MỤC LỤC
MỞ ĐẦU Trang
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Nhiệm vụ nghiên cứu 1
3. Giới hạn của đề tài 1
4. Phương pháp nghiên cứu 1
NỘI DUNG
I. Một số vấn đề chung về thơ Hai-cư 2
1. Nguồn gốc và quá trình phát triển 2
2. Một số đặc trưng cơ bản 2
2.1. Về hình thức 2
2.2. Về đề tài 2
2.3. Về ngôn ngữ 2
2.4. Về cái nhìn nghệ thuật 3
2.5. Về cảm thức thẩm mĩ 5
2.6. Về không gian và thời gian nghệ thuật 6
2.7. Về bút pháp 7
2.8. Về kết cấu 9
2.9. Về vần điệu và nhịp điệu 10
II. Một vài lưu ý khi giảng dạy thơ Hai-cư 10
1. Vấn đề tích hợp văn hóa 10
2. Nắm vững đặc trưng thể loại 11
3. Việc tiếp cận văn bản 11
4. Tránh lối mòn suy nghĩ 11
III. Một số kinh nghiệm giảng dạy thơ Hai-cư 12
1. Tạo tâm thế 12
2. Chú trọng đặc trưng thể loại 13
3. Nghệ thuật nhấn, lướt 14
4. Khơi gợi để học sinh cảm nhận, trải nghiệm 15
5. Bình giảng trong tâm thế so sánh 16
6. Khơi nguồn sang tạo 18
IV. Giáo án ứng dụng 18
KẾT LUẬN 22
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Thơ Hai-cư là một trong những thể loại văn học độc đáo của Nhật Bản,
là “tâm hồn Nhật Bản”. Từ những năm 50 của thế kỉ XX, thể thơ này đã vượt
ra ngoài biên giới Nhật Bản và hiện nay đã trở thành một thể thơ quốc tế.
Nhiều quốc gia trên thế giới đã đưa Hai-cư vào chương trình giảng dạy trong
nhà trường (kể cả Mĩ và các nước Hồi giáo).
Ở nước ta, dù nằm trong cùng vùng văn hóa với Nhật (văn hóa phương
Đông), nhưng do những nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau,
việc giao lưu văn hóa với Nhật (nhất là về văn học) vẫn còn rất hạn chế. Phải
đến những năm gần đây, trong xu thế hội nhập, mối quan hệ giao lưu này mới
thật sự được chú ý. Theo đó, thơ Hai-cư của Nhật mới bắt đầu được chúng ta
biết đến và trong lần thay sách giáo khoa gần đây nhất, thơ Hai-cư mới được
chính thức đưa vào chương trình ở cấp Trung học phổ thông.
Mặc dù chỉ chiếm một tỉ lệ rất khiêm nhường (2 tiết cho chương trình
Ngữ Văn 10 Nâng cao, và 1 tiết đọc thêm cho chương trình Ngữ văn 10 Cơ
bản) nhưng thơ Hai-cư thuộc phần những nội dung mới và khó, không chỉ đối
với học sinh mà ngay cả đối với giáo viên. Chính vì thế, để tiếp cận, giảng
dạy tốt phần nội dung này đòi hỏi một sự nỗ lực, đầu tư khá lớn của giáo
viên. Trong khi đó, hiện nay những tư liệu có liên quan đến thơ Hai-cư
(những tư liệu bằng tiếng Việt) vẫn còn rất hạn chế, khó tiếp cận (vì số lượng
xuất bản không nhiều).
Chọn đề tài “Kinh nghiệm giảng dạy phần thơ Hai-cư trong chương
trình Ngữ văn 10” người viết muốn chia sẻ một số kiến thức về thơ Hai-cư
đã tích lũy được cũng như những kinh nghiệm bước đầu trong quá trình giảng
dạy phần thơ Hai-cư. Hi vọng chuyên đề có thể góp thêm một tư liệu hữu ích
cho các đồng nghiệp trong công tác chuyên môn của mình.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Qua đề tài này, tôi muốn cung cấp cho học sinh kiến thức cơ bản về
thơ Hai-cư của Nhật Bản, đồng thời giúp học sinh biết cách phân tích, khám
phá thơ Hai-cư. Không những thế, từ đề tài này tôi muốn giúp học sinh chủ
động, sáng tạo, tích cực trong việc chiếm lĩnh tác phẩm, hiểu giá trị tác phẩm,
có một cái nhìn khách quan trong việc thẩm định, bình giá các giá trị nghệ
thuật này.
3. Giới hạn của đề tài:
Nghiên cứu phần thơ Hai-cư trong chương trình Ngữ văn 10 để thấy
được cái hay, cái tinh tế, lãng mạn tác phẩm phục vụ giảng dạy phần thơ Hai-
cư Ngữ văn 10.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu lý luận chung, sau đó chỉ ra các kiến thức cụ thể trong tác phẩm.
Phương pháp phân tích, so sánh.
Phương pháp tổng hợp, khái quát.
2
NỘI DUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THƠ HAI- CƯ
1. Nguồn gốc và quá trình phát triển:
Thơ hai-cư được hình thành trên cơ sở thể thơ Tanka (còn gọi là Đoản
ca, hay Wa-ka) một thể thơ dân tộc của Nhật, xuất hiện từ rất sớm, vào
khoảng thế kỉ III.
Mỗi bài Tanka gồm 31 âm tiết, chia làm 2 vế, vế đầu gồm 17 âm tiết,
sắp xếp thành 3 dòng (5 – 7 – 5) và vế sau gồm 14 âm tiết, sắp xếp thành 2
dòng (7 – 7).
Khoảng thế kỉ XVI, một số người đã tách vế đầu 17 âm tiết của thể
Tanka ra thành một bài thơ độc lập. Đó chính là thể thơ Hai-cư.
Đến thế kỉ XVII, Matsuo Bashô đã cách tân thể thơ này, đưa nó đạt
đến đỉnh cao nghệ thuật. Và sau đó, hàng loạt các nhà thơ tài năng như Y.
Buson (1716 – 1783), K. Issa (1763 – 1827), M. Shiki (1867 – 1902),… đã
tiếp tục cách tân, đưa thể thơ này phát triển mạnh mẽ.
Cho đến nay, thơ Hai-cư vẫn được người Nhật yêu thích và sáng tác.
Không chỉ phát triển trong nước, Hai-cư còn được đón nhận ở nhiều nước
trên thế giới. Nhiều nhà thơ nước ngoài đã tiếp thu và sáng tác Hai-cư bằng
ngôn ngữ của dân tộc mình và thơ Hai-cư đã trở thành một thể thơ quốc tế.
2. Một số đặc trưng cơ bản
2.1. Về hình thức
Hai-cư là thể thơ vào loại ngắn nhất thế giới, thường chỉ có 17 âm tiết,
được tách làm 3 dòng theo thứ tự thường là 5 âm – 7 âm – 5 âm. Trong
nguyên bản tiếng Nhật, 17 âm tiết đó thường được viết thành một hàng, khi
phiên âm La-tinh thì được ngắt làm 3. Tiếng Nhật lại là ngôn ngữ đa âm tiết,
nên 17 âm tiết ấy thực ra chỉ có mấy từ (thường là không quá 12 – 13 từ).
2.2. Về đề tài
Hai-cư là một trong những hiện thân tâm hồn Nhật Bản, một tâm hồn
luôn yêu say, ngưỡng vọng, hòa nhập cùng thiên nhiên vũ trụ, thậm chí được
nâng lên thành Đạo. Hoa đạo ở Nhật là một minh chứng cho điều này. Chính
vì thế, thiên nhiên là đề tài chiếm tỉ lệ khá cao trong thơ hai-cư. Nhiều nhà
nghiên cứu cho rằng: “Hai-cư luôn gắn bó với thiên nhiên”, “Haiku là tiếng
hát của bốn mùa” (Nhật Chiêu, Nhật Bản trong chiếc gương soi, NXB Giáo
dục, 2003). Đặc biệt, trong thế giới thiên nhiên vô cùng phong phú ấy, Hai-cư
lại thiên về ưa chuộng những sự vật, những sinh vật nhỏ bé, đơn sơ, bình dị,
thậm chí tầm thường. Đó có thể là một cành hoa dại, một giọt sương mai, một
vài bụi cám,…; đó có thể là một con quạ đen, một chú khỉ con, một con ốc
nhỏ,… Tuy nhiên, trong những thứ nhỏ bé, tầm thường ấy vẫn ngầm chứa
bao triết lí nhân sinh to lớn, nhiệm mầu.
3
2.3. Về ngôn ngữ
Hai-cư Nhật Bản hầu như rất ít khi sử dụng những tính từ, trạng từ
miêu tả để cụ thể hóa sự vật. Chẳg hạn tả trăng thì thường chỉ là “trăng” thế
thôi.
Ôi con thủy điểu
mổ tan vầng trăng
trên mặt nước đầm.
(Zuiryu)
Từ bóng tối đầy
của đời chợt mọc
vầng trăng hôm nay.
