Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

skkn con đường tôi luyện để trở thành 1 giáo viên chủ nhiệm giỏi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.28 KB, 32 trang )

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài :
Lựa chọn nghề giáo, đến giờ chỉ có thể nói : đó là định mệnh cuộc
đời tơi. Hơn 10 năm gắn bó với nghề, đã có biết bao trăn trở, buồn vui
mà nghề mang lại. Mười ba năm trong nghề là 13 năm làm công tác giáo
viên chủ nhiệm, tôi luôn nỗ lực hoàn thành nhiệm vụ : từ khi chập chững
vào nghề với nhiệt huyết thanh xuân đến khi trưởng thành với bản lĩnh
nghề nghiệp. Từng thế hệ học sinh trưởng thành là những kinh nghiệm
về công tác chủ nhiệm trong tôi dần được tích lũy theo năm tháng.
GVCN là cơng việc kiêm nhiệm thú vị nhưng mn vàn khó khăn.
Nếu như GV bộ môn là người thầy giảng dạy, đứng lớp truyền lửa tri
thức cho hs qua những bài học thì GVCN khơng chỉ là người thầy truyền
lửa ấy mà cịn là người bạn lớn, người anh/chị, người cha/mẹ … của HS.
Trong hơn 10 năm làm công tác chủ nhiệm tôi ln cho rằng : giáo dục,
định hướng giúp HS hồn thiện và phát triển nhân cách là nhiệm vụ hàng
đầu của người GVCN.


Tơi ln nung nấu mình sẽ viết một đề tài nghiên cứu về công tác
chủ nhiệm. Năm học 2012-2013 để tham gia hưởng ứng :
+ Cuộc vận động “Mỗi thầy, cô giáo là tấm gương tự học và sáng tạo”.
+ Hội thi “GVCN giỏi DGPT và GDTX” chu kì 2012-2016 (theo Thông
tư 43/2013/TT- BGDĐT)
Tôi mạnh dạn viết SKKN tham dự hội thảo báo cáo khoa học cấp
trường và gửi đi cấp tỉnh : Với đề tài “Con đường tôi luyện để trở thành
GVCN giỏi” ( Hay “Giáo dục, định hướng cho HS THPT trong quá trình
hình thành và phát triển nhân cách”). Tôi hi vọng đây sẽ là một “thành
quả lao động đẹp đẽ” của mình trong quá trình tự học và sáng tạo.

2. Mục đích và đối tượng của đề tài:


- Mục đích của đề tài là tìm tịi, phát hiện ra những biện pháp giáo
dục tối ưu cho hs trên con đường hình thành và phát triển nhân cách, phù
hợp với yêu cầu và xu hướng thời đại của thế hệ hs 9X ( những hs sinh
năm 1990 đến 1999)
- Đối tượng nghiên cứu là HS trường THPT Như Thanh (đặc biệt là
các khóa tơi được phân cơng là GVCN).
2


+ Lớp B10 (khóa 2006-2009)
+ Lớp C9 (khóa 2007-2010)
+ Lớp C10 (khóa 2010-2013)
3. Đóng góp mới của đề tài :
Từ việc nghiên cứu thực nghiệm và quá trình áp dụng những
phương pháp giáo dục vào thực tiễn trong công tác chủ nhiệm, tôi hi
vọng SKKN này sẽ khẳng định thêm một hướng tiếp cận cho GVCN. Từ
đấy, phục vụ công tác giáo dục định hướng hình thành và phát triển nhân
cách cho HS. Điểm mới nổi bật của đề tài là từ quá trình sử dụng mạng
xã hội của GVCN đến việc giáo dục lòng nhân ái cho HS khi mà “sự thờ
ơ vô cảm đang như một thứ axit ăn mòn xã hội”…
4. Phương pháp nghiên cứu :
Khi triển khai đề tài này, tôi sử dụng những phương pháp sau:
+ Phương pháp nghiên cứu lí thuyết
+ Phương pháp khảo sát, thống kê
+ Phương pháp thực nghiệm sư phạm
+ Phương pháp giáo dục tích hợp

