành lâm sàng và là động lực thúc đẩy sự ra đời của những thuốc dãn cơ mới
khác.
Một loại thuốc dãn cơ thuộc nhóm không khử cực đầu tiên có thời
gian khởi phát ngắn, tạo điều kiện thuận lợi cho đặt NKQ nhanh tương tự
như Succinylcholine nhưng ít có tác dụng phụ bất lợi như Succinylcholine
đó là Rocuronium (Esmeron). Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về
Rocuronium nhưng chưa có báo cáo nào về việc sử dụng thuốc này trong bối
cảnh gây mê phẫu thuật cấp cứu và đó cũng chính là lý do chúng tôi chọn
nghiên cứu đề tài này
(1,2,3,10,12,13)

Mục tiêu đề tài
· Nghiên cứu tình hình gây mê - phẫu thuật cấp cứu tại
BV. Bình Dân TP. Hồ Chí Minh.
· Đánh giá hiệu quả đặt NKQ nhanh và tác dụng phụ (nếu
có) của Rocuronium trong gây mê phẫu thuật cấp cứu.
· Đề xuất sử dụng thuốc dãn cơ thích hợp cho người bệnh
trong gây mê phẫu thuật cấp cứu.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

- Phương pháp nghiên cứu
Tiền cứu, mô tả cắt ngang, thực hiện lâm sàng.
- Đối tượng nghiên cứu
Những bệnh nhân được gây mê để phẫu thuật cấp cứu tại BV Bình
Dân TP. Hồ Chí Minh từ tháng 01/2006 đến tháng 07/2006, có:
Tiêu chuẩn chọn
· Chỉ định gây mê toàn diện qua NKQ.
· Bệnh nhân thuộc nhóm ASA I, II, III.
· Tuổi từ 15 tuổi trở lên.
Tiêu chuẩn loại
· Có tiên lượng đặt NKQ khó.
· Có bệnh lý thần kinh – cơ
· Đang dùng thuốc có tác dụng tương tác với thuốc dãn
cơ.
· Đang có thai.
· Suy gan, suy thận.
- Phương pháp tiến hành
· Thăm khám và chuẩn bị bệnh nhân như khi gây mê - phẫu
thuật cấp cứu thông thường.
· Chuẩn bị trang thiết bị, dụng cụ và thuốc men đầy đủ
· Chuẩn bị người bệnh thuận lợi cho máy kích thích thần
kinh cơ hoạt động, kích thích tại thần kinh trụ và theo dõi những đáp
ứng của cơ khép ngón cái.
· Thực hiện phương pháp gây mê toàn diện qua NKQ với:
· Tiền mê: Midazolam 0,04 – 0,05 mg/kg và Fentanyl 1 – 2
mcg/kg
· Dẫn đầu mê: Propofol hoặc Etomidate
· Khi người bệnh bắt đầu mất ý thức, chích dãn cơ
Rocuronium với liều 0,75mg/kg trong 10 giây.
· Sau 60 giây, tiến hành đặt NKQ và đánh giá tình trạng đặt

NKQ trên lâm sàng và trên máy kích thích thần kinh cơ (TOF – Watch)
· Duy trì mê bằng thuốc mê hô hấp Isoflurane
· Đánh giá tình trạng đặt NKQ trên lâm sàng:


Độ
dãn cơ hàm

Dây
thanh âm
Đáp
ứng đặt
NKQ
0
điểm
Không
thể mở hàm
Đóng
kín
Ho,
g
ồng dữ
dội
1
điểm
Khó
mở hàm
Khép