(Nangai)
Hay khi tả hoa (nói đến hoa là nói đến màu sắc) thì Hai-cư cũng chỉ có
“hoa” (hana) hoặc gọi tên các loài hoa như “anh đào” (sakura), “triêu
nhan” (asagao), “hoa Bụt” (mukuge), … chứ ít khi tả màu sắc hoặc dáng vẻ
của hoa.
Từ cây hoa nào
mà ta không biết
một làn hương trao.
(Bashô)
Hoa đào hoa đào
trong tâm tưởng gieo rắt
biết bao nhiêu điều.
(Bashô)
Có thể nói, các nhà thơ Hi-cư không phải “tả” thiên nhiên (tả trăng, tả
hoa, tả chim, tả bướm …) mà chính xác hơn là “chỉ” thiên nhiên. Đến với Hi-
cư, người đọc như chỉ được “chỉ”: đây trăng, đây hoa, đây chim, đây bướm…
v.v. Còn chúng cụ thể như thế nào thì đó là phần của anh. Thử thách của Hai-
cư đối với người đọc là ở đó. Và sự kì thú, tuyệt diệu, mời gọi của Hai-cư
cũng chính là ở đó.
Việc sử dụng kigo (quý ngữ – tức là từ chỉ một mùa nào đó trong năm)
cũng là một đặc trưng về mặt ngôn ngữ của Hai-cư. Trong bất cứ bài Hai-cư
nào cũng có kigo. Đó hầu như đã trở thành một quy tắc bắt buộc. Bởi thế,
trong các bộ sưu tập, tuyển tập Hai-cư, người ta thường sắp xếp các bài thơ
theo mùa mà nó đề cập. Kigo có thể là những từ ngữ chỉ mùa cụ thể như:
Haru (mùa xuân), natsu (mùa hạ), aki (mùa thu), fuyu (mùa đông); cũng có
thể là những từ ngữ chỉ mùa một cách gián tiếp. Chẳng hạn sakura (hoa đào),
awazu (con ếch),… chỉ mùa xuân; hototogisu (chim đỗ quyên), semi (con
ve),… chỉ mùa hè; hagi (hoa thu),… chỉ mùa thu; yuki (tuyết),… chỉ mùa
đông …v.v. Chính đặc điểm này cho thấy “Hai-cư bao giờ cũng nói về cảnh
vật trước mắt, nó là thơ của hiện tại […] thể hiện sâu sắc sự gắn bó của người
Nhật với thiên nhiên” (Đoàn Lê Giang - SGV Ngữ Văn 10, Cơ bản, NXB
Giáo dục, 2006).
4
2.4. Về cái nhìn nghệ thuật
Thơ Hai-cư thấm đẫm tinh thần Thiền tông nên cái nhìn nghệ thuật của
Hai-cư cũng là cái nhìn Thiền, “cái nhìn nhất thể hóa”. Đó là cái nhìn thấy
con người với vạn vật là cùng một bản thể (tức chân như), trong mỗi sự vật
dù nhỏ nhoi đến đâu đều có mang tính vũ trụ, đều mang Phật tính và hiện ra
bình đẳng vô sai biệt.
Nền đá hoang tàn
lung linh bóng nắng
Phật hiện dung nhan.
(Bashô)
Bài thơ này được Bashô sáng tác khi hành hương đến một ngôi chùa ở
Awa. Đây là một ngôi chùa hoang phế, nền đá trống trải, trơ trọi, không còn
dấu vết một pho tượng Phật nào. Thế nhưng có hề chi, Bashô vẫn có thể
chiêm bái dung nhan Phật ẩn hiện trong bóng nắng lung linh của mùa xuân
ấm áp ấy. Với Bashô, nắng xuân tự hóa thân thành Bụt.
Nếu Bashô thấy Bụt trong bóng nắng thì Issa thấy Bụt trong ngàn giọt
sương rơi, ngàn tiếng ve trổi:
Ngàn giọt sương rơi
ngàn tiếng ve trổi
Bụt nhà thế thôi.
thấy dung nhan Phật Đà trong con ốc nhỏ:
Cố hương ta!
ôi con ốc nhỏ
dung nhan Phật Đà.
Còn Kubutsu thì thấy dung nhan Phật Đà trong những cánh hoa đào
đang rơi, trong hình ảnh em bé đang há miệng nhìn:
Anh đào rơi hoa
em bé nhìn miệng há
dung nhan Phật Đà.
Rõ ràng, dưới cái nhìn của thơ Hai-cư, mọi thứ đều có Phật tính, cả con
người (em bé), cả những sinh vật nhỏ bé, vô ngôn (con ốc), cả những vật vô
tri, vô giác (giọt sương, bóng nắng, bông hoa)… Nói như nhà nghiên cứu
Nhật Chiêu: “Chính ở nơi những chúng sinh nhỏ bé, im lặng, vô ngôn nét từ
bi mới rạng ngời mầu nhiệm” (Ba nghìn thế giới thơm, NXB Văn nghệ,
2007).
Xuất phát từ “cái nhìn nhất thể hóa” ấy, Hai-cư thường biểu hiện mối
quan hệ tương tác, chuyển hóa, hòa điệu sâu xa giữa các sự vật hiện tượng
trong thế giới hữu hình lẫn vô hình.
Tịch liêu
thấm xuyên vào đá
tiếng ve kêu.
(Bashô)
5
Tiếng ve đang thấm xuyên vào đá hay nỗi tịch liêu thấm xuyên vào đá?
Có lẽ là cả hai. Cả thế giới vô hình (nỗi tịch liêu, âm thanh tiếng ve) và hữu
hình (đá) đều có thể xuyên thấm vào nhau, tương tác lẫn nhau. Ta có cảm
giác âm thanh của tiếng ve cùng với nỗi tịch liêu như làm cho cả đá núi cũng
tan ra để rồi tất cả cùng hòa vào nhau tạo thành “cái Một”. Một trong những
triết lí của Thiền là tất cả trở về “cái Một”. Và một nghịch lí tuyệt diệu của
nghệ thuật Thiền là: “Một trong Tất cả và Tất cả trong Một”.
Đây lại là một phát hiện khác đầy bất ngờ, thú vị của nhà thơ – họa sĩ
Buson:
Gió chiều thu
mặt nước nhẹ nhàng liếm
chân con cò.
Với cái nhìn theo logíc suy lí thông thường, mặt nước vốn là cái bất
động, vô tri; con cò là động vật, có sự vận động. Như vậy, nếu có một sự tác
động nào đó xảy ra thì chủ thể hành động phải là con cò. Ở đây lại là sự
ngược lại. Không phải con cò giẫm chân hay đá chân vào mặt nước mà là mặt
nuớc liếm chân con cò. Thật bất ngờ mà cũng thật thú vị biết bao!
Ở trên là sự tương tác, hòa điệu giữa các sự vật, hiện tượng trong tự
nhiên. Trong con mắt của nhà Thiền, con người cũng chỉ là một bộ phận của
tự nhiên, một “tiểu vũ trụ” trong cái “đại vũ trụ” ấy. Và con người cũng có
một quyền năng đặc biệt, có thể tác động vào tự nhiên, có thể làm vận hành
cả cái bánh xe tự nhiên khổng lồ ấy. Hãy xem cái sức mạnh ấy phát ra từ
tiếng vỗ bàn tay của nhà thơ - Thiền sư Bashô:
Tôi vỗ bàn tay
dưới trăng mùa hạ
tiếng dội về, ban mai!
Có gì liên hệ chăng giữa tiếng vỗ của bàn tay và ánh ban mai mọc?
Nhìn dưới con mắt thông thường, hai hiện tượng ấy chẳng có gì liên quan với
nhau. Thế nhưng, dưới cái nhìn Thiền, Bashô có cảm giác như tiếng vỗ tay
của mình đã gọi dậy, đã làm thức dậy ánh ban mai. Đó là ánh ban mai, ánh
sáng của vũ trụ, của tự nhiên hay đó cũng chính là ánh sáng trong tâm hồn
nhà thơ? Nhà nghiên cứu Nhật Chiêu có lời bình rất hay về bài thơ: “Với âm
vang đó, ánh ban mai đã mọc. Như thể vũ trụ đang trả lời. Hay đúng ra, ánh
sáng ấy ở ngay trong Bashô, không phân biệt với ánh sáng bên ngoài và nó
đang trả lời tiếng vỗ tay của chính ông.” (Ba nghìn thế giới thơm, NXB Văn
nghệ, 2007).
2.5. Về cảm thức thẩm mĩ
Ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng, triết lí Thiền tông, cảm thức thẩm mĩ
trong hai-cư cũng mang đậm màu sắc Thiền. Có thể tạm gọi đó là cảm thức
thẩm mĩ Thiền, là loại cảm thức thẩm mĩ thiên về coi trọng, đề cao cái đẹp
thanh nhã, tịch lặng, giản khiết, bình đạm. Do đó, bốn nguyên tắc mĩ học
thường được nhắc đến trong thơ hai-cư nói riêng, văn học nghệ thuật Nhật
6
bản nói chung là: Sabi (tịch lặng), Wabi (đơn sơ), Yugen (u huyền) và
Karumi (nhẹ nhàng).