3



NỘI DUNG
I. Cơ sở của đề tài:
1. Cơ sở lí luận:
1.1 GVCN giỏi:
GVCN giỏi : là người hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao
( Theo “ Thông tư số 12/2011/TT- BGDĐT ngày 28/3/2011 của Bộ
trưởng Bộ GD và ĐT” điều 31 qui định về nhiệm vụ của GVCN) với
tinh thần trách nhiệm cao, có tâm với nghề, yêu thương HS, nhiệt tình
trong cơng tác chủ nhiệm, là người làm việc công tâm, khoa học và chặt
chẽ…
GVCN giỏi là người có những sáng tạo trong cơng việc, trong q
trình định hướng cho HS phát triển nhân cách…
1.2 HS THPT và quá trình hình thành và phát triển nhân cách :
( Theo tâm lí học)
4


Nhân cách : là tổ hợp những đặc điểm của cá nhân, nó qui định
hành vi xã hội và giá trị xã hội của con người. Sự hình thành và phát
triển nhân cách là quá trình cải biến 1 cách sâu sắc và toàn diện những
sức mạnh thể chất và tinh thần của con người diễn ra theo qui luật tích
lũy về lượng, biến đổi về chất nhằm chuyển hóa cá thể người thành 1 chủ
thể có ý thức trong xã hội.
Giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với sự hình thành và phát triển
nhân cách , điều đó thể hiện ở những mặt sau:
+ Giáo dục là sự tác động có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch nhằm
thực hiện hiệu quả các mục đích đã đề ra.
+ Giáo dục có thể uốn nắm những phẩm chất tâm lí làm cho nó phát triển
theo chiều hướng mong muốn của xã hội.
Thực tế giáo dục đã chứng minh rằng : sự phát triển nhân cách chỉ

diễn ra tốt đẹp trong những điều kiện có giáo dục và định hướng….
HS THPT : là lứa tuổi 15-18, đây là giai đoạn quan trọng trong quá
trình hình thành và phát triển nhân cách của mỗi cá nhân. Là lứa tuổi có
nhiều biến động về tâm sinh lí, lứa tuổi mà các em khơng cịn là trẻ con
nhưng chưa phải là người lớn, lứa tuổi cái tôi cá nhân xuất hiện rõ nét
5


với những khám phá và nhận thức về cuộc sống. Giai đoạn này rất cần sự
định hướng, bảo ban của gia đình và nhà trường, đặc biệt là thầy cơ chủ
nhiệm.
* Và GVCN giỏi là người làm tốt điều này, là người có q trình
giáo dục, định hướng tốt cho HS trong quá trình phát triển và hình thành
nhân cách.
2. Cơ sở thực tiễn :
2.1 Thực trang chung:
Seach google những cụm từ liên quan đến HS, sẽ cho ra những kết
quả thực sự đáng báo động, những con số làm cho những nhà giáo và
những người làm công tác trong ngành giáo dục phải đau lòng:
+ HS THPT đánh nhau : 2.990.000 kết quả trong 0,30 giây
+ HS THPT nghiện game : 5.300.000 kết quả trong 0,16 giây
+ HS THPT đánh bài ăn tiền : 1.340.000 kết quả trong 0,17 giây
+ HS THPT nạo phá thai : 892.000 kết quả trong 0,13 giây
………..
Bên cạnh bộ phận HS chăm ngoan, sống có lí tưởng, hồi bão…
vẫn cịn tồn tại bộ phận không nhỏ HS xuống cấp về nhân cách, lối sống
6