Ho

nhẹ
2
điểm
Mở
được
Cử
động
Cử
động c
ơ
hoành nhẹ

3
Mở dể

Mở N
ằm
điểm im
Rất tốt (9 điểm) O
Tốt (6-8điểm) O
Đạt (3-5điểm) O
Không đạt (<3điểm)O
· Duy trì huyết động học ổn định trong mổ, sử dụng các thuốc
vận mạch như: Dopamine, Dobutamine khi cần.
· Theo dõi bệnh nhân trong, sau gây mê - phẫu thuật tới cho
tới khi người bệnh xuất viện; xử lý tình huống bất thường xảy ra.
· Thu thập, ghi chép những dữ kiện và xử lý số liệu theo
những phương pháp thống kê.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Từ tháng 01/2006 đến tháng 07/2006, chúng tôi đã khảo sát, thực

hiện, theo dõi gây mê toàn diện cho 160 trường hợp phẫu thuật cấp cứu tại
BV. Bình Dân. Kết quả nghiên cứu như sau:
Giới: (Bảng 1)
Giới

Nam

Nữ Tổng

Số
TH
49 111 160
Tỷ
lệ %
30.63 69.37 100
Nữ / Nam: 2.27
Tuổi: (Bảng 2)
Tuổi

16 -
30
31 -

45
46 -
60
>60 Tổng

Số
TH

38 65 35 22 160
Tỷ
lệ %
23.75 40.64

21.86 13.75

100
Đa số tập trung < 60 tuổi ( >85%)
Phân loại theo ASA: (Bảng 3)
ASA

I II III Tổng

Số
TH
27 99 34 160
Tỷ
lệ %
16.88 61.87

21.25 100
Các bệnh kèm theo: (Bảng 4)
Bệnh k
èm
theo
Số
TH
T
ỷ lệ

%
Tuần hoàn

58 36.25

Hô hấp 7 4.38
Tuần ho
àn
& Hô hấp
4 2.5
Tiểu
đường
9 6.63
Bệnh khác

15 9.38
Phương pháp phẫu thuật: (Bảng 5)
Phương
pháp ph
ẫu
thuật
Nội
soi
Mổ
hở
Tổng

Số TH 74 86 160
Tỷ lệ %


46.25

53.75 100
Thời gian phẫu thuật (phút): (Bảng 6)
Th
ời
gian ph
ẫu
thuật
<30

30 –

60
60 -
90
>90 Tổng

Số
TH
14 95 34 17 160
Tỷ
lệ %
8.75 59.37

21.25 10.63

100
Các thuốc đã dùng: (Bảng 7)
Thu

ốc gây

Số
TH
T
ỷ lệ
%
Propofol +
Isoflurane
142 88.75

Etomidate +
Isoflurane
18 11.25

Thuốc d
ãn


Atracurium

6 3.75
Rocuronium

154 96.25

Thay đổi huyết động học trong mổ: (Bảng 8)
Theo
dõi sinh
hiệu:

Mạch

HA
trung bình

SpO
2

Trư
ớc
76.58
11.61
98.03
khi tiền mê ± 3.67 ± 1.56 ± 0.16
Trư
ớc
khi khởi mê

74.15
± 3.43
10.16
± 1.75
99.12
± 0.07
Sau
khi đ
ặt
NKQ

86.42

± 4.97
12.39
± 2.78
99.18
± 0.25
Khi
BN thở lại
77.50
± 5.87
10.74
± 1.47
97
.23
± 1.98
Tình trạng đặt NKQ: (Bảng 9)
Lâm sàng TOF - Watch