Chính cảm thức thẩm mĩ ấy đã chi phối cách lựa chọn màu sắc, âm
thanh, đường nét, chuyển động,… trong miêu tả, phản ánh con người cũng
như ngoại vật.
Nhật Bản là đất nước của Mặt trời. Mặt trời được người Nhật tôn kính,
sùng bái, được lấy làm biểu tượng của quốc kì. Thế nhưng trong thơ Hai-cư
rất ít khi xuất hiện hình ảnh Mặt trời mà lại tràn ngập hình ảnh ánh trăng. Rõ
ràng cảm thức thẩm mĩ Thiền đã chi phối rất lớn trong việc chọn lựa màu sắc,
âm thanh, hình ảnh trong thơ Hai-cư
Đó là tiếng chuông nhưng cũng không là tiếng chuông vang vọng hay
tiếng chuông trầm lắng…chỉ có chuông, có tiếng chuông:
Hoa đào như áng mây xa
chuông từ Ueno đến?
hay từ Asakusa?
(Bashô)
Trên chuông chùa
một con bướm đậu
nghiêng mình ngủ mơ.
(Buson)
và đa số các bài hai-cư là “vô thanh”. Các âm thanh êm ái, trầm lắng
trên cũng chỉ làm tăng thêm vẻ tĩnh lặng của cảnh vật mà thôi.
Về đường nét, chuyển động, Hai-cư cũng thiên về chọn lựa những
đường nét đơn sơ, giản khiết. Đó là một cánh quạ trên cành khô:
Trên cành khô
cánh quạ đậu
chiều thu.
(Bashô)
Những chuyển động nhẹ nhàng, không gây ồn áo náo động. Đó là cánh
bướm “vẫn từ từ bay”:
Cánh bướm ô hay
có người đuổi bắt
vẫn từ từ bay.
(Garaku)
Một lần nữa có thể khẳng định chính cảm thức thẩm mĩ thiền đã tạo
cho Hai-cư Nhật Bản một thế giới nghệ thuật với những đặc trưng thẩm mĩ
riêng biệt, độc đáo, không thể lẫn lộn.
2.6. Không gian và thời gian nghệ thuật
2.6.1. Về không gian
Không gian trong Hai-cư thường là một không gian nhỏ bé. Đó có thể
chỉ là tàu lá chuối, nơi con ếch đang đánh đu:
Con ếch xanh
trên tàu lá chuối
7
đánh đu một mình.
(Kikaku)
là một cái bóng cây, nơi nhà thơ đang trú mưa cùng bướm:
Dưới bóng cây
trú mưa cùng bướm
duyên trần ai hay.
(Issa)
Trong Hai-cư cũng có những không gian bao la, rộng lớn. Nhưng đó
vẫn là cái bao la, rộng lớn trong tầm mắt quan sát của con người chứ không
phải cái bao la đến vô cùng tận mà với con mắt thường khó có thể quan sát
được. Đấy là bầu trời bao la với những tầng mây trắng, nơi chim vân tước
đang hát ca:
Vượt qua
những tầng mây trắng
vân tước hát ca.
(Kyoroku)
đấy là biển khơi bao la đang hiện ra trước mắt Issa:
Biển khơi
khi tôi nhìn thấy biển
Mẹ tôi ơi!
Đặc biệt, không gian trong thơ Hai-cư Nhật Bản luôn luôn là không
gian hiện thực. Đó là một không gian cụ thể, sinh động, đang hiện ra trước
mắt nhà thơ; một không gian hoàn toàn tự nhiên như từ hiện thực đi thẳng
vào thơ mà không qua sự điều chỉnh (phóng to hay thu nhỏ) theo cảm nhận
chủ quan của nhà thơ.
2.6.2. Về thời gian
Thời gian trong thơ Hai-cư là thời gian hiện thực. Đấy là thời gian của
một mùa nào đó trong năm (hoặc xuân, hoặc hạ, hoặc thu, hoặc đông) mà
mỗi bài thơ Hai-cư đều phải đề cập.
Hai-cư vẫn được gọi là “thơ của khoảnh khắc”. Tuy nhiên, cái “khoảnh
khắc” trong Hai-cư cũng không phải là cái khoảnh khắc, cái ngắn ngủi theo
cảm nhận chủ quan của nhà thơ mà nó là cái khoảnh khắc của hiện thực như
nó vốn vậy. Đó là khoảnh khắc nhà thơ nhìn vào một sư vật, một hiện tượng
cụ thể trong thế giới hiện thực. Nói chính xác hơn, đó là cái khoảnh khắc tâm
và vật gặp nhau và kết quả là bài Hai-cư được tạo thành ngay tức khắc. Đấy
là cái khoảnh khắc con ếch nhảy vào ao, cánh bướm đang ngủ mơ trên
chuông chùa, con ốc nhỏ đang trèo đỉnh Fuji, cái khoảnh khắc mặt nước đang
liếm chân con cò, giọt sương đang tan trên lá … Tất cả là hiện thực, là cái
“đang là”, là “tự nhiên nhi nhiên”.
Tóm lại, không gian, thời gian trong thơ Hai-cư luôn luôn là không
gian, thời gian của hiện thực khách quan, hầu như không chịu sự chi phối của
chủ quan nhà thơ, mặc dù, xét đến cùng, bất cứ hình tượng nghệ thuật nào
8
một khi đã đi vào văn chương đều phải qua con con mắt, qua cảm nhận của
con người.
2.7. Về bút pháp
Hai-cư luôn sử dụng bút pháp tả thực. Ngay khi trong hai-cư có xuất
hiện hình ảnh “vầng trăng trong nước”, một hình ảnh thường được sử dụng
với ý nghĩa tượng trưng chỉ những cái hư ảo, không có thực, thì đấy cũng là
hình ảnh thực chứ không phải hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng. Thử so sánh hai
câu thơ của Đạo Hạnh và Minh Trí của thơ Thiền Việt Nam:
Hữu không như thủy nguyệt
Vật trước hữu không không
(Hữu không – Đạo Hạnh)
(Có và không giống như ánh trăng trong nước
Đừng nên bám vào “có”, cũng đừng cho cái “không” là không)
(Có và không)
Tùng phong thủy nguyệt minh
Vô ảnh diệc vô hình
(Tâm hưởng – Minh Trí)
(Gió trên cành thông, trăng sáng dưới nước
Không có bóng cũng không có hình)
(Tìm tiếng vang)
với vài bài Hai-cư có hình ảnh “vầng trăng trong nước” ta sẽ thấy rõ
điều đó. Ví dụ:
Vốc mảnh trăng chơi
từ trong chậu nước
làm trăng đổ rơi.
(Ryuo)
Ôi con thủy điểu
mổ tan vầng trăng
trên mặt nước đầm.
(Zuiryu)
Rõ ràng, hình ảnh “thủy nguyệt” trong các bài thơ Thiền của Việt Nam
được sử dụng như một hình ảnh để so sánh, để khẳng định một triết lí rằng có
và không đều là hư ảo như vầng trăng trong đáy nước. Nó có đó nhưng không
phải là thật bởi nó chỉ là bóng chứ không phải là hình. Nói cách khác, đó là
hình ảnh được tâm trí huy động, liên tưởng chứ không phải là một hình ảnh
xuất phát từ sự quan sát trực tiếp. Nó chỉ là phương tiện chứ không phải là
cứu cánh. Trong khi đó, hình ảnh “vầng trăng trong nước” trong những bài
Hai-cư đều là hình ảnh thực, xuất phát từ sự quan sát cụ thể, trực tiếp. Nó
cũng không nhằm khẳng định, triết lí về sự hư ảo. Nếu không như thế sao
Ryuho có thể hồn nhiên mà “vốc mảnh trăng chơi”, Ryusui có thể say mê
ngắm nhìn vầng trăng đang “ngủ say” dưới nước, con thủy điểu có thể “mổ
tan vầng trăng”? Không cần biết thực sự là “có” hay “không”, thực hay ảo,
thật hay giả; chỉ cần biết ngay lúc này đây, trăng đang hiện hình trong nước:
9
sáng trong, lung linh, huyền ảo, tuyệt trần. Và ta hãy chiêm ngưỡng nó, chơi
đùa cùng nó. Ta như nghe được những lời nhắn nhủ “vô thanh” từ những bài
hai-cư đơn sơ mà huyền diệu ấy. Chả trách Thi tiên Lí Bạch của Trung Quốc,
trong lúc ngà say, đã nhảy cả xuống sông mà ôm lấy vầng trăng.