đạo đức. Vì vậy, giáo dục nhân cách cho HS THPT thực sự trở thành vấn

đề cấp thiết hàng đầu.
2.2 Thực trạng ở trương THPT Như Thanh :
Trường THPT Như Thanh : là một ngơi trường hiền hịa.
+ Về GV : những GV được phân công công tác GVCN tuổi đời, tuổi
nghề của còn khá trẻ, phần đa họ đều là những thầy cô tận tụy, nhiệt
huyết với nghề. Tuy nhiên, vẫn cịn một số GVCN do điều kiện hồn
cảnh gia đình con nhỏ nên sự quan tâm đến HS cịn hạn chế, kinh
nghiệm về cơng tác chủ nhiệm cịn non trẻ nên hiệu quả công việc chưa
cao.
+ Về HS : nhìn chung HS ngoan ngỗn, lễ phép. Bên canh đấy là bộ
phận không nhỏ HS cá biệt. Năm học 2012-2013, hội đồng kỉ luật nhà
trường đã xử lí 58 trường hợp
( trong đó có HS đánh nhau, HS vi phạm nội qui nhà trường nhiều lần,
HS đánh bài ăn tiền…)
Làm công tác chủ nhiệm, người GV phải xác định rõ : GD nhân
cách cho HS là nhiệm vụ quan trọng : Đối tượng HS chăm ngoan cần

7


định hướng, HS cá biệt cần giáo dục trong qua trình hình thành và phát
triển nhân cách.
Trở thành GVCN giỏi ln là mục tiêu lớn trong q trình làm
cơng tác chủ nhiệm của những GV yêu nghề, yêu trò. Đấy thực sự là 1
q trình “tơi luyện” học hỏi khơng ngừng nghỉ. Tơi xin mạnh dạn trình
bày những biện pháp mà tơi đã sử dụng trong q trình tơi luyện của
mình.
II. Những biện pháp thực hiện :
1. Sử dụng Facebook:
Như 1 cầu nối trong quá trình: lắng nghe - thấu hiểu - sẻ chia - định

hướng cho HS trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách:
Facebook là 1 website mạng xã hội truy cập miễn phí do cơng ty
Facebook.Inc điều hành và sở hữu tư nhân. Facebook là 1 tiện ích xã hội
liên kết mọi người với bạn bè, người dùng có thể tham gia các mạng lưới
được tổ chức theo thành phố, nơi làm việc, trường học và khu vực để liên
kết và giao tiếp với người khác. Tất cả mọi người đều có thể kết bạn và
gửi tin nhắn cho nhau.

8


Facebook được thành lập 28.10.2003 do Mark Zuckerberg và nhóm
bạn SV ĐH Harvard sáng lập nên. Facebook có tốc độ phát triển chóng
mặt : năm 2010, số lượng người truy cập vào Facebook vượt xa lượng
người truy cập và google…
Facebook – trang cá nhân, thực chất là 1 dạng nhật kí cơng khai
sinh động, phong phú…Do tính chất đặc thù tự do ngôn luận và những
kiện tung nên Facebook bị cấm sử dụng ở Việt Nam và 1 số nước khác.
Bắt đầu 2012, Facebook đã được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam. SV và
HS THPT là đối tượng sử dụng nhiều nhất.
HS trường THPT Như Thanh có số lượng lớn sử dụng mang xã hội
này. Theo số liệu điều tra của cá nhân tôi : cứ 1 lớp trung bình 50 HS thì
có khoảng từ 15 – 20 HS sử dụng mạng xã hội này. Tai các lớp chọn như
C1, C2, C3…A1, A2, A3…số lượng HS sử dụng thường nhiều hơn.
Ngoài trang cá nhân HS trường THPT Như Thanh cịn lập những trang
cộng đồng cơng khai như : Như Thanh Confessions, C2- forever, C3 –
maimaimottinhyeu, A6-sieuquay.confessions…

9



Con số này ở các trường THPT đóng trên địa bàn thành phố Thanh
Hóa có lẽ sẽ nhiều hơn rất nhiều. Các em có thể lên Facebook qua máy
tính, laptop, ipad hoặc điện thoại di động có kết nối mạng…
HS sử dụng Facebook như thế nào? Các em làm gì trên Facebook?
Sau q trình thường xun sử dụng Facebook, tơi đã vào thăm và đọc
trang cá nhân của các em …Tơi tạm chia thành 2 nhóm:
Nhóm 1

Nhóm 2

(nhóm tích cực)

(nhóm tiêu cực)

Facebook là nơi các em thể hiện ước mơ,

- Dẫn đường link đến

khát vọng :

những trang web đen.

“Tôi sẽ đỗ đại học”
Facebook là nơi các em thể hiện tình yêu

- Chia sẻ những hình

gia đình : “Mẹ là người tuyệt vời nhất, cám


ảnh mang tính chất

ơn mẹ đã sinh ra con”

dung tục, phản cảm.