Tình
tr
ạng đặt
NKQ
Số
TH
T
ỷ lệ
%
S

TH
T

ỷ lệ
%
Rất 133

83.13 99

61.88
tốt
Tốt 20 12.49 43

26.87
Đạt 7 4.38 18

11.25
NHẬN XÉT VÀ BÀN LUẬN
Giới
Bệnh nhân giới nữ chiếm đa số (69.37%), tỷ lệ nữ/nam: 2.27. (Bảng
1). Tỷ lệ này tương tự như các tác giả khác, (như Hoàng Thị Xuân là 2.07).
Như vậy, tuy mẫu nghiên cứu của chúng tôi gồm các bệnh nhân cấp cứu
nhưng tỷ lệ nữ/nam vẫn không khác biệt so với các nghiên cứu khác vì giới
nữ thường bị các bệnh cấp cứu về ruột thừa và bệnh đường mật nhiều hơn
nam giới. Một số tác giả cho rằng, có sự khác biệt trong đáp ứng giữa nam
và nữ đối với Rocuronium (nữ > nam) nhưng trong nghiên cứu của chúng tôi
thì không có sự khác biệt nào trong đáp ứng của Rocuronium liên quan đến
giới tính.
Tuổi
Đa số tập trung < 60 tuổi ( >85%) (bảng 2). Đáp ứng của Rocuronium
với nhóm cao tuổi (>60 tuổi) và nhóm trẻ tuổi cũng rất khó đánh giá do số
bệnh nhân > 60 tuổi chiếm thấp (13.75%). Hơn nữa, quá trình tích tuổi cũng
sẽ thay đổi sinh lý và giải phẫu cùng với những bệnh lý đi kèm cũng nhiều

hơn mà trong nhóm nghiên cứu chúng tôi chọn những bệnh nhân xếp loại
ASA £ III nên phần nào cũng hạn chế bệnh nhân cao tuổi.
Phân loại bệnh theo ASA
Đa số thuộc nhóm ASA I và II: có 126 bệnh nhân (#80%) được đánh
gía tình trạng chung tốt, trong đó số bệnh nhân được phân loại ASA II; có 99
bệnh nhân (61.87%) và số bệnh nhân được phân loại ASA III (bảng 3): 34
(21.25%). tức là thuộc loại bệnh nhân có nguy cơ khi phải chịu cuộc gây mê
– phẫu thuật. Điều này càng nói lên tính phức tạp của công tác gây mê cho
những phẫu thuật cấp cứu: bệnh nhân chưa được chuẩn bị trước mổ, bệnh đi
kèm chưa được kiểm soát, dạ dày đầy
Bệnh kèm theo
Kết quả thăm khám trước mổ cho thấy tỷ lệ bệnh nhân mang những
bệnh kèm theo khá cao (59.19%), thường gặp là những bệnh thuộc về các cơ
quan tuần hoàn chiếm đa số như tim mạch có 58 TH (36.25%)như: cao HA,
thiếu máu cơ tim, rối loạn nhịp tim hay hô hấp như viêm phổi, hen suyển; có
9 bệnh nhân (6.63%) bị bệnh tiểu đường (bảng 4). Qua những y văn, ở bệnh
nhân cấp cứu thì các rối loạn về hệ thống tim mạch, hô hấp chiếm tỷ lệ hàng
đầu trong các bệnh lý đi kèm với quá trình tích tuổi. Chỉ riêng những vấn đề
bệnh lý kèm theo này đã gây nhiều khó khăn trong công tác gây mê hồi sức
nhằm giữ vững độ an toàn cho bệnh nhân, chưa kể đến tình trạng bệnh lý mà
bệnh nhân đang có cần phải phẫu thuật.
Phương pháp phẫu thuật
Tỉ lệ mổ hở và mổ nội soi gần tương nhau, phẫu thuật nội soi trong
nghiên cứu này có 74 bệnh nhân (46.25%) (bảng 5) bao gồm: cắt ruột thừa,
thủng dạ dày, tắc ruột do dính, thai ngoài tử cung, cắt túi mật với phương
pháp phẫu thuật nội soi có bơm thán khí vào ổ bụng; thời gian gần đây, phẫu
thuật nội soi là một xu hướng tiến bộ của ngoại khoa, đang được ưa chuộng
và áp dụng rộng rãi ở các ngoại quốc cũng như tại Việt nam, BV. Bình Dân
là một trong những cơ sở thực hiện phẫu thuật nội soi cắt túi mật đầu tiên ở
Việt Nam và hiện tại, BV. Bình Dân, tỉ lệ phẫu thuật nội soi được áp dụng