Hai-cư thường tạo ra sự bất ngờ, đột phá ở dòng thơ thứ ba. Đó có thể
là một hình ảnh, một sự việc hoàn toàn khác hẳn sự liên tưởng, tưởng tượng,
dự đoán của người đọc có được trên cơ sở hai dòng thơ đầu; hoặc là một sự
đột nhiên chuyển mạch, làm thay đổi cảm xúc nơi người đọc. Chẳng hạn,
trong một bài thơ của Issa, hai dòng đầu:
Tuyết tan mùa
thôn làng tràn ngập
gợi người ta liên tưởng đến một tai ách: lụt lội do nước lũ từ băng tuyết
tan gây ra, thì dòng thơ thứ ba lại là:
một bầy trẻ thơ.
Thật bất ngờ và cũng thật thú vị, dòng thơ đã đưa đến một hình ảnh
hoàn toàn mới mẻ, phá tan cảnh tượng được gợi lên từ hai dòng đầu.
Hay một bài thơ khác của Ryokan cũng có kết cấu như thế. Hai dòng
đầu:
Tên trộm đi rồi
bỏ quên nơi cửa sổ
gợi người ta liên tưởng đến một đồ vật, một dấu tích – chứng cớ phạm
tội – nào đó. Thì thật bất ngờ và thú vị làm sao khi nơi cửa sổ kia lại là:
một vầng trăng soi.
Vầng trăng tròn đầy, viên mãn, sáng trong của vũ trụ đang soi chiếu
ngoài cửa sổ hay đấy cũng chính là tâm hồn trong sáng, rạng ngời, vô tư, hồn
nhiên đến thánh thiện – một tâm hồn trẻ thơ – của thi sĩ Đại Ngu đang soi
chiếu vào tâm hồn của mỗi chúng ta?
Có thể nói, chính bút pháp ấy đã tạo nên hiệu quả nghệ thuật đặc sắc.
Nó đem đến cho người đọc những cảm xúc mới mẻ, bất ngờ, đầy thú vị như
đang đi trên một con đường mới mà bất cứ khi nào cũng có thể đột ngột rẽ
hướng, đột ngột đổi chiều. Và nơi những chiều hướng mới ấy lại đầy những
hoa thơm cỏ lạ.
2.8. Về kết cấu
Thứ nhất, hai-cư không có sự cân đối, hài hòa, đều đặn. Một bài hai-cư
gồm 17 âm tiết (số lẻ), được chia làm 3 dòng (cũng là số lẻ) dài ngắn không
đều nhau (5/7/5 âm tiết). Kết cấu như thế gợi lên một cái gì còn dở dang,
chưa hoàn thành, một sự trống vắng cần được tiếp tục lấp đầy.
Thứ hai, tất cả đều không có tựa đề. Nghĩa là nó chưa được định danh.
Mỗi bài thơ như một chiếc lá vẫn còn tươi nguyên, hoà trong tự nhiên. Và
như thế, mỗi người đến với Hai-cư đều có thể cảm nhận, chiêm ngưỡng
chúng theo cách riêng của mình mà không bị sự chi phối bởi chủ ý của tác
giả.
10
Cuối cùng, xét trên đơn vị câu (dòng) thơ, mỗi dòng thơ trong một bài
Hai-cư không phải là một cấu trúc ngữ pháp độc lập, nếu đứng một mình, nó
không thể có được ý nghĩa cụ thể, trọn vẹn. Chính vì thế, khi phân tích, cảm
nhận thơ Hai-cư không thể lần lượt phân tích, cảm nhận từng dòng thơ mà
phải luôn đặt các hình ảnh (được gợi lên ở mỗi dòng thơ) trong mối tương
quan lẫn nhau và trong sự thống nhất của toàn bài.
2.9. Về vần điệu và nhịp điệu
Khác xa với thơ Việt Nam và thơ của nhiều nước trên thế giới, Hai-cư
Nhật Bản không sử dụng vần điệu, nhịp điệu như một yếu tố nghệ thuật. Kết
cấu 5/7/5 âm tiết không hẳn là nhịp điệu của mỗi bài thơ. Do đó, mỗi bài thơ
đọc lên nghe như một câu văn xuôi.
Lưu ý: Trong bản dịch của Nhật Chiêu và một số dịch giả khác,
mỗi bài Hai-cư đều như có vần điệu, đó là do các dịch giả đã cố tình Việt hóa
một thể thơ quá xa lạ với truyền thống thơ ca của dân tộc, tạo sự gần gũi,
quen thuộc trong tâm lí tiếp nhận của độc giả Việt Nam.
II. MỘT VÀI LƯU Ý KHI GIẢNG DẠY THƠ HAI-CƯ
1. Vấn đề tích hợp văn hóa.
Bất cứ một tác phẩm nghệ thuật nào cũng mang dấu ấn của một nền
văn hóa nhất định. Do đó, không thể hiểu, cảm được một cách sâu sắc cái
hay, cái đẹp, cái sâu xa, ý vị của một tác phẩm nghệ thuật nếu không am hiểu
gì về nền văn hóa đã sinh thành ra nó. Chính vì thế, để tiếp cận hai-cư (mà
người Nhật còn gọi là “Hài cú đạo”), một thể thơ được đánh giá “là tinh hoa
của văn hóa Nhật Bản” (Lưu Đức Trung, Haiku – hoa thời gian, NXB Giáo
dục, 2007) bên cạnh hoa đạo, trà đạo, vườn đá, sân khấu nô,… không thể
không có sự hiểu biết nhất định về văn hóa Nhật Bản.
Nói đến văn hóa phương Đông cũng không thể không kể đến ảnh
hưởng, chi phối mạnh mẽ của tư tưởng, tinh thần Thiền tông. Về nguồn gốc,
Thiền tông Nhật Bản cũng như Việt Nam đều chủ yếu được du nhập từ Trung
Quốc, nhưng nếu ở Trung Quốc, Thiền tông vẫn chủ yếu tồn tại ở dạng học
thuyết tôn giáo thì Thiền tông ở Nhật Bản đã thấm sâu vào văn hóa cũng như
đời sống con người. Riêng trong lĩnh vực văn học, có thể nói tinh thần, mĩ
học Thiền đã ảnh hưởng trên mọi mặt từ đề tài đến nội dung và cả hình thức
nghệ thuật của thể thơ Hai-cư (một thể loại được xem là mang đậm nhất dấu
ấn Thiền tông) thậm chí nhiều nhà nghiên cứu Hai-cư còn cho rằng mỗi bài
Hai-cư như một phút “hoát nhiên đại ngộ” của Thiền giả.
Về đời sống tinh thần, người Nhật rất yêu thích thiên nhiên. Tâm hồn
họ luôn hướng về vẻ đẹp thiên nhiên. Nhà nghiên cứu người Mĩ, P.I. Smeeth
trong cuốn thiên nhiên Nhật, đã có nhận xét: “Cảm xúc về cái đẹp, khuynh
hướng chiêm ngưỡng vẻ đẹp là đặc trưng tiêu biểu cho mọi người Nhật – từ
người nông phu cho đến nhà quí tộc. Bất cứ người nông dân Nhật Bản bình
thường nào cũng là một nhà mĩ học, một nghệ sĩ biết cảm thụ cái đẹp từ trong
thiên nhiên”.
11
Về điều kiện tự nhiên, Nhật Bản là một đất nước luôn luôn phải đối
mặt với những khắc nghiệt của tự nhiên: động đất, núi lửa, sóng thần, bão
tuyết,… thường xuyên xảy ra. Chính điều kiện tự nhiên ấy tạo cho người
Nhật sự nhạy cảm đặc biệt trước những cái đẹp mong manh, chóng tàn, dễ
vỡ…; một niềm bi cảm sâu xa trước thế giới vô thường.
Theo hướng tích hợp này, người dạy và người học có thể khai thác các
trang Web văn hóa – du lịch, văn hóa - tín ngưởng Nhật Bản, …v.v, các
ngành nghệ thuật Nhật, đặc biệt là hội họa vì theo nhà nghiên cứu Lưu Đức
Trung, “có lẽ không có loại thơ nào lại gần gũi đến đồng nhất với họa như
Haiku” (Haiku – hoa thời gian, NXB Giáo dục, 2007).
2. Nắm vững đặc trưng thể loại
Hai-cư Nhật Bản có những đặc trưng về nội dung, hình thức, nghệ
thuật rất khác so với các thể thơ khác trên thế giới, đặc biệt là thơ ca Việt
Nam. Chẳng hạn, trên cơ sở ngôn ngữ đơn lập, giàu thanh điệu (6 thanh), thơ
ca Việt Nam thường chú trọng nhạc điệu, vần điệu, những từ ngữ luyến láy,
các phép tu từ,…v.v.
Trong khi đó, ngôn ngữ Nhật là ngôn ngữ hòa kết, lại rất ít thanh điệu
nên thơ ca Nhật hầu như không sử dụng các yếu tố thanh điệu, vần điệu, các
phép tu từ, … như một yếu tố nghệ thuật. Vì vậy, nắm rõ những đặc trưng
của đối tượng sẽ giúp ta tìm ra cách tiếp cận hợp lí, tránh được cái nhìn định
kiến, lấy thước đo thẩm mĩ của ta mà “đo” cho người.
