Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

tìm hiểu tình hình thực tế áp dụng các quy định pháp luật về đánh giá tác động môi trường ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.88 KB, 12 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, Bảo vệ môi trường (BVMT) trở thành vấn đề cấp bách, là một
vấn đề đang được quan tâm hàng đầu của toàn thể nhân loại. Để bảo vệ môi
trường, pháp luật của các nước đã quy định nhiều công cụ pháp lý cũng như kỹ
thuật, trong đó đánh gía tác động môi trường (ĐTM) là một công cụ pháp lý, kỹ
thuật rất hữu hiệu. Ở Việt Nam, việc thực hiện các quy định của pháp luật về đánh
giá tác động của môi trường trong thời gian qua đã thu được những thành quả
đáng kể trong việc bảo vệ môi trường, nhưng bên cạnh đó vẫn còn nhiều bất cập
trong quá trình thực hiện, đòi hỏi nhà nước cần phải có những quy định mang tính
khoa học và khả thi nhằm giúp cho việc thực hiện được triệt để và hiệu quả hơn.
Để hiểu rõ hơn về các quy định pháp luật về đánh giá tác động môi trường cũng
như tình hình thực tế áp dụng các quy định này, bài viết sau đây sẽ tập trung đi
sâu nghiên cứu đề tài: “Tìm hiểu tình hình thực tế áp dụng các quy định pháp
luật về đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam”.
NỘI DUNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG
1. Định nghĩa đánh giá tác động môi trường
Tại khoản 20 điều 3 luật bảo vệ môi trường năm 2005 đã định nghĩa đánh
giá tác động môi trường như sau: “ Đánh giá tác động môi trường là việc phân
tích, dự báo các tác động đến môi trường của dự án đầu tư cụ thể để đưa ra các
biện pháp bảo vệ môi trường khi triển khai dự án đó”
2. Bản chất pháp lý và yêu cầu đánh giá tác động môi trường
Một là, ĐTM là một nghĩa vụ pháp lý bắt buộc đối với bất kỳ cá nhân, tổ
chức nào có dự án có thể gây ra những tác động xấu đến môi trường (Thủ tục bắt
buộc về mặt hình thức); Hai là, ĐTM không chỉ là một nghĩa vụ pháp lý về mặt
hình thức mà nó còn là một nghĩa vụ mang tính nội dung. Nghĩa là ĐTM phải
thực sự phản ánh được những tác động từ dự án tới các vấn đề kinh tế, xã hội, môi
trường… từ đó đề ra các giải pháp khắc phục; Ba là, ĐTM là công cụ giúp cho
việc lựa chọn quyết định dự án đầu tư phát triển; Bốn là, ĐTM là một hoạt động
mang tính liên ngành bởi tính chất phức tạp đó là những mối quan hệ giữa kinh tế,
xã hội và môi trường, do vậy mà báo cáo ĐTM cần có sự tham gia của các cán bộ


khoa học,kinh tế thuộc các ngành liên quan; Năm là, ĐTM được tiến hành trên cơ
1
sở các quy chuẩn kỹ thuật môi trường; Sáu là, Báo cáo ĐTM do các cơ quan và tổ
chức có đủ điều kiện về cán bộ, chuyên môn và cơ sở vật chất thực hiện.
Như vậy ĐTM là sự thể hiện cụ thể nhất quy định phát triển bền vững trên cơ
sở duy trì và cải thiện môi trường.
II. CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ ĐÁNH GIÁ TÁC
ĐỘNG MÔI TRƯỜNG
1. Các văn bản pháp luật hiện hành quy định về đánh giá tác động môi
trường
Luật bảo vệ môi trường năm 2005; Nghị định số 29/2011/NĐ- CP quy định
về đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường, cam kết bảo vệ
môi trường; Nghị định số 117/2009/NĐ- CP ngày 31/12/2009 của Chính phủ về
xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường; Nghị định số
21/2008/NĐ-CP ngày 28 tháng 02 năm 2008 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định số 80/2006/NĐ-CP ngày 09 tháng 8 năm 2006 của
Chính phủ về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
Bảo vệ môi trường; Thông tư số 05/2008/TT-BTNMT ngày 08/12/2008 hướng
dẫn về đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và cam kết
bảo vệ môi trường (thay thế Thông tư số 08/2006/TT-BTNMT); Quyết định
19/2007/QĐ-BTNMT ngày 26/11/2007 ban hành quy định về điều kiện và hoạt
động dịch vụ thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường.
2. Nội dung của các quy định pháp luật hiện hành về đánh giá tác động môi
trường
2.1. Đối tượng phải thực hiện ĐTM
Tại điều 18 Luật BVMT năm 2005 đã quy định rõ nghĩa vụ lập báo cáo
ĐTM đối với các chủ dự án sau: Dự án công trình quan trọng quốc gia; dự án có
sử dụng một phần diện tích đất hoặc có ảnh hưởng xấu đến khu bảo tồn thiên
nhiên, vườn quốc gia, các khu di tích lịch sử - văn hoá, di sản tự nhiên, danh lam
thắng cảnh đã được xếp hạng; dự án có nguy cơ ảnh hưởng xấu đến nguồn nước