Facebook là nơi các em thể hiện tình cảm

- Thể hiện tâm trạng

bạn bè : “Tơi lớn lên trong tình yêu mến

chán chường, bi quan,

của các bạn..”

bi lụy…

10


Facebook là nơi các em thể hiện tình u

- Nói xấu thầy cô, bạn

với bạn khác giới: "Hôm nay em thế nào,

bè…

em thân yêu!"


- Thể hiện tình yêu

Facebook là nơi các em thể hiện niềm tự

nam nữ thiếu văn minh

hào, tự tôn dân tộc, là nơi các em khẳng

- Sử dụng ngôn từ thô

định chủ quyền lãnh thổ : “Trường sa,

tục, thiếu văn hóa…

Hồng sa là của Việt Nam”
Facebook là cầu nối truyền thông tin:
“Bạn…đang nhập viện, các bạn đến thăm”
Facebook là nơi các em chia sẻ những hình
ảnh đẹp, tin tức cảm động : …..
Trên Facebook khi GV kết ban với HS thì tất cả những hoạt động
của HS sẽ xuất hiện trên bảng tin của GV. Trên Facebook GV có thể biết
được tất cả những vấn đề HS đang quan tâm, biết tất cả những điều mà
các em đang suy nghĩ : về tình bạn, tình yêu, về gia đình, thầy cơ và về
những vấn đề đang là hiện tượng xã hội nóng bỏng…
* Lắng nghe :

11



Facebook là cầu nối ngắn nhất để GVCN nắm bắt suy nghĩ của HS,
biết HS đang nghĩ gì. Khi đọc những status của HS, GVCN phải học
cách biết lắng nghe… lắng nghe xem các em viết gì, nghĩ gì, làm gì, ứng
xử như thế nào?... GV nên đặt mình vào vị trí 1 người bạn ( đúng như
cách “kết bạn” trên Facebook ) để hiểu tâm tư tình cảm HS mình.
* Thấu hiểu :
Trong cuộc sống đời thường, sẽ thực khó khăn để tất cả hs mở
lịng, giãi bày tâm tư tình cảm của mình với GVCN. Trên Facebook lại
khác, khi được GV quan tâm hỏi han, HS dễ mở lòng hơn.
Để hiểu được HS, GVCN cần phải vượt qua sự cách biệt giữa các
thế hệ, phải trang bị cho mình những kiến thức, hiểu biết phong phú…về
tâm lí lứa tuổi, về những vấn đề HS quan tâm.
* Sẻ chia- định hướng :
Nếu vấn đề HS đăng trên Facebook là những tình cảm, suy nghĩ
hay hình ảnh…mang tính tích cực, GV nhấn nút like và bình luận ngợi
khen.
Nếu vấn đề HS đăng trên Facebook là những tình cảm bi quan, chán
nản… thì GV động viên, chia sẻ kinh nghiệm.
12


Nếu vấn đề HS đăng trên Facebook là những hình ảnh phản cảm,
dung tục hoặc nói xấu bạn bè, thầy cơ…thì GV răn dạy, giáo dục…
Facebook là thế giới ảo nhưng là nơi thể hiện văn hóa của mỗi cá
nhân. GVCN chuyển tải đến HS thông điệp : Cần cân nhắc trước khi viết
status thể hiện tâm trạng, cần bấm like và comment một cách văn hóa.
Trên Facebook, vai trị của GVCN phải đa dạng :
+ Khi lắng nghe – GV là bạn bè…
+ Khi thấu hiểu – GV là người anh, người chị….
+ Khi sẻ chia – GV là người cha, người mẹ….