3. Việc tiếp cận văn bản
Do đây là một thể thơ nước ngoài, văn bản mà ta tiếp cận được là văn
bản dịch. Nguyên tắc tiếp cận các văn bản dịch thông thường ta phải có sự so
sánh, đối chiếu với văn bản gốc. Nhưng có lẽ hầu hết giáo viên Ngữ văn Việt
Nam (trừ những người vừa nghiên cứu vừa giảng dạy văn học Nhật Bản) đều
không am hiểu tiếng Nhật. Cho nên, trong quá trình tiếp cận văn bản Hai-cư,
nếu cần, giáo viên có thể tìm, so sánh một số bản dịch của các dịch giả khác
nhau để có thể tìm ra cách hiểu hợp lí nhất đối với văn bản cần tiếp cận.
Xuất phát từ đặc trưng ngôn ngữ Hai-cư: rất hạn chế việc sử dụng các
tính từ, trạng từ miêu tả, nên khi tiếp cận văn bản hai-cư không nên sa đà vào
các tính từ, trạng từ, các từ ngữ l1uyến láy (nếu có) trong bài thơ vì đó rất có
thể chỉ là ngôn ngữ của dịch giả.
4. Tránh lối mòn suy nghĩ
Khi giảng bình Hai-cư, cần tránh lối suy diễn theo thói quen đã trở
thành lối mòn trong cách nghĩ, cách cảm nhận đối với một số hình ảnh quen
thuộc thường xuất hiện trong thơ ca Việt Nam và Trung Quốc. Chẳng hạn,
đối với thơ ca Việt Nam và Trung Quốc, nói đến hình ảnh hoa rơi thường là
nói đến nỗi buồn, sự xót xa trước cái đẹp bị tàn phai, vùi dập:
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu.
(Nguyễn Du – Truyện Kiều)
12
Hay:
Nhất phiến hoa phi giảm khước xuân
Phong phi vạn điểm chính sầu nhân.
(Đỗ Phủ - Khúc giang)
Trong khi đó, với Hai-cư thì hầu như không thế. Các nhà thơ Hai-cư
nhìn hoa rụng, hoa rơi, hoa bị nai ăn, ngựa ăn,… trong sự bình thản; coi đó là
qui luật, là tự nhiên và phát hiện ra vẻ đẹp trong chính sự tự nhiên, hồn nhiên
ấy:
Trăng treo chiều tà
lả tả hoa
mặt đàn koto
(Shiki)
Nở bên đường
một cành hoa Bụt
đưa mình ngựa ăn
(Bashô)
Chính vì thế, khi hướng dẫn học sinh cảm nhận bài thơ:
Từ bốn phương trời xa
cánh hoa đào lả tả
gợn sóng hồ Bi-oa
(Bashô)
nên hướng đến việc phát hiện vẻ đẹp đầy thi vị của hình ảnh vô số cánh
hoa đào đang rơi lả tả xuống mặt hồ tạo nên một không gian mênh mông,
huyền ảo, tràn ngập trong sắc hồng, trong sự mềm mại, dịu dàng. Đồng thời,
những cánh hoa nhỏ bé tưởng chừng như chẳng liên quan gì đến mặt nước hồ
Bi-oa trong khoảnh khắc ấy dường như đã làm cho mặt hồ gợn sóng. Mà
cánh hoa rơi làm cho mặt hồ gợn sóng hay chính sóng nước hồ Bi-oa đã làm
cho những cánh hoa rơi rụng? Không thể xác định. Chỉ có thể cảm nhận một
vẻ đẹp tinh khôi, huyền diệu của thiên nhiên, tạo vật trong mối tương giao,
hòa điệu sâu xa…
Như vậy, thông qua việc cảm nhận trong thế so sánh cùng một hình
ảnh hoa rơi, ta thấy rằng cùng xuất phát từ tình yêu thiên nhiên nhưng hai-cư
không lộ cái chủ quan của ý kiến, của cảm xúc cá nhân. Trong khi đó, các thi
nhân Việt Nam và Trung Quốc vẫn nặng cái “ngôn chí”, “tải đạo” và giàu
lòng trắc ẩn. Đó cũng chính là đặc trưng, là nét riêng mà mỗi nền văn học dân
tộc đóng góp vào kho tàng văn học nhân loại.
III. MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIẢNG DẠY THƠ HAI-CƯ
1. Tạo tâm thế
Không như văn học các nước Trung Quốc, Anh, Pháp, Nga,…những
đối tượng đã có phần quen thuộc với học sinh vì đã có dịp tiếp cận ở những
cấp dưới, với Hai-cư, đây là lần đầu tiên học sinh được tiếp xúc với văn học
Nhật Bản. Do đó, các em không khỏi có tâm lí xa lạ, bỡ ngỡ. Chính vì thế,
13
trước khi đi vào nội dung cụ thể của bài học, giáo viên có thể khơi gợi, giúp
học sinh huy động những ấn tượng, kiến thức có được về nền văn hóa, văn
học Nhật Bản. Chẳng hạn, giáo viên có thể hỏi: Em biết gì về nền văn hóa
Nhật Bản (gợi ý: Về trang phục? Về lối sống? Về nghệ thuật?,… ), Hoặc với
sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, giáo viên cũng có thể cho học sinh xem
trên Power point một số hình ảnh về đất nước, con người, văn hoá Nhật Bản
(Chẳng hạn như hình ảnh Hoa anh đào, núi Phú Sĩ; cảnh lễ hội ngắm hoa,
cảnh uống trà, cảnh đấu kiếm, một đoạn trích Sân khấu Nô,…
Trên cơ sở những gì HS đã huy động được hoặc những ấn tượng qua
một số hình ảnh giáo viên cung cấp, giáo viên có thể chốt lại, giới thiệu sơ
lược vài nét đặc trưng nền văn hóa, văn học Nhật Bản: Đấy là xứ sở hoa anh
đào với nền văn hóa thấm đẫm tinh thần Thiền tông (Zen), một nền văn hóa
mà từ những sinh hoạt thông thường (uống trà, ngắm hoa) đến võ thuật, thơ
ca,… đều được nâng lên thành nghệ thuật, thành ĐẠO: hoa đạo, trà đạo,
kiếm đạo, và… Hài cú đạo (tức thơ Hai-cư). Với những cách dẫn dắt ấy
(không tốn nhiều thời gian) nhưng có tác dụng tạo được tâm thế hào hứng,
khơi gợi sự tò mò, hứng thú nơi học sinh trước một đối tượng xa lạ.
2. Chú trọng đặc trưng thể loại
Việc đổi mới PPDH Ngữ văn rất chú trọng đến cách tiếp cận tác phẩm
theo đặc trưng thể loại. Điều này được thể hiện ngay trong cấu trúc chương
trình SGK đổi mới gần đây nhất. Nếu trước đây, việc sắp xếp các đơn vị tác
phẩm trong SGK hoàn toàn dựa theo tiến trình lịch sử văn học thì giờ đây,
việc sắp xếp ấy trước hết dựa vào thể loại.
Hai-cư là một thể thơ hoàn toàn mới lạ so với các thể thơ truyền thống
của Việt Nam (Lục bát, Song thất lục bát,… ) hay Trung Quốc (Đường luật
thất ngôn, ngũ ngôn,…). Với thời lượng hạn chế (2 tiết cho chương trình Ngữ
văn 10 Nâng cao và 1 tiết đọc thêm cho chương trình Ngữ văn 10 Cơ bản) lại
phải chuyển tải một dung lượng kiến thức khá lớn (2 tác giả và 6 bài thơ cho
chương trình Ngữ văn 10 Nâng cao; 1 tác giả và 8 bài thơ cho chương trình
Ngữ văn 10 Cơ bản), không khỏi khiến giáo viên cảm thấy áp lực về thời
gian.
Để giải quyết áp lực ấy, khi dạy phần này, giáo viên thường hay lướt
nhanh phần Tiểu dẫn, tức phần trình bày về nguồn gốc, đặc trưng của thể thơ
hai-cư, để dành thời gian khai thác, tìm hiểu những bài thơ cụ thể. Tuy nhiên,
bằng thực tế giảng dạy, người viết nhận thấy rằng nếu lướt qua phần đặc
trưng thể loại, giáo viên khó mà giúp học sinh cảm nhận được cái hay, cái
đẹp của một bài Hai-cư. Bởi trong tâm lí tiếp nhận quen thuộc của học sinh,
một bài thơ hay, trước hết, vẫn phải là một bài thơ có những hình ảnh đẹp,
ngôn từ đẹp, các biện pháp tu từ độc đáo, những giai điệu nhịp nhàng, trầm
bổng,… Mà tất cả những yếu tố ấy hầu như rất khó tìm thấy trong Hai-cư. Do
đó, thay vì dành thời gian để cố gắng khai thác, tìm hiểu tất cả các đơn vị tác
phẩm Hai-cư được trích trong SGK, giáo viên nên ưu tiên dành thời gian (có
thể dành khoảng 15 đến 20 phút) để giúp HS nắm rõ phần đặc trưng thể loại.