lưu vực sông, vùng ven biển, vùng có hệ sinh thái được bảo vệ;dự án xây dựng
kết cấu hạ tầng khu kinh tế, khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu chế xuất ,
cụm làng nghề; dự án xây dựng mới đô thị , khu dân cư tập trung ; dự án khai
thác, sử dụng nước dưới đất, tài nguyên thiên nhiên quy mô lớn; dự án khác có
tiểm ẩn nguy cơ lớn gây tác động xấu đối với môi trường. Hơn nữa , tại Nghị
định số 29/1011/NĐ-CP cũng quy định cụ thể và chi tiết về đối tượng phải lập
2
báo cáo ĐTM tại phụ lục II của Nghị định này, trong đó quy định rõ danh mục
các dự án phải lập báo cáo ĐTM tai Phụ lục của Nghị định bao gồm các loại dự
án chia thành nhiều nhóm khác nhau như nhóm các dự án về xây dựng, về giao
thông…Ngoài ra nghị định cũng quy định rất cụ thể quy mô của các dự án phải
lập báo cáo ĐTM. Quy định này chính là cơ sở để các chủ dự án biết được dự án
của mình có phải lập báo cáo ĐTM hay không.
2.2. Trách nhiệm lập báo cáo ĐTM của chủ dự án
Tại khoản 3 điều 19 luật BVMT năm 2005 quy định: “Chủ dự án tự mình
hoặc thuê tổ chức dịch vụ tư vấn lập báo cáo ĐTM và chịu trách nhiệm về các
số liệu, kết quả nêu trong báo cáo ĐTM”. Đây là một quy định hoàn toàn hợp lí
và có tính khả thi cao. Bởi lẽ báo cáo ĐTM đòi hỏi phải có độ chính xác cao và
người lập ra báo cáo này phải là người hiểu biết pháp luật về ĐTM cũng như
kiến thức chuyên môn về môi trường.Thực tế không phải chủ dự án nào cũng có
thể làm được việc này. Vì vây đối với việc lập báo cáo ĐTM mà có sự trợ giúp
của tổ chức chuyên môn là cần thiết. Bên cạnh quy định trên , để đảm bảo thực
hiện tốt công tác ĐTM, pháp luật cũng quy định các điều kiện của tổ chức dịch
vụ tư vấn như sau: “Tổ chức dịch vụ tư vấn lập báo cáo đánh giá ĐTM phải có
đủ điều kiện về cán bộ chuyên môn , cơ sở vật chất – kĩ thuật cần thiết”. Đồng
thời điều kiện của tổ chức lập báo cáo đánh giá ĐTM được quy định chi tiết tại
nghị định số 29/2011/NĐ-CP(khoản 1 điều 16) đó là: “Có cán bộ chuyên
nghành môi trường với 5 năm kinh nghiệm trở nên nếu có bằng đại học , 3 năm
nếu có bằng thạc sĩ,1 năm đối với trình độ tiến sĩ; có cán bộ chuyên nghành liên
quan đến dự án với trình độ đại học trở nên; có cơ sở vật chất kĩ thuật, thiết bị