+ Khi định hướng – GV là người thầy, người chuyên gia …
Facebook chính là cầu nối tình cảm giữa GV và HS. Bởi 1 lời động
viên đúng lúc của người thầy sẽ giúp HS vững vàng hơn, một lời sẻ chia
chân thành của người thầy sẻ giúp HS tin yêu cuộc sống hơn, một lời
khuyên hữu ích của người thầy sẽ giúp HS sống có lí tưởng hơn…Và
quan trọng là trên Facebook GV động viên, khuyên bảo một HS thông
điệp sẽ được gửi tới rất nhiều HS khác trên nhóm bạn bè của cả 2.
Facebook là nơi giúp HS giải tỏa tâm lí, là trào lưu, xu hướng
phát triển tất yếu của xã hội. GVCN không thể cấm HS vào
13


Facebook và viết những gì, Chỉ có cách : GVCN tham gia Facebook
để làm người bạn lớn của HS là điều tốt nhất trong việc giúp các em
dần trưởng thành trên con đường hình thành và phát triển nhân
cách.
Kết quả thu được từ phương pháp này thật đáng khích lệ : Trước
khi GV kết bạn với HS trên Facebook số lượng nhóm 2 cao, nhưng sau
khi GV kết bạn với HS trên Facebook số lượng nhóm 2 dần ít đi và
chuyển sang nhóm 1. Các em HS kết bạn với GV ý thức hơn với những
hình ảnh và bình luận của mình, và điều đáng mừng là tuyệt đối khơng
cịn hiện tượng HS nói xấu GV và like những trang web đen, hình ảnh
bẩn.

2. Giáo dục lịng nhân ái cho HS qua những câu chuyện và việc làm
cụ thể:
2.1 Câu chuyện :
+ Nguồn truyện :
Truyện cổ tích…
“Quà tặng cuộc sống”…

14


“Hạt giống tâm hồn”…
Những câu chuyện cảm động trong cuộc sống thường
ngày…
+ Thời gian sử dụng truyện :
10 phút đầu giờ
Tiết sinh hoạt lớp
Hoạt động ngoại khóa
Giáo dục lồng ghép qua các bài học bộ mơn Ngữ văn,
GDCD…
+ Hình thức sử dụng :
Kể
Thảo luận : hỏi- đáp, trao đổi – bàn luận..
Ví dụ :
Trong tiết sinh hoạt tuần chẵn : sau khi tổng kết tuần n, triển khai
kế hoạch tuần n +1, GVCN dành 1 quĩ thời gian 5-10 phút để kể cho HS
nghe những câu chuyện về tình yêu thương giữa con người với con
người trong cuộc sống, những câu chuyện về lòng nhân ái, sự bao dung
và về những điều tốt đẹp, kì diệu của cuộc sống…
15


Theo cách “mưa dầm thấm lâu” mỗi tuần GVCN kể 1 câu chuyện
mà mình sưu tầm, nắm vững. Những câu chuyện từ trong sách vở đến
thực tế cuộc sống, đặc biệt là những câu chuyện cảm động bình dị đời
thường ngay xung quanh các em.
Câu chuyện về Nick Vujicic (người không tay, không chân) – nghị
lực phi thường của 1 người có cơ thể khiếm khuyết.

2.2 Việc làm cụ thể :
+ Tổ chức thăm hỏi, động viên những HS có hồn cảnh đặc biệt khó
khăn trong trường trong lớp :
Thực tế ở trường THPT Như Thanh hàng năm cứ mỗi dịp tết
ngun đán cổ truyền… BGH, Cơng đồn, Đồn thanh niên, GVCN và
nhóm HS lớp đều tổ chức đồn đi thăm hỏi động viên, chúc tết gia đình
các em có hồn cảnh đặc biệt khó khăn. Đây là 1 hoạt động mang đậm
tính nhân văn, có ý nghĩa giáo dục rất lớn về tinh thần tương thân tương
ái đối với CBGV và HS trong tồn trường. Bản thân tơi, với tư cách là
GVCN đã từng nhiều năm có mặt trong đồn thăm hỏi, tơi và nhóm HS
trong đồn thực sự xúc động, cảm thương và khâm phục nghị lực vượt