14
Thời gian còn lại, GV chỉ chọn giảng khoảng 3 - 4 / 6 – 8 bài thơ được đưa
vào SGK. Những bài còn lại, GV (giáo viên) yêu cầu HS (học sinh) về nhà
viết bài cảm nhận ngắn (từ 5 – 7 dòng) và sẽ kiểm tra vào tiết học sau.
Nếu giảng dạy chương trình Ngữ văn nâng cao, GV nên đưa phần thơ
Hai-cư vào phần chuyên đề tự chọn và dành cho chuyên đề từ 3 – 4 tiết học.
Với thời lượng ấy, GV có thể phân nhóm, gợi ý để HS tìm hiểu trước, và lên
lớp thuyết trình về hai-cư. Trên cơ sở những gì HS đã trình bày, GV sẽ bổ
sung, củng cố, nâng cao những kiến thức về hai-cư cho HS. Được như thế,
GV sẽ có điều kiện khắc sâu kiến thức, giúp các em cảm nhận, phát hiện vẻ
đẹp giản khiết, đơn sơ, bình đạm mà hết sức tinh tế của thể thơ “bé hạt tiêu”
này.
3. Nghệ thuật nhấn, lướt
Như đã trình bày ở mục III.2, số lượng tác phẩm hai-cư được trích học
là rất nhiều so với thời lượng được phân phối. Ngoài thời gian dành cho việc
cung cấp kiến thức về đặc trưng thể loại (buộc phải có), thời gian còn lại, GV
chỉ nên chọn giảng sâu từ 3 đến 4 bài, những bài còn lại, GV gợi ý để HS về
nhà tìm hiểu. Việc nhấn bài nào, lướt bài nào là tùy thuộc vào chủ quan của
từng GV. Tuy nhiên, việc chọn giảng phải chú ý bảo đảm một số nội dung
chính cũng như làm rõ những đặc trưng cơ bản của Hai-cư. Chẳng hạn, trong
8 bài hai-cư của Bashô được trích giảng trong SGK Ngữ văn 10 cơ bản, ta có
thể tạm xếp vào 4 cụm nội dung:
Cụm 1 (bài 1, 2): nỗi nhớ - tình yêu quê hương
Cụm 2 (Bài 3, 4, 5): nỗi đau, lòng trắc ẩn – tình yêu thương con người
và các sinh linh nhỏ bé.
Cụm 3 (bài 6, 7): mối tương giao, hòa điệu sâu xa giữa các sự vật, hiện
tượng – tình yêu thiên nhiên.
Cụm 4 (bài 8): khát vọng lãng du – tình yêu cuộc sống
Như vậy, nên chăng ở mỗi cụm nội dung ta chỉ nên chọn giảng 1 bài
(có thể kết hợp, so sánh với những bài còn lại trong cụm). Và trong 4 bài
được chọn ấy lại phải tính đến việc làm bật được những đặc trưng cơ bản của
thể loại hai-cư. Ví dụ, để thể hiện qui tắc sử dụng quí ngữ (từ chỉ mùa) của
hai-cư thì mỗi bài trong 4 bài được chọn nên thuộc vào một mùa trong năm.
Bên cạnh đó, để làm rõ cái nhìn nhất thể hóa, sự tương quan, chuyển hóa lẫn
nhau giữa các sự vật, hiện tượng tự nhiên cũng như giữa con người và vạn
vật, không nên bỏ qua một trong các bài 3, 5 và 6. Hay để thấy được cảm
thức thẩm mĩ của Hai-cư thiên về cái đẹp của sự vắng lặng, u trầm, đơn sơ,
mềm mại,… lại không nên bỏ qua một trong các bài 6, 7, 8.
Trong 4 cụm nội dung trên, nội dung thứ 3 – tình yêu thiên nhiên – lại
là một nội dung lớn, chiếm tỉ lệ cao nhất trong thơ Hai-cư. Do đó, khi hướng
dẫn HS tìm hiểu nội dung này, GV có thể giới thiệu thêm một số bài Hai-cư
của các tác giả khác. Ví dụ:
Trên chuông chùa
một con bướm đậu
15
nghiêng mình ngủ mơ.
(Buson)
Bên dòng Sumida
chú chuột kia uống nước
mưa mùa xuân pha
(Issa)
4. Khơi gợi để HS tự cảm nhận, trải nghiệm
Hai-cư rất thích hợp với việc phát huy vai trò của chủ thể tiếp nhận
nhờ ở tính mơ hồ, tính gợi mở cao. Mỗi bài Hai-cư thông thường chỉ ghi lại
một phong cảnh với vài nét phác họa thật đơn sơ, trong một thời điểm nhất
định nhưng qua đó có thể khơi gợi những cảm xúc, suy tư; những triết lí sâu
xa, đa chiều, vô giới hạn. Chính vì thế, rất cần thiết khuyến khích HS tự nêu
lên những cảm nhận, cách hiểu của riêng mình. Chẳng hạn khi hướng dẫn HS
cảm nhận, tìm hiểu bài thơ:
Lệ trào nóng hổi
tan trên tay tóc mẹ
làn sương thu.
(Basho)
GV có thể đặt câu hỏi khơi gợi: Em có cảm nhận thế nào về hình ảnh “làn
sương thu” trong bài thơ? (Gợi ý: Đặc điểm, vẻ đẹp của làn sương mùa thu?
Nó có liên hệ thế nào với các hình ảnh “giọt lệ”, “tóc mẹ” hay với cuộc đời?).
Từ việc xác định đó, hãy nêu cảm nhận của em về bài thơ (Bài thơ thể hiện
cảm xúc, tình cảm gì của nhân vật trữ tình? Thể hiện triết lí gì về con người,
về cuộc đời?). Với câu hỏi này, chắc chắn HS sẽ có nhiều ý kiến rất khác
nhau. Có em cho rằng hình ảnh “làn sương thu” là hình ảnh thực. Đó là làn
sương mùa thu. Cũng có nhiều em cho rằng đấy là hình ảnh biểu tượng để chỉ
mái tóc của mẹ, chỉ giọt lệ hay chỉ cuộc đời,… Trên cơ sở những gì HS đã
trình bày, GV nhận xét, tổng hợp và nâng cao.
Hay khi hướng dẫn, khơi gợi để HS cảm nhận bài thơ:
Chim đỗ quyên hót
ở kinh đô (1)
mà nhớ kinh đô (2)
(Basho)
GV có thể đặt câu hỏi khơi gợi: giữa “kinh đô” (1) và “kinh đô” (2) có
gì giống và khác nhau? Đề trả lời được câu hỏi này, GV gợi ý HS đọc phần
chú thích về bài thơ (SGK, tr 156). Với phần chú thích ấy, HS sẽ dễ dàng chỉ
ra: điểm giống nhau giữa “kinh đô” (1) và “kinh đô” (2) là cùng để chỉ kinh
đô Ki-ô-tô (Nhật Bản); điểm khác nhau là “kinh đô” (1) chỉ kinh đô Ki-ô-tô
của hiện tại, nơi nhà thơ vừa trở về sau hai mươi năm xa cách, còn “kinh đô”
(2) chỉ kinh đô Ki-ô-tô của quá khứ, nơi nhà thơ đã sống thời tuổi thơ, tuổi
trẻ.
Trên cơ sở phát hiện ấy của HS, GV tiếp tục khợi gợi: Nhắc đến nơi
mình từng sống thời tuổi thơ, thường gợi người ta nhớ đến những gì? Trong
16
tâm trạng như thế nào? Với câu hỏi này, HS có thể có rất nhiều ý kiến, thậm
chí là những ý kiến trái nhau. Có em sẽ cho nhớ về nơi mình từng sống thời
tuổi thơ là nhớ về những kỉ niệm tươi đẹp trong tâm trạng hân hoan, vui
sướng; cũng có em cho nhớ về nơi mình từng sống thời tuổi thơ là nhớ về gia
đình, nhớ về cha mẹ (mà có thể giờ đã không còn) trong tâm trạng bâng
khuâng, ngậm ngùi, xót xa; v…v… Đến đây, GV có thể dễ dàng giúp HS
phát hiện vẻ đẹp tâm hồn nhà thơ bằng câu hỏi: Như vậy, qua việc đứng trên
mảnh đất quê hương hiện tại mà nhớ về một quê hương của quá khứ, của tuổi
thơ, của kỉ niệm,…, ta thấy được điều gì trong tâm hồn, tình cảm của nhân
vật trữ tình? Trả lời được câu hỏi này cũng chính là khi HS đã tự mình “hoá
thân” để cảm nhận, trải nghiệm trọn vẹn bài thơ.