chuyên dụng để đo đạc, lấy mẫu, xử lí, phân tích các mẫu về môi trường, đảm
bảo các yêu cầu về kĩ thuật. Trong trường hợp không có thiết bị chuyên dùng
đáp ứng yêu cầu, phải có hợp đồng thuê đơn vị có đủ năng lực”.Tuy nhiên
khoản 4 điều 19 Luật BVMT năm 2005 có quy định thêm : “Trường hợp có
thay đổi về quy mô, nội dung, thời gian triển khai, thực hiện, hoàn thành dự án
thì chủ dự án có trách nhiệm giải trình với cơ quan phê duyệt; trường hợp cần
thiết phải lập báo cáo ĐTM bổ sung” .Hơn nữa Luật BVMT năm 2005 còn quy
định thêm “Báo cáo ĐTM phải được lập đồng thời với báo cáo nghiên cứu khả
thi của dự án” ( khoản 2 điều 19). Quy định đã giúp cho chủ dự án cân nhắc để
đưa ra những phương án BVMT thích hợp với phương án xây dựng. Tránh được
việc khi dự án được thiết kế xong mới làm báo cáo ĐTM và nếu báo cáo không
được xét duyệt mà phải chỉnh sửu lại thì trong trường hợp đó sẽ tiết kiệm được
cho chủ dự án.
3
2.3. Nội dung báo cáo ĐTM
Nội dung báo cáo được quy định chi tiết tại điều 20 luật BVMT năm 2005
bao gồm: Liệt kê, mô tả chi tiết các hạng mục công trình của dự án kèm theo quy
mô về không gian, thời gian và khối lượng thi công, công nghệ vận hành của từng
hạng mục công trình và của cả dự án; Đánh giá chung về hiện trạng môi trường
nơi thực hiện dự án và vùng kế cận, mức độ nhạy cảm và sức chịu tải của môi
trường; Đánh giá chi tiết các tác động môi trường có khả năng xảy ra khi dự án
được thực hiện và các thành phần môi trường, yếu tố kinh tế - xã hội chịu tác
động của dự án; dự báo rủi ro về sự cố môi trường do công trình gây ra; Các biện
pháp cụ thể giảm thiểu các tác động xấu đối với môi trường, phòng ngừa, ứng phó
sự cố môi trường; Cam kết thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường trong quá
trình xây dựng và vận hành công trình; Danh mục công trình, chương trình quản lí
và giám sát các vấn đề môi trường trong quá trình triển khai thực hiện dự án; Dự
toán kinh phí xây dựng các hạng mục công trình và bảo vệ môi trường trong tổng
dự toán kinh phí của dự án; Ý kiến của uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau
đây gọi chung là uỷ ban nhân dân cấp xã), đại diện cộng đồng dân cư nơi thực

hiện dự án; các ý kiến không tán thành việc đặt dự án tại địa phương hoặc không
tán thành đối với các dự án BVMT phải được nêu trong báo cáo ĐTM; Chỉ dẫn
nguồn cung cấp số liệu, dữ liệu và phương pháp đánh giá. Quy định về nội dung
báo cáo cũng đã đươc quy định cụ thể và chi tiết trong Nghị định số 29/2011/NĐ-
CP( khoản 1 điều 17).
2.4. Thẩm định báo cáo ĐTM
Thẩm định báo cáo ĐTM là trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước
nhằm xem xét thẩm tra về mặt pháp lý cũng như nội dung khoa học của các báo
cáo.
a. Phân cấp tổ chức thẩm định báo cáo ĐTM
Theo quy định tại khoản 7 diều 21 Luật BVMT năm 2005 và khoản 2 điều
18 nghị định số 29/2011/NĐ-CP thì trách nhiệm tổ chức việc thẩm định đối với
việc thẩm định báo cáo ĐTM đối với dự án cụ thể như sau:
Bộ TN-MT tổ chức thẩm định báo cáo đánh giá ĐTM đối với các dự án
tại phụ lục III nghị định số 29/2011 NĐ- CP trừ các dự án thuộc bí mật an ninh
quốc phòng;
Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ tổ chức thẩm định
báo cáo ĐTM đối với các dự án thuộc thẩm quyền quyết định, phê duyệt của
mình, trừ các dự án quy định tại phụ lục III nghị định số 29/2011/NĐ- CP;
4
Bộ quốc phòng, bộ công an tổ chức thẩm định báo cáo ĐTM của các dự
án thuộc thẩm quyền quyết định, phê duyệt của mình và các dự án có liên quan
đến an ninh, quốc phòng khi được cấp có thẩm quyền giao;
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức thẩm định báo cáo ĐTM của dự án đầu
tư trên địa bàn trừ các dự án quy định thuộc thẩm quyền của bộ TN –MT, các bộ
cơ quan ngang bộ; bộ quốc phòng, bộ công an.
b. Hình thức thẩm định báo cáo ĐTM
Theo quy định tại khoản 1 điều 21 Luật BVMT năm 2005 và khoản 1 điều
18 Nghị định số 29/2011/NĐ- CP thì việc thẩm định báo cáo ĐTM có thể được
tiến hành thông qua một trong hai hình thức: Hội đồng thẩm định và tổ chức