16


khó trước những hồn cảnh của HS mình : mồ cơi, khuyết tật, đói
nghèo…
Ví dụ như trường hợp em Trương Cơng Bốn B10 (khố học 20062009) ở Xn Du- Như Thanh mồ côi cha năm 7 tuổi, mồ côi mẹ năm 17
tuổi. Năm lớp 11 chỉ cịn mình em sống trong căn nhà tranh dột nát
nhưng bằng ý chí, nghị lực của mình em đã vượt qua những nỗi buồn
đau và hồn thành khố học. Tơi và HS trong lớp B10 vô cùng khâm
phục nghị lực của em. Hay như trường hợp em Trần Đại Nghĩa C6 (khoá
học 2010-2013) ở Hải Tiến- Hải Long- Như Thanh mặc dù mất bàn
chân, phải đi chân giả nhưng em vẫn ngày ngày cần mẫn đến trường…
Các em thực sự đã trở thành biểu tượng về nghị lực, tinh thần vượt khó
của HS tồn trường.
+ GVCN tổ chức HS trong lớp chơi trò “Lắng nghe bạn tơi nói, chia sẻ
việc tơi làm” :
Trong tiết sinh hoạt tuần lẻ : GVCN tổ chức trò chơi cho HS
- Thể lệ trò chơi : tất cả HS trong lớp đều phải chia sẻ thật lịng mình về

vấn đề :

17


“Hồn cảnh khó khăn nhất mà bạn gặp phải? bạn đã làm gì để vượt
qua nó?”
“ Việc tốt mà bạn đã làm? Việc xấu mà bạn muốn quên?”…..
- Hình thức trò chơi : lần lượt HS trong lớp chia sẻ câu chuyện thực của
mình, GVCN và các bạn lắng nghe để chia sẻ, đồng cảm…
Tơi đã tổ chức trị chơi này tại lớp 12C10 và đã có rất nhiều những
tâm sự được các em thực lòng chia sẻ : từ việc tốt là các em giúp đỡ
người hàng xóm gom thóc chạy mưa, giúp đỡ người già qua suối…đến
những việc chưa tốt như bẻ trộm ngơ, mía trong ruộng nhà người khác,
thờ ơ với người ăn mày nghèo đói…
Những câu chuyện các em chia sẽ, GVCN sẻ là người định hướng :
việc tốt cần ngợi khen và khuyến khích, việc xấu cần nghiêm khắc sửa
chữa, khắc phục.
+ GVCN tổ chức cho HS làm từ thiện từ qui mô nhỏ đến lớn :
Với tư cách GVCN tôi luôn nỗ lực trong q trình tun truyền
cơng tác làm từ thiện cho HS. Bản thân tôi xem đây là nhiệm vụ quan
trọng của GVCN trong việc giáo dục HS : làm cho HS biết xúc động

18


trước những mảng đời bất hạnh, giáo dục cho các em biết yêu thương
nhiều hơn, biết sẻ chia đồng cảm trước nỗi đau của con người…
Năm học 2012- 2013 tôi đã tổ chức cho lớp chủ nhiệm 12C10 đi
thăm em Lê Trung Tuấn ( SN 1998) ở địa phương (khu phố 1- thị trấn

Bến Sung). Sau khi thăm em Tuấn về, HS thực sự xúc động (trong đó có
cả nhóm HS cá biệt). Các em thực sự trân trọng nghị lực sống của em
Tuấn và thương hoàn cảnh em. HS đã chủ động quyên góp tiền giúp em
Tuấn chữa bệnh, số tiền nhỏ mà các em tiết kiệm được. Tuy nhiên, đơi
khi có 1 vài HS khơng hiểu hết ý nghĩa cơng tác từ thiện – các em cho
rằng “góp tiền là được”. Và lúc này GVCN phải định hướng giúp HS
hiểu : “Làm từ thiện từ tâm”, tình yêu thương phải được biểu hiện 1
cách nhân văn nhất.
Tôi khuyên HS viết 1 bức thư gửi em Tuấn, các em đã viết với
những lời chúc, lời nhắn nhủ cảm động: “Anh tên là Quách Văn Thiết –
HS lớp 12C10 trường THPT Như Thanh- Anh chúc em mạnh khỏe,
nhanh khỏi ốm”. “Chị tên là Hà Thị Hương, chị mong em sớm khỏe để
nhanh trở lại mái trường”…..