Khi vận dụng cách tiếp cận này, GV nên lưu ý khuyến khích, trân
trọng tất cả những cảm nhận riêng của các em, thậm chí cả những cảm nhận
trái chiều (miễn là những cảm nhận ấy không quá khiên cưỡng). Nếu GV
cứng nhắc, buộc các em phải theo cách cảm, cách nghĩ của mình, sẽ làm các
em cảm thấy bị áp đặt, nhất là sẽ làm các em e ngại, không dám, không muốn
nêu cảm nhận của mình ở những lần sau. Tuy nhiên, GV cũng không thể chỉ
dừng lại ở việc ghi nhận, tổng hợp ý kiến, mà trên cơ sở những gì HS đã phát
hiện, GV phải đi sâu, giảng bình để nâng cao, khắc sâu kiến thức cho HS.
5. Giảng bình trong thế so sánh
Giảng bình là một trong những phương pháp cảm thụ và truyền thụ thơ
văn khá quen thuộc mà GV thường sử dụng trong quá trình giảng dạy. Với xu
hướng đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, nhiều người cực đoan cho
rằng giảng bình là phương pháp cũ, không phát huy được tính tích cực, chủ
động của HS. Tuy nhiên, thật ra nếu biết sử dụng đúng lúc, đúng cách,
phương pháp giảng bình có thể mang đến những hiệu quả rất cao trong giảng
dạy Ngữ văn. Nó là một trong những phương pháp tạo nên “chất văn” cho
một giờ văn.
Riêng đối với thơ Hai-cư, đây là phương pháp đặc biệt thích hợp. Bởi
vẻ đẹp của thơ Hai-cư vốn là một vẻ đẹp không phân chất, một vẻ đẹp tự
nhiên, hồn nhiên, một vẻ đẹp tự nó. Nó hầu như khướt từ mọi sự phân tích lí
tính. Chỉ có thể cảm nhận vẻ đẹp của Hai-cư bằng sự “hóa thân” vào tác
phẩm để tự mình trải nghiệm, cảm nhận.
Như đã trình bày ở mục Một số đặc trưng cơ bản, ta thấy Hai-cư có
những đặc trưng rất khác lạ so với truyền thống thơ ca Việt Nam. Để tìm
hiểu, tiếp cận một đối tượng còn khá mới mẻ như thế rất cần có sự so sánh
đối chiếu để một mặt, có thể tìm thấy những điểm tương đồng, tạo cảm giác
gần gũi, quen thuộc trong tâm lí tiếp nhận; một mặt, có thể phát hiện những
nét mới mẻ, độc đáo của đối tượng cần tiếp cận.
Theo hướng tiếp cận này, ta có thể tiến hành so sánh tho Hai-cư với
các đối tượng khác trên một số bình diện, cấp độ như: đề tài, thể loại, cảm
thức thẩm mĩ, thế giới hình ảnh, chủ thể trữ tình,… Chẳng hạn khi tiếp cận
bài thơ:
17
Lệ trào nóng hổi
tan trên tay tóc mẹ
làn sương thu.
(Bashô)
ta có thể so sánh hình ảnh “làn sương thu” trong bài thơ với hình ảnh làn
sương được sử dụng trong nhiều câu thơ của Việt Nam. Ví dụ như:
Mẹ già phơ phất mái sương
Con thơ măng sữa, vả đương bù trì
(Đặng Trần Côn – Chinh phụ ngâm)
Tuổi già hạt lệ như sương
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan.
(Nguyễn Khuyến – Khóc Dương Khuê)
Ta thấy hình ảnh làn sương trong các câu thơ Việt Nam vừa dẫn có vẻ
đơn nghĩa, nó gắn với một đối tượng cụ thể. Đó là mái tóc (trắng) như sương
(trong câu thơ của Đặng Trần Côn), là giọt lệ (ít ỏi, hiếm hoi) như hạt sương
(trong câu thơ của Nguyễn Khuyến) và là cuộc đời (mong manh, vô thường)
như giọt sương trên đầu ngọn cỏ (trong câu thơ của Vạn Hạnh thiền sư).
Trong khi đó, hình ảnh làn sương thu trong bài hai-cư trên rất mơ hồ, đa
nghĩa: nó có thể là một hình ảnh thật, là làn sương của mùa thu; nhưng nó
cũng có thể là giọt lệ (lệ khóc mẹ), là mái tóc (mớ tóc còn lại của mẹ) hay là
cuộc đời ngắn ngủi, vô thường.
Hay khi tiếp cận bài thơ:
Vắng lặng u trầm
thấm sâu vào đá
tiếng ve ngâm
(Bashô)
ta có thể so sánh với một số câu thơ khác của Việt Nam có cùng tứ
thơ. Ví dụ như:
Ngư ca tam nguyệt yên hồ khoát
Mục địch nhất thanh thiên nguyệt cao
(Ông chài hát lên ba lần làm cho mặt hồ phủ khói mở rộng ra
Trẻ mục đồng thổi một tiếng sáo làm cho trăng trên trời cao hơn)
(Nguyễn Trãi - Chu trung ngẫu thành - bài 2)
Ta thấy bài thơ của Bashô cũng như các câu thơ vừa dẫn trên cùng
được xây dựng trên một tứ thơ là sự tương giao, tác động, chuyển hoá vào
nhau giữa các sự vật, hiện tượng tưởng chừng không thể có mối quan hệ với
nhau. Đấy là “tiếng ve” (âm thanh) trong buổi chiều tà vắng lặng, ụ tịch nghe
như có thể “thấm sâu” vào “đá” (vật thể) trong bài thơ của Bashô; đấy là
tiếng hát của ông chài có thể làm cho khói phủ trên mặt hồ tan ra, tiếng sáo
của mục đồng có thể tác động đến cả vầng trăng trên trời, làm cho trăng cao
hơn trong câu thơ của Nguyễn Trãi; và đấy là khúc nhạc (âm thanh) có thể
nhập vào vật thể (xương tuỷ), có thể xuyên thấm vào tận tâm hồn (thấm tận
hồn) trong câu thơ của Xuân Diệu.
18
Tóm lại, chỉ trong so sánh - đối chiếu, đặc trưng của từng đối tượng
mới được biểu hiện rõ ràng nhất. Và cũng chỉ trong so sánh - đối chiếu, ta
mới có thể nhận ra lặn sâu bên dưới những khác biệt, những cái thuộc về dân
tộc, những tác phẩm đã đạt đến chân giá trị (bất kể Đông, Tây; kim, cổ) đều
có những điểm gặp gỡ, tương đồng, những cái thuộc về nhân loại.
6. Khơi nguồn sáng tạo
Hai-cư là thể thơ đạt đến độ tinh tế về mặt nghệ thuật. Nó là “tinh túy
hồn thơ Nhật Bản” (Lê Từ Hiển). Về mặt hình thức, nó có vẻ rất đơn sơ, mộc
mạc, hầu như trút bỏ mọi thủ pháp nghệ thuật cầu kì. Mỗi bài thơ chỉ gồm 7,
8 từ với một vài hình ảnh cụ thể trong một thời điểm nhất định; không cần
hiệp vần; không qui định ngắt nhịp, phối thanh. Đó là một trong những điều
kiện thuận lợi giúp HS, trên cơ sở nắm được một số đặc trưng cơ bản của hai-
cư, có thể tự mình sáng tạo những bài thơ “kiểu hai-cư”. Và trên thực tế
giảng dạy, mỗi lần dạy xong bài Thơ Hai-cư, lại nhận được rất nhiều những
bài thơ “kiểu Hai-cư” của các em gửi “nhờ cô xem hộ”. Có thể trích ra đây
một số bài của HS khối 10 năm học 2010 - 2011, trường THPT số 2 Bảo
Yên:
Trên ngọn cỏ xanh
một chú kiến nhỏ
đu mình theo gió.
(Ngô Hạnh Trúc Quỳnh – 10A1)
Rực đỏ màu phượng
đẫm thân cây
nắng hè.
(Nguyễn Bảo Ngọc– 10A1)
Ầu ơ tiếng hát ru
đầu tựa gối mẹ
ấm êm.
(Nguyễn Văn Quyền – 10A5)
Chưa bàn đến chất lượng nghệ thuật của những bài thơ ấy. Cái đáng
ghi nhận ở đây là sự say mê, yêu thích hai-cư của các em. Đặc biệt, nó cho
thấy hai-cư, một cách âm thầm, đã tập cho các em thói quen quan sát cuộc
sống và ghi lại những cảm nhận của mình. Học hai-cư chính là học cách nhìn,
cách yêu cuộc sống vậy!
19
IV. GIÁO ÁN ỨNG DỤNG
Tiết 53: Đọc thêm:
THƠ HAI-CƯ CỦA BA-SÔ
A/ Mục tiêu bài học:
1. Kiến thức: Thấy được nghệ thuật của thơ Hai cư: ngắn gọn, súc tích, thông qua
các mối quan hệ để thấy được nội dung cần phản ánh.
2. Kĩ năng: Rèn kĩ năng đọc diễn cảm, phân tích tác phẩm thơ Hai-cư.
3. Thái độ: Tâm hồn yêu thương con người, yêu thiên nhiên, nhạy cảm với những
rung động nhỏ nhất trong tâm hồn Ba-sô.