dịch vụ thẩm định. Hội đồng thẩm định và tổ chức dịch vụ thẩm định chỉ đóng
vai trò tư vấn, cơ quan có thẩm quyền thẩm định vẫn là cơ quan chịu trách
nhiệm đối với quyết định phê duyệt báo cáo ĐTM.
• Thông qua hội đồng thẩm định:
Quy định tại khoản 2 Điều 21 Luật BVMT năm 2005 (đối với những dự
án thuộc trách nhiệm thẩm định của Bộ tài nguyên – môi trường, bộ và cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ quyết định) và quy định tại khoản 3 Điều 21
Luật BVMT năm 2005 (đối với những dự án thuộc trách nhiệm thẩm định của
UBND cấp tỉnh quyết định). Như vậy, pháp luật đã có sự phân biệt rõ ràng giữa
hội đồng thẩm đinh ở trung ương và địa phương. Trong những trường hợp cần
thiết, ủy bân nhân dân cấp tỉnh có thể mời đại diện của Bộ tài nguyên và môi
trường, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có liên quan tham gia
hội đồng thẩm định. Hội đồng thẩm định phải có trên năm mươi phần trăm số
thành viên có chuyên môn về môi trường và lĩnh vực có liên quan đến nội dung
dự án. Người trực tiếp tham gia lập báo cáo đánh giá tác động môi trường không
được tham gia hội đồng thẩm định.
• Thông qua các tổ chức dịch vụ thẩm định:
Tổ chức thẩm định được tham gia theo quyết định của cơ quan phê duyệt
dự án và phải chịu trách nhiệm về ý kiến, kết luận thẩm định của mình( khoản 2
điều 16 nghị định số 29/2011/NĐ-CP). Việc sử dụng các tổ chức dịch vụ thẩm
định đối với các dự án có liên quan đến lĩnh vực an ninh, quốc phòng sẽ có
những hạn chế nhất định và thực hiện theo quy định của cơ quan có thẩm quyền.
Ngoài ra, tại điều 5 của Quyết định số 19/2007/QĐ- BTNMT còn liệt kê ra
những dự án phải thẩm định báo cáo ĐTM qua tổ chức dịch vụ thẩm định, ví dụ
5
như: Dự án só sử dụng một phần hoặc toàn bộ diện tích đất vườn của quốc gia,
khu bảo tồn thiên nhiên, Dự án thuộc một trong các trường hợp sau: điện nguyên
tử, điện nhiệt hạch, lò phả ứng hạt nhân, thuỷ điện, thuỷ lợi , dự án mà chủ dự
án có văn bản đề nghị được thẩm định theo hình thức dịch vụ thẩm định…
c. Thời hạn và kết quả thẩm định báo cáo ĐTM