rộng rãi không thua kém gì so với các cơ sở điều trị khác. Phẫu thuật nội soi
có nhiều ưu điểm như có diễn tiến hậu phẫu khá nhẹ nhàng, ít gây đau đớn
cho người bệnh, giúp rút ngắn thời gian nằm viện, giảm đáng kể chi phí điều
trị cho bệnh nhân , nên đang được ưa chuộng, nhưng phẫu thuật nội soi có
bơm hơi vào ổ bụng gây ra nhiều xáo trộn, biến đổi các chức năng sinh học
và cũng như gây ra nhiều tai biến, biến chứng so với phẫu thuật mở để điều
trị bệnh cấp cứu như từ trước đến nay nên cần nắm vững những nguyên tắc
căn bản, những thay đổi về sinh lý, thực hiện phương pháp vô cảm, sử dụng
thuốc mê thích hợp để hạn chế những nguy cơ, tai biến cho bệnh nhân. Thời
gian người bệnh phải nằm ở hậu phẫu trung bình của mổ nội soi là 2.25
ngày, của mổ hở là 11.43 ngày, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
Thời gian phẫu thuật
Thời gian phẫu thuật đa số là < 90 phút, chiếm # 90% (bảng 6). Điều
này cũng phù hợp cho các loại phẫu thuật cấp cứu. Những trường hợp như
mổ nội soi như viêm ruột thừa, cắt túi mật, GEU, thủng dạ dày hay mổ hở
như mở thận ra da, dẩn lưu thận, viêm phúc mạc khu trú thì thời gian phẫu
thuật đều < 90 phút mà lại là những bệnh cấp cứu thường gặp. Hơn nữa, các
loại phẫu thuật nội soi hiện nay do đa phần các phẫu thuật viên đã quen với
thao tác, thuần thục hơn nên cũng rút ngắn rất nhiều thời gian phẫu thuật.
Các thuốc đã dùng
Đa số các trường hợp dùng phối hợp Propofol + Rocuronium và duy
tri Isoflurane + Fentanyl (# 90%) (Bảng7). Với hai tính chất giảm đau và dãn
cơ thì hầu hết thuốc gây mê đều có, nhưng muốn đạt yêu cầu phải dùng một
lượng thuốc mê rất cao, nên cách thuận lợi hơn hết là dùng kết hợp vừa
thuốc giảm đau trung ương và thuốc dãn cơ sẽ tăng mục đích yêu cầu và hạn
chế những tác dụng không thuận lợi do thuốc mê gây ra. Với những chất
thuốc mê, nhất là thuốc an thần Midazolam ( Hypnovel ) giúp cho người
bệnh đi vào một giấc mê êm diệu, ít xáo trộn huyết động, lại có tính làm
quên thuận chiều rất cao sẽ giúp ổn định được hệ thần kinh cao cấp, hệ thần
kinh tự trị. Vì vậy, một cuộc gây mê muốn đạt được cùng lúc nhiều mục

đích: giảm đau, dãn cơ, an định thần kinh trong hoàn cảnh hiện tại chỉ có
phương pháp gây mê phối hợp nhiều loại thuốc để sử dụng được tính chất
chính, tính ưu việt của mỗi loại thuốc với liều lượng thích hợp của từng loại
thuốc để hạn chế những tác dụng không mong muốn của những thuốc này.
Công việc quan trọng này đòi hỏi người làm công tác gây mê hồi sức phải có
trình độ, có kiến thức vững chắc, sâu rộng về bệnh lý học, về dược học vì
hiện tại chúng ta chưa có đầy đủ các phương tiện để theo dõi độ mê, độ dãn
cơ của người bệnh
(6,9,14)