19


Bức thư ấy của các anh chị lớp 12C10 và số tiền nhỏ đã được
chuyển đến tay em Tuấn. Mẹ em đã đọc thư cho em nghe và em rất cảm
động trước dịng thư tình cảm của các anh chị. Điều này làm tôi thấy
cuộc đời thực sự ấm áp và có ý nghĩa hơn.

( Em Lê Trung Tuấn và Mẹ em)
3. Biện pháp giáo dục đối với nhóm HS cá biệt :

20


Vì đối tượng cần điều chỉnh đặc biệt vì thế địi hỏi người giáo viên
chủ nhiệm phải có kinh nghiệm và hết lòng. GVCN cần đặc biệt quan

tâm đến đối tượng này, bởi hơn ai hết nhóm HS này rất cần sự giáo dục ,
động viên của GVCN trên con đường hình thành nhân cách. Các em có
thể trở thành cơng dân tốt, nhưng cũng có thể sa ngã mắc phải những sai
lầm…Kinh nghiệm nhiều năm chủ nhiệm cho thấy, sau này khi ra trường
nhóm HS này thường là những người biết ơn GVCN nhiều nhất. Có HS
thuộc nhóm này ra trường 6 năm, giờ đã thành đạt gặp lại tơi em xúc
động nói : “Ngày ấy, may nhờ có cơ khun bảo…nếu khơng...”. Có lẽ,
đấy chính là niềm vui lớn nhất của mỗi GVCN khi giáo dục thành công
những HS như thế.
Vì vậy, GVCN hãy đừng định kiến với HS cá biệt, đừng vội vàng
phán xét HS, đừng kết luận vội vàng 1 chiều. Khi nắm bắt thông tin về
HS hãy biết lắng, tìm hiểu về HS từ điều kiện, hồn cảnh gia đình đến
tâm tư, tình cảm các em. Khi HS cá biệt phạm lỗi hãy cho các em cơ hội
sửa sai.
Trong quá trình dạy dỗ và quản lý giáo dục các em, tôi đã áp dụng những
biện pháp sau.
21


3.1 Tạo sức manh tập thể :
Người giáo viên phải xây dựng, kêu gọi được một bộ phận, càng
đông đảo càng tốt những học sinh ủng hộ mình, có thiện chí vì lớp và
đấu tranh vì lẽ cơng bằng, vì một mơi trường và lớp học thân thiện, tích
cực. Điều này rất quan trọng:
+ Thứ 1: giáo viên sẽ thu thập được thơng tin chính xác trong các
giờ học, các sự việc xảy ra bên ngoài giờ, ngoài lớp, các kế hoạch mà các
học sinh cá biệt định làm. Khi có thơng tin, rõ ràng người giáo viên sẽ rất
chủ động, kịp thời và thậm chí ngăn chặn được những việc đáng tiếc xảy
ra.
+ Thứ 2: việc có một đội ngũ dám đứng lên đấu tranh một mặt cô

lập, tạo một sức ép đối với chính các học cá biệt, mặt khác tạo một sức
mạnh để thúc đẩy giáo viên cương quyết đến cùng với mục đích giáo dục
của mình.
3.2 Xác lập vị thế “thủ lĩnh” của GVCN:
- Xác định vị thế của người giáo viên chủ nhiệm là điều cần thiết:
Tùy vào từng tình huống cụ thể, từng sự việc của từng học sinh mà mình
linh hoạt sử dụng cách nói chuyện, trao đổi phù hợp. Có khi mình là cô,
22