+ Thời hạn thẩm định: Theo quy định tại Khoản1 Điều 20 Nghị định số
29/NĐ- CP thì: “ Báo cáo ĐTM thuộc thẩm quyền quyết định cảu Bộ Tài nguyên
và Môi trường. Thời hạn thẩm định tối đa là 45 ngày làm việc, kể từ ngày nhận
được đủ hồ sơ hợp lệ. Trường hợp phức tạp về tác động môi trường, thời hạn
thẩm định tối đa là 60 ngày làm việc; Báo có ĐTM không thuộc thẩm quyền
quyết định của Bộ Tài nguyên và Môi trường, thời hạn thẩm định tối đa là 30
ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đủ hồ sơ hợp lệ. Đối với những dự án phức
tạp về tác động môi trường, thời hạn thẩm định là 45 ngày làm việc”
+ Kết quả thẩm định: Kết quả thẩm định được thể hiện dưới hình thức “
quyết định phê duyệt báo cáo ĐTM”. Theo đó, trong thời hạn tối đa là 15 ngày
làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ thì Hội đồng thẩm định, tổ chức dịch
vụ thẩm định, thủ trưởng cơ quan phải xem xét, quyết định phê duyệt báo cáo
ĐTM (khoản 2 điều 20 nghị định số 29/2011/NĐ- CP). Trong trường hợp nếu
không phê duyệt thì phải trả lời bằng văn bản nêu rõ lý do cho chủ dự án biết.
III. THỰC TIỄN THỰC HIỆN ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG
1. Thành quả đạt được
Kể từ thời điểm trước khi Luật BVMT năm 2005 ra đời và sau khi ra đời
cho đến nay, với những quy định về đánh giá tác động môi trường đã trở thành
công cụ pháp lý hữu hiệu trong việc bảo vệ môi trường của nước ta. Góp phần
xây dựng và phát triển mạnh đội ngũ thực hiện ĐTM, số lượng người tham gia
lập báo cáo đã tăng nhanh một cách tự phát, đáp ứng nhu cầu thị trường trong
bối cảnh các hoạt động và dự án đầu tư nở rộ trên toàn quốc. Đội ngũ chuyên gia
tư vấn, các tổ chức tư vấn và dịch vụ tư vấn ĐTM trong và ngoài nước đều dễ
dàng tiếp cận. Khoảng 10 năm trước đây, hầu hết các dự án lớn đầu tư vào Việt
Nam đều phải thuê chuyên gia nước ngoài thực hiện báo cáo ĐTM, thì hiện nay
rất nhiều cơ quan có thể đảm nhận được vai trò này và đưa ra nhiều báo cáo có
chất lượng tốt.
Cán bộ thẩm định và phê duyệt báo cáo ĐTM ở cấp trung ương thuộc Vụ
thẩm định (Bộ Tài nguyên và Môi trường, nay trực thuộc Tổng cụ môi trường,
6

Bộ Tài nguyên và Môi trường) và Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
hoặc Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm phê duyệt đối
với những dự án thuộc thẩm quyền của mình. Ở cấp địa phương, trách nhiệm
thẩm định là của Phòng Thẩm định thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường và Chủ
tịch Ủy ban nhân dân tỉnh hoặc thành phố hoặc Hội đồng nhân dân cùng cấp sẽ
chịu trách nhiệm phê duyệt. Hiện nay còn có thêm hình thức mới là dịch vụ
thẩm định. Theo đánh giá của các chuyên gia, năng lực thẩm đinh báo cáo ĐTM
đã được nâng cao đáng kể do có nhiều cán bộ đã được đào tạo, tập huấn ở trong
nước và nước ngoài cũng như khả năng “học thông qua hành” từ thực tiễn công
việc
(1)
. Tuy nhiên ở cấp tỉnh đội ngũ cán bộ thẩm định ĐTM vẫn còn thiếu và
yếu chưa đáp ứng được yêu cầu đa dạng hiện nay.
Việc đưa ĐTM vào thành một nghĩa vụ bắt buộc trong quy trình lập và
triển khai các dự án đã giúp nâng cao nhận thức của các chủ đầu tư dự án khi
thực hiện các hoạt động đầu tư và đảm bảo các biện pháp bảo vệ môi trường
được triển khai song song với quá trình đầu tư dự án. Theo tổng kểt, từ năm
1994 đến năm 2004, đã có hơn 800 báo cáo ĐTM của các dự án và cơ sở đang
hoạt động đã được thẩm định và phê duyệt ở cấp trung ương; gần 26.000 báo
cáo ĐTM và bản đăng ký đạt tiêu chuẩn môi trường đã được thẩm định và phê
duyệt ở cấp địa phương
(2)
.
2. Những bất cập trong quá trình thực hiện ĐTM
2.1. Việc thực hiện ĐTM đối với một số dự án còn mang tính hình thức
Bản chất của công tác ĐTM là quá trình tìm hiểu, dự báo các tác động
môi trường và tác động xã hội tiêu cực , đề xuất giải pháp ngăn ngừa, hạn chế
các tác động này khi dự án được thực hiện, đảm bảo dự án không chỉ mang lại
lợi ích kinh tế mả còn thúc đẩy pháp triển an ninh xã hội và bảo vệ môi trường.
Tuy nhiên, một bộ phận các nhà quản lý và chủ đầu tư chưa nhận thức được ý