Trong nghiên cứu, chúng tôi duy trì mê bằng thuốc mê bay hơi
Isoflurane, tuy cũng ảnh hưởng đến chức năng gan nhưng với tỉ lệ thấp hơn
rất nhiều so với Halothane, thêm vào đó khi sử dụng Isoflurane để duy trì mê
có thể dùng thêm thuốc vận mạch như Epinephrine với liều lượng lớn hơn so
với khi dùng Halothane, nên cho đến nay vẫn là thuốc mê hô hấp tương đối
an toàn để gây mê cho bệnh nhân cấp cứu. Thuốc mê Sevoflurane giúp ổn
định huyết động học hơn, tác dụng ức chế tim mạch ít nhất trong các thuốc
mê hô hấp họ Halogen, rất ít tính chất làm thiếu máu cơ tim do hiện tượng
“ăn cắp“ lượng máu nuôi cơ tim, có lẽ đây là thuốc thích hợp để gây mê cho
bệnh nhân cấp cứu, bệnh nhân phải phẫu thuật bệnh nặng, một đặc điểm
thuận lợi của thuốc Sevoflurane là nó ít gây rối loạn nhịp tim khi dùng
chung với Epinephrine. Tuy nhiên, tại BV Bình Dân hiện nay chúng tôi chưa
được cung cấp loại thuốc mê này cho khu mổ cấp cứu và do giá thành thuốc
này đắc hơn Isoflurane nhiều lần.
Thuốc mê tĩnh mạch Etomidate với đặc tính ổn định huyết động nên
thường được dùng gây mê cho các bệnh nhân có huyết động học ít ổn định.
Etomidate tuy không là thuốc mê tĩnh mạch chủ yếu nhưng tương đối mới
và được những bệnh viện quan tâm cho sử dụng và mới được khoa dược của
bệnh viện nhập vào và đưa vào sử dụng trong vài năm gần đây tại bệnh viện
Bình Dân, nó có đặc điểm là tương đối ổn định huyết động học, nhưng kết

quả nghiên cứu của chúng tôi có tỷ lệ rối loạn huyết động học cao hơn so với
Propofol, điều này có thể do Etomidate còn ít nên chúng tôi chỉ sử dụng
Etomidate để gây mê cho những bệnh nhân có tình trạng huyết động ít ổn
định, thường là những bệnh nhân khi gây mê – phẫu thuật thường có rối loạn
nhiều về mạch và huyết áp. Propofol gây giảm huyết áp động mạch đáng kể
nên khi dùng cần chú trọng về đặc điểm này và nên bắt đầu với liều lượng
thấp và tăng lên từ từ để đạt được kết quả mong muốn, tuy nhiên với kích
thích khi đặt nội khí quản hoặc phẫu thuật có thể làm đảo ngược tác dụng
dãn mạch của Propofol, thêm vào đó Propofol được biến dưỡng nhanh, ít
gây tích lũy thuốc và khi ngưng cung cấp thuốc thì bệnh nhân sẽ tĩnh dậy
trong thời gian ngắn cũng như sự phục hồi tri giác hoàn toàn so với những
thuốc khác
(12,13,15)
.
Thuốc dãn cơ atracurium chuyển hoá hầu như không phụ thuộc chức
năng gan và chức năng thận, hệ số đào thải không giảm theo tuổi như hầu hết
các thuốc dãn cơ khử cực khác, là thuốc dãn cơ thích hợp nhất để gây mê cho
các bệnh nhân lớn tuổi kèm bệnh lý gan mật. Có 6 trường hợp dùng atracurium
trong nghiên cứu là cũng vì mục đích đó.
Thay đổi huyết động học trong mổ
Trong nghiên cứu, thay đổi về SpO
2
không đáng kể. Thay đổi về mạch
và huyết áp tập trung vào thời điểm trước khi khởi mê và sau khi đặt NKQ
(bảng 8), tuy nhiên sự thay đổi này không có ý nghĩa về mặt thống kê. Giải
thích điều này có lẻ do còn phụ thuộc nhiều yếu tố, như: kích thích lúc đặt
NKQ, độ giảm đau, các thuốc gây mê, bệnh lý đi kèm Theo đa số các tác
giả thì Rocuronium không có hoặc rất ít tác dụng lên hệ tim mạch ngay cả
với liều cao 0.9 hoặc 1.2mg/kg, thậm chí trong trường hợp bệnh nhân đã có
tăng kali/máu