nhiều khi là bạn…nhưng bất luận trong hoàn cảnh nào người giáo viên
chủ nhiệm cũng có lập luận kiên định, vững vàng, thực tế với mục đích
vừa tư vấn, định hướng vừa điều chỉnh. Nhất định phải tạo được uy của
mình, tuyệt đối tránh tình trạng học sinh “nhờn” cơ. Nói như vậy, khơng
có nghĩa giáo viên chủ nhiệm thiết lập một khoảng cách đối với học sinh.
Mà quan trọng là người GVCN tạo được mơi trường đối thoại thích hợp
để học sinh lắng nghe.
- Nguyên tắc làm việc với những học sinh đối tượng có vấn đề này
là người giáo viên phải: kiên định, kiên trì, bình tĩnh và đặc biệt chặt chẽ.
Sự chặt chẽ thể hiện ở quy trình xử lí, lập luận của mình trước học sinh.
Đối với nhóm học sinh này, khơng thể nói sng được, phải có bằng
chứng xác đáng, cụ thể, chi tiết thì mới có thể buộc các em tâm phục
khẩu phục, khơng thể chối cãi được. Phải lưu lại tất cả hồ sơ, bằng chứng
…sự chặt chẽ của giáo viên chủ nhiệm sẽ tránh được những ngụy biện
vòng vo của học sinh, đồng thời cũng cho các em thấy sự bài bản,
nghiêm khắc của mình.
3.3 “Bẻ đũa bẻ từng chiếc một”:

23



- “Bẻ đũa bẻ từng chiếc một”: Tách từng cá nhân để xử lý, tránh
tình trạng chịu trách nhiệm tập thể, hòa cả làng. Cách này vừa thể hiện
được sự tôn trọng đối với học sinh vi phạm, vừa đảm bảo sự công bằng
cho những học sinh ngoan. Điều cốt yếu đúng người, đúng việc, đúng
trọng tâm sẽ hiệu quả.. Khi tách rời từng cá nhân như vậy, cũng có nghĩa
làm mất đi sức mạnh của sự đoàn kết, bao che của số đông bạn không
ngoan trong lớp, cá nhân em đó sẽ bộc lộ sự yếu kém và sợ hãi của mình.
Chính sự mất thế dựa dẫm vào nhóm hội của các em sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho giáo viên chủ nhiệm bắt bệnh và xử lý triệt để việc của học
sinh đó.
3.4 Phối kết hợp chặt chẽ với gia đình HS:
- Hợp tác chặt chẽ với phụ huynh. Đây là vấn đế không đơn giản,
đối tượng học sinh chưa chăm chưa ngoan phức tạp thì phụ huynh lại
càng phức tạp. Hầu như họ đều có nỗi niềm hoàn cảnh khá đặc biệt và
nhất là cách giáo dục, dạy dỗ con của họ thực sự có vấn đề. Một là họ
khơng có thời gian để quan tâm con, hoặc quan tâm con không đúng
cách, thiếu phương pháp, chiều chuộng hoặc bỏ bê con cái một cách thái
quá. Việc giúp họ hiểu ra vấn đề của con cái họ và tư vấn, cùng họ giải
24


quyết hậu quả khơng hề dễ. Rất nhiều gia đình đã bất lực với con, đến
mức bỏ mặc, phó thác hồn tồn vào thầy cơ và nhà trường. Tuy vậy,
người giáo viên phải kiên nhẫn. Một mặt, bày tỏ cho họ thấy thiện chí
của mình là hợp tác với họ để giáo dục làm cho con cái họ tốt lên, mặt
khác không thỏa hiệp, cương quyết thực hiện theo cách xử lý của mình,
nhất là kiên trì thực hiện những cam kết đã có trước đó. Phải chỉ ra cho
phụ huynh: mọi việc mình làm đều đứng về phía lợi ích của con cái họ.
Sự linh hoạt, mềm dẻo mà chặt chẽ, thấu tình đạt lý khi đối thoại với phụ

huynh là cả một nghệ thuật. Trên thực tế, chỉ khi nào có sự ủng hộ, hợp
tác đầy thiện chí của phụ huynh thì cơng việc làm thay đổi những học
sinh chưa ngoan, chưa chăm mới có kết quả.
3.5 Sự quan tâm chân thành từ những điều nhỏ nhặt :
Quan tâm tới các em chân thành, từ những điều nhỏ nhất với ý
nghĩa khích lệ động viên. HS cá biệt là những em cá tính, mỗi em một
“bệnh” nhưng cơ bản các em có nhu cầu được thấu hiểu, cảm thông và
nhận được sự quan tâm của mọi người. Biết được tâm lí này GVCN sẽ
có cách tiếp cận các em, từ chỗ dè chừng, phòng vệ, các em sẽ dần cởi
mở, nể cô hơn và hạn chế sự vi phạm của mình.
25


×