nghĩa của công tác này. Họ thường coi công tác lập báo cáo ĐTM như là một
thủ tục trong quá trình chuẩn bị hoặc thực hiện dự án. Thậm chí có người còn đổ
lỗi cho yêu cầu thực hiện ĐTM đã cản trở hoạt động phát triển sản xuất và đầu
tư. Vì vậy, khi được yêu cầu lập báo cáo ĐTM, họ chỉ làm lấy lệ, chú trọng làm
cho đủ thủ tục để dự án được thông qua chứ không quan tâm đến những tác
động và nguy cơ môi trường thực sự. Một trong những minh chứng cho hiện
tượng này là việc cấp phép ồ ại cho các dự án xây dựng sân gôn trong thời gian
qua. Tình trạng xung đột xảy ra giữa các chủ dự án và cộng đồng địa phương do
1(), (2). Nguyễn Hải Vân, Nguyễn Việt Dũng, Hoàng Xuân Thúy , Đánh giá tác động của môi trường ở Việt Nam: Từ pháp luật
đến thực tiễn, năm 2009, trang 5.
7
tranh chấp quyền sở hữu, tiếp cận, sử dụng tài nguyên đất, rừng và nguồn nước
chứng tỏ các dự án này đã không thực hiện ĐTM một cách nghiêm túc và chất
lượng. Một báo cáo có tên “Đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam: từ pháp
luật đến thực tiễn” do Trung tâm con người và thiên nhiên thực hiện vào tháng
4/2009 cũng chỉ ra rằng hiện tượng các chuyên gia tư vấn thường được khoán
làm một báo cáo ĐTM cho phù hợp với yêu cầu của pháp luật là rất phổ biến ở
các địa phương. Vì vậy, việc tuân thủ quy trình và yêu cầu chất lượng báo cáo
ĐTM thường bị làm ngơ hoặc xem nhẹ. Báo cáo ĐTM hiện nay “mới chỉ quan
tâm đến tác động có hại, trực tiếp, trước mắt, tác động tới môi trường tự nhiên
trong khi ít quan tâm đến tác động có lợi, gián tiếp, lâu dài và tác động xã hội.
Các phương án giảm thiểu tác động thì hoặc là quá sơ sài, hoặc thiếu tính khả
thi, hoặc chỉ là lời hứa hẹn không có cơ sở”
(32)
. Trên thực tế, hiện tượng không
tuân thủ đầy đủ quy trình và các quy định nội dung báo cáo ĐTM là khá phổ
biến, nội dung các báo cáo ĐTM cho thấy phần đánh giá tác động xã hội thường
ngắn gọn và rất chung chung, thiếu cơ sở khoa học và ít thuyết phục. Ví dụ,
phần đánh giá tác động xã hội trong báo cáo ĐTM của dự án Titan Hà Tĩnh chỉ
có ½ trang; dự án thủy điện Hương Sơn chỉ có 1 trang; các đánh giá được trình

bày chung chung, không có chiều sâu và hoàn toàn không có sự khác biệt so với
tất cả dự án khác. Báo cáo ĐTM của thủy điện Lai Châu – một trong 3 công
trình thủy điện lớn trên sông Đà với công suất thiết kế là 1.200MW, toàn bộ nội
dung dày tới 200 trang, nhưng phần đánh giá tác động kinh tế - xã hội chỉ chiếm
2 trang (1% toàn bộ nội dung)
(4)
. Ngoài ra, độ chính xác của các thông tin trong
báo cáo ĐTM cũng không cao và thiếu tin cậy, như: Vườn quốc gia Tam Đảo
được quy hoạch và khẳng định là khu rừng “đa dạng sinh học cao với rừng lùn
thường xanh điển hình”, tuy nhiên báo cáo hiện trạng môi trường phục vụ cho
chuẩn bị dự án Tan Đảo II (xây dựng khu giải trí do nước ngoài đầu tư) ở vùng
lõi vườn quốc gia đã đánh giá là khu vực “nghèo đa dạng sinh học, không có giá
trị bảo tồn”. Tương tự báo cáo ĐTM cho đề xuất dự án xây dựng thủy điện Rào
an 1 và Rào an 2 tron vùng rừng nguyên sinh kề vườn quốc gia Vũ Quang ở xã
Sơn Kim (Hà Tĩnh) đã không đề cập đến tác động của dự án đối với các loài thú
lớn bị đe dọa có giá trị bảo tồn trên toàn cầu như Sao La, Voi.
2.2. Về việc thẩm định và phê duyệt báo cáo ĐTM
Thẩm định báo cáo ĐTM được pháp luật phân cấp cho Bộ tài nguyên môi
trường (cấp trung ương) và UBND (cấp địa phương). Các ý kiến đánh giá của
2(3), (4). Nguyễn Hải Vân, Nguyễn Việt Dũng, Hoàng Xuân Thúy , Đánh giá tác động của môi trường ở Việt Nam: Từ pháp luật
đến thực tiễn, năm 2009, trang 6.
8
hội đồng thẩm định hầu như chỉ mang tính chất tư vấn, tham khảo trong quá
trình ra quyết định cuối cùng. Nghĩa là, quyết định thông qua báo cáo ĐTM
được định đoạt bởi hội đồng phê duyệt chứ không thuộc thẩm quyền của hội
đồng thẩm định. Như vậy, trong trường hợp dự án được thông qua và đi vào
hoạt động mới gây ra những tác động và suy thoái môi trường thì sẽ khó quy
trách nhiệm cho các bên liên quan. Bất cập này hiện cũng chưa được quy định rõ
ràng trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về ĐTM mà chỉ dừng lại ở việc
quy định trách nhiệm kiểm tra giám sát việc thực hiện nội dung của báo cáo