(5,7,8)
. Điều này cũng phù hợp với nghiên cứu của chúng tôi.
Ngoài ra, trong nghiên cứu chúng tôi cũng ghi nhận có 6 trường hợp phải
dùng Atropine sau khởi mê do nhịp tim chậm <50 lần / phút và có 3 trường
hợp phải dùng Avlocardyl sau khởi mê do nhịp tim nhanh >140 lần / phút.
Tình trạng đặt NKQ
Hiệu quả đặt NKQ nhanh trên lâm sàng đạt mức rất tốt và tốt là
95.62% (Bảng 9), có 7 trường hợp đặt NKQ sau 90 giây. Kết quả này có cao
hơn các tác giả khác, như theo Hoàng Thị Xuân là 93.2%, nhưng khác biệt
không có ý nghĩa thống kê. Hiệu quả đặt NKQ nhanh đánh giá theo máy
TOF - Watch đạt mức rất tốt và tốt là 88.75% (Bảng 9) thấp hơn so với kết
quả đánh giá trên lâm sàng và tỉ lệ Đạt là 18 trường hợp (11.25%) cao hơn
so với kết quả đánh giá trên lâm sàng (4.38%).
Trong nghiên cứu này, đa số các trường hợp chúng tôi đặt nội khí
quản dể dàng ở thời điểm 60 giây sau chích dãn cơ với liều 0,75mg/kg. So
với các tác giả khác thì đây là liều thấp nhất để đặt nội khí quản nhanh, một
số các tác giả, khi dùng so sánh hiệu quả đặt nội khí quản nhanh của
Rocuronium và Suxamethonium thì dùng liều Rocuronium lớn hơn (0.9 –
1.2mg/kg) và cho thấy Rocuronium có thể dùng thay thế Suxamethonium
trong các trường hợp cần đặt nhanh nội khí quản trong cấp cứu
(4,11,16)
.
So sánh hiệu quả đặt nội khí quản trên lâm sàng và trên máy TOF –
Watch thì chúng tôi nhận thấy: thực tế lâm sàng có thể đặt nội khí quản tốt
và dể dàng khi giá trị trên máy chưa cho phép, nghĩa là khoảng giá trị dao
động trên máy tương đối rộng để ta chọn lựa thời điểm thích hợp để đặt nội
khí quản.
Tóm lại, qua nghiên cứu chúng ta thấy được những khó khăn, phức
tạp và khó dự đoán khi thực hiện phương pháp gây mê hồi sức cho các phẫu
thuật cấp cứu, đặc biệt là bệnh nhân có các bệnh lý đi kèm.

KẾT LUẬN
Các bệnh được can thiệp phẫu thuật cấp cứu thường nằm trong bệnh
cảnh nhiễm trùng hoặc sốc nhiễm trùng, rất dễ đưa đến các biến chứng về
tim mạch, hô hấp, rối loạn đông máu, suy chức năng gan, thận Người làm
công tác gây mê hồi sức phải nắm vững, tuân thủ những nguyên tắc căn bản,
dùng những dược chất thích hợp cho từng loại bệnh lý, ít làm xáo trộn chức
năng sinh lý của các cơ quan.
Rocuronium có khởi phát tác động nhanh hơn các thuốc chẹn thần
kinh cơ không khử cực khác mà chúng ta đang có và ít bệnh nhân cần đến
thông khí trợ giúp trước khi đặt nội khí quản. Hơn nữa, dùng Rocuronium
ít tác dụng phụ và không có biến chứng nào được ghi nhận trong nghiên
cứu.
Trong khuôn khổ nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy “Sử dụng
rocuronium trong Gây mê phẫu thuật cấp cứu “ an toàn, hữu hiệu và
thích hợp cho các phẫu thuật cấp cứu.

×