ĐTM.
2.3. Yêu cầu thông tin và tham vấn cộng đồng về ĐTM thường bị xem nhẹ
hoặc làm ngơ
Yêu cầu tham vấn cộng đồng trong hoạt động ĐTM, thông tin minh bạch
với cộng đồng về sự án và kết quả ĐTM đã được đề cập đến trong các văn bản
về ĐTM, cụ thể tại Điều 2 Chương III Thông tư 05/2008/TT-BTNMT quy định:
“Chủ dự án phải gửi văn bản thông báo về các hạng mục đầu tư chính, các vấn
đề môi trường, các giải pháp bảo vệ môi trường của dự án và đề nghị Ủy ban
nhân dân, Ủy ban mặt trận tổ quốc cấp xã nơi thực hiện dự án tham gia ý kiến;
đồng thời công bố công khai bằng văn bản để nhân dân biết và thực hiện đối
thoại với chủ dự án;…”. Tuy nhiên, việc thực hiện yêu cầu này diễn ra khác
nhau ở từng địa phương, các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí
Minh, công tác này được thực hiện khá nghiêm chỉnh. Đặc biệt là đối với các dự
án đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, công tác này được thực hiện rất cẩn thận,
điển hình là dự án nhiệt điện Phú Mỹ 2 tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu do WB hỗ
trợ đã thực hiện rất tốt việc tổ chức các buổi họp báo với sự tham gia của các
bên liên quan: chính quyền, sở, ngành, các tổ chức liên quan và các hộ dân nằm
trong vùng dự án; trình bày minh bạch các thông tin chung liên quan đến dự án
cũng như biện pháp giảm thiểu ô nhiễm. Còn ở các địa phương khác, còn nghèo,
vùng miền núi, hoặc dân trí thấp thì hầu như hoạt động này không diễn ra, hoặc
có diễn ra thì chỉ mang tính chất hình thức.
IV. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ ĐÁNH GIÁ
TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG
Thứ nhất, Cần có những quy định điều chỉnh mối quan hệ giữa các chủ
thể trong hoạt động ĐTM không chỉ là mối quan hệ giữa chủ đầu tư với cơ quan
quản lý nhà nước về môi trường mà cần có những chế định quy định về mối
quan hệ giữa chủ đầu tư với các cơ quan khác và với tổ chức dịch vụ tư vấn; Cần
9
nghiên cứu hoàn thiện các quy định đảm bảo chất lượng của báo cáo ĐTM bằng
việc đưa ra các tiêu chí đánh giá chất lượng của báo cáo ĐTM;

Thứ hai, Cần có cơ chế để đảm bảo thực thi các nội dung của báo cáo
ĐMC trên thực tế;
Thứ ba, Cần cụ thể hoá các quy định về điều kiện chuyên môn, cơ sở vật
chất, trang thiết bị đối với các tổ chức cung ứng dịch vụ lập báo cáo ĐTM nhằm
đảm bảo năng lực cung cấp dịch vụ của các tổ chức này, góp phần chuyên môn
hoá công tác lập báo cáo ĐTM trên thực tế;
Thứ tư, Cần quy định rõ trách nhiệm của các chủ thể tham gia vào việc
lập, thẩm định, phê duyệt báo cáo ĐTM đảm bảo khi các chủ thể đó có những
sai sót gây ra hậu quả làm tổn hại đến môi trường;
Thứ năm, đẩy mạnh hơn nữa việc ban hành các quy chuẩn kỹ thuật môi
trường, giải quyết tốt hơn công tác ĐTM;
Thứ sáu, ban hành các quy định hướng dẫn lập dự toán và sử dụng kinh
phí đối với việc lập, thẩm định báo cáo ĐTM;
Thứ bảy, pháp luật hiện hành cần có quy định khả thi hơn trong việc đảm
bảo cơ chế tham gia và giám sát của cộng đồng dân cư vào hoạt động ĐTM.
Cuối cùng, cần có những chế tài nghiêm khắc hơn đối với những vi phạm
nghĩa vụ từ việc lập, thẩm định, phê duyệt và thực hiện báo cáo ĐTM để bảo
đảm tính răn đe, tránh trường hợp thực hiện một cách hình thức, chống chế.
KẾT LUẬN
Nói tóm lại, hiện này các quy định về ĐTM đang là một trong những công
cụ pháp lý hữu hiệu trong quản lý và bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, để đạt được
mục tiêu bảo đảm phát triển kinh tế xã hội gắn với bảo vệ môi trường thì nhà
nước cần có sự quan trâm hơn nữa trong việc xây dựng và hoàn thiện các quy
định về ĐTM nhằm tạo ra một khung pháp lý về ĐTM hoàn thiện ở nước ta.
10
MỤC LỤC
Trang:
LỜI MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 1
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG

1. Định nghĩa đánh giá tác động môi trường………………………………… 1
2. Bản chất pháp lý và yêu cầu đánh giá tác động môi trường……………… 1
II. CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ ĐÁNH GIÁ TÁC
ĐỘNG MÔI TRƯỜNG 2
1. Các văn bản pháp luật hiện hành quy định về đánh giá tác động môi
trường………………………………………………………………………… 2
2. Nội dung của các quy định pháp luật hiện hành về đánh giá tác động môi
trường…………………………………………………………….……… … 2
2.1. Đối tượng phải thực hiện ĐTM……………………………………… ….2
2.2. Trách nhiệm lập báo cáo ĐTM của chủ dự án……………………… … 3
2.3. Nội dung báo cáo ĐTM……………………………………………….… 4
2.4. Thẩm định báo cáo ĐTM……………………………………………… 4
III. THỰC TIỄN THỰC HIỆN ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG… 6
1. Thành quả đạt được………………………………………………………… 6
2. Những bất cập trong quá trình thực hiện ĐTM…………………………… 7
2.1. Việc thực hiện ĐTM đối với một số dự án còn mang tính hình thức………7
2.2. Về việc thẩm định và phê duyệt báo cáo ĐTM………………… ……… 8
2.3. Yêu cầu thông tin và tham vấn cộng đồng về ĐTM thường bị xem nhẹ hoặc
làm ngơ……………………………………………………………………… 9
IV. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ ĐÁNH GIÁ
TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG……………………………………………… …9
KẾT LUẬN………………………………………………………………… 10
11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật môi trường, Nxb: Công
an nhân dân, năm 2006;
2. Luật bảo vệ môi trường năm 2005;
3. Nghị định số 29/2011/NĐ- CP ngày 18 tháng 4 năm 2011 quy định về
đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường, cam kết bảo vệ
môi trường;

4. Quyết định 19/2007/QĐ-BTNMT ngày 26 tháng 11 năm 2007 ban
hành quy định về điều kiện và hoạt động dịch vụ thẩm định báo cáo đánh giá tác
động môi trường;
5. Thông tư số 05/2008/TT-BTNMT ngày 08 tháng 12 năm 2008 của Bộ
Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn về đánh giá tác động môi trường chiến
lược, đánh giá tác động môi trường và cam kết bảo vệ môi trường;
6. Nguyễn Hải Vân, Nguyễn Việt Dũng, Hoàng Xuân Thúy, Đánh giá tác
động môi trường ở Việt Nam: Từ pháp luật đến thực tiễn, Trung tâm con người
và thiên nhiên, năm 2009;
7. Ths. Trần Thị Quang Hồng , Trương Hồng Anh, Hoàn thiện pháp luật
đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí luật học số tháng
6/2011;
8. Nguyễn Thị Thủy Ba, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về đánh giá
tác động môi trường ở Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp, Hà Nội – 2007;
9. Nguyễn Thị Hiền Trang, Những vấn đề pháp lí về đánh giá tác động môi
trường, Khoá luận tốt nghiệp, Hà Nội – 2011
10. Một số trang web: hp://vienkhpl.ac.vn/index.php?cid=279
12

×