B/ Dự kiến hoạt động để đạt mục tiêu bài học:
*HĐ1: Tìm hiểu khái quát về tác giả, tác phẩm, thể loại thơ Hai-cư.
*HĐ2: Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật.
C/ Chuẩn bị:
1. Giáo viên: SGK, SGV Ngữ văn 10.
2. Học sinh: Hs đọc kĩ bài và soạn bài theo hướng dẫn đọc thêm trong sgk.
D/ Tổ chức các hoạt động dạy học:
1. Kiểm tra bài cũ (3’):
2. Khởi động
3. HĐ1: Tìm hiểu khái quát về tác giả, thể loại thơ Hai-cư.
- Mục tiêu: Hs nắm khái quát về tác giả, thể loại thơ.
- Thời gian: 12 phút.
- Tiến hành:
+ Bước 1: Yêu cầu Hs đọc phần tiểu dẫn trong sgk, trình bày được:
1. Những chú ý về tác giả Ba-sô.
2. Những hiểu biết về thể loại thơ Hai-cư.
+ Bước 2: HS đọc thầm phần tiểu dẫn, tìm ý -> Trình bày.
H khác nhận xét, b/s kiến thức.
+ Bước 3: G nhận xét =>Kết luận:
1.Tác giả BaSô: (1644 - 1694).
- Quê: Uênô, xứ Iga (Tỉnh Mi-ê ngày nay), xuất thân trong một gia đình võ sỹ cấp
thấp.
- Ham thích đi du lịch.
- 28 tuổi ông chuyển đến Ê-đô, làm thơ Hai-Cư, lấy bút hiệu Ba-sô.
- Tác phẩm tiêu biểu: SGK.
2.Thơ Hai Cư:
- Thơ Hai-Cư: rất ngắn, có số từ vào loại ít nhất (17 âm tiết), được ngắt làm 3 đoạn
(5 âm - 7 âm - 5 âm).
- Mỗi bài có một từ nhất định, ghi lại phong cảnh, sinh vật trong một thời điểm nhất
định→ khơi gợi một cảm xúc, một suy tư (cảm xúc về thiên nhiên, phong cảnh bốn
mùa→ qúy ngữ).
- Thơ Hai-Cư thấm đẫm chất thiền, đưa cái tôi hoà nhập vào cái tĩnh lặng vô biên,
không bị ức chế để giải phóng tâm linh (Sa bi)→thể hiện con người và vạn vật nằm
trong mối quan hệ khăng khít.
- Cảm thức thẩm mỹ: tinh tế: đề cao cái Vắng Lặng, U Huyền, Đơn Sơ, Mềm Mại,
20
Nhẹ Nhàng
- Ngôn ngữ: không dùng nhiều tính từ, trạng từ, sử dụng bút pháp chấm phá, gợi
chứ không tả.
4. HĐ2: Phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật.
- Mục tiêu: Hs nắm khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật văn bản.
- Thời gian: 25 phút.
- Tiến hành:
a. Bài 1, 2:
+ Bước 1: Yêu cầu Hs đọc các bài thơ, suy nghĩ trình bày lần lượt:
(?) Tình cảm thân thiết của nhà thơ với thành phố Ê-đô và nỗi niềm hoài
cảm về Kinh đô Ki-ô-tô đẹp đẽ đầy kỉ niệm được thể hiện qua các bài 1, 2 như thế
nào?
+ Bước 2: HS suy nghĩ, kết hợp với vở soạn trình bày -> H khác nhận xét, b/s kiến
thức.
+ Bước 3: G nhận xét =>Kết luận:
* Bài 1:
- Tình cảm đối với Mi-ê sau 10 năm xa quê.
- Trở về Miê→nhớ Êđô: Ê-đô thân thiết như quê hương mình.
→Bài thơ thể hiện tình cảm thân thiết gắn bó với mảnh đất mình ở. Tình yêu quê
hương đất nước hoà làm một.
* Bài 2:
- Hình ảnh chim Đỗ quyên:
+ Điển tích vua Thục mất nước.
+ Thời gian chuyển từ xuân sang hè.
+ Nỗi buồn và sự vô thường.
- Nỗi niềm hoài niệm của tác giả: kinh đô ngày xưa đầy kỷ niệm.
→Nỗi lòng da diết xen lẫn buồn, vui mơ hồ về một thời xa xăm, sự hoài cảm.
b. Bài 3, 4:
+ Bước 1: Yêu cầu Hs đọc các bài thơ, suy nghĩ trình bày lần lượt:
(?) Tình cảm của tác giả đối với mẹ, với 1 em bé bị bỏ rơi thể hiện trong các
bài 3,4 như thế nào?
(?) Hình ảnh trong các bài đó mơ hồ, mờ ảo ra sao?
+ Bước 2: HS suy nghĩ, kết hợp với vở soạn trình bày -> H khác nhận xét, b/s kiến
thức.
+ Bước 3: G nhận xét =>Kết luận:
* Bài 3:
- Di vật của mẹ→gợi nỗi lòng thương cảm xót xa khi mẹ không còn. Đây là tấm
lòng của người con đối với người mẹ.
- Hình ảnh làn sương thu: mơ hồ (đa nghĩa).
+ Gợi nỗi buồn trống trải.
+ Cuộc đời ngắn ngủi vô thường.
+ Mái tóc bạc của mẹ như sương.
+ Giọt lệ như sương.
* Bài 4:
Tiếng vượn hú→gợi đến tiếng khóc thê lương của trẻ em bị bỏ rơi.
→Nỗi buồn thương của tác giả cho những số phận bất hạnh của những đứa trẻ,
21
đồng thời thể hiện tấm lòng yêu thương con người.
→Cuộc sống thật khắc nghiệt.
⇒Chủ nghĩa nhân đạo.
c. Bài 5:
+ Bước 1: Yêu cầu Hs đọc bài thơ, suy nghĩ trình bày:
(?) Qua bài 5, em cảm nhận được vẻ đẹp gì trong tâm hồn nhà thơ?
+ Bước 2: HS suy nghĩ, kết hợp với vở soạn trình bày -> H khác nhận xét, b/s kiến thức.
+ Bước 3: G nhận xét =>Kết luận:
- Hình ảnh chú khỉ đơn độc:
+ Gợi hình ảnh người nông dân Nhật.
+ Những em bé nghèo đang co ro vì lạnh.
- Tấm lòng yêu thương những sinh vật bé nhỏ tội nghiệp, yêu thương người nghèo
khổ.
d. Bài 6,7:
+ Bước 1: Yêu cầu Hs đọc 2 bài thơ, suy nghĩ trình bày:
(?) Mối tương giao giữa các sự vật hiện tượng trong vũ trụ được thể hiện như thế
nào trong các bài 6,7? Hình tượng thơ đẹp, thú vị ở chỗ nào?
+ Bước 2: HS suy nghĩ, kết hợp với vở soạn trình bày -> H khác nhận xét, b/s kiến thức.
+ Bước 3: G nhận xét =>Kết luận:
- Cảnh mùa xuân: đẹp, giản dị→ thời kỳ chuyển mùa tâm hồn tinh tế, cảm thức
thẩm mĩ nhẹ nhàng trong thơ Ba-sô.
- Cảnh chiều tà: Tiếng ve, đá, cảnh u tịch, vắng lặng. Tiếng ve thấm vào đá, lan toả
trong không gian. Đây là liên tưởng độc đáo, kỳ lạ.
⇒ Sự giao thoa, tương giao của các sinh vật, hiện tượng trong xã hội→ triết lí sâu
sắc.
e. Bài 8:
+ Bước 1: Yêu cầu Hs đọc bài thơ số 8, suy nghĩ trình bày:
(?) Khát vọng được sống, được tiếp tục lãng du của Ba-sô được thể hiện như thế
nào trong bài 8?
+ Bước 2: HS suy nghĩ, kết hợp với vở soạn trình bày -> H khác nhận xét, b/s kiến thức.
+ Bước 3: G nhận xét =>Kết luận:
- Thú phiêu lãng, lãng du.
- Khát vọng sống để tiếp tục du hành→ tinh thần lạc quan, khát khao tự do.
5. Tổng kết và hướng dẫn học bài ở nhà:
* Tổng kết:
- Gv chốt kiến thức trọng tâm của mỗi bài thơ.
- Củng cố: Qua mỗi bài em nắm được tư tưởng gì?
Hs nêu -> Gv chốt KT cơ bản.
* HDHT:
- HS về học thuộc các bài thơ Hai-cư, nắm chắc nội dung.
- Soạn bài mới: Trả bài viết số 1.
22
KẾT LUẬN
Suy tư, trăn trở để tìm ra những phương pháp tiếp cận, giảng dạy hiệu
quả luôn là mục tiêu, là trách nhiệm của mỗi giáo viên tâm huyết với nghề.
Đối với mỗi đối tượng, mỗi bài học cụ thể luôn có những cách tiếp cận phù
hợp khác nhau. Riêng đối với Hai-cư, đây là một đối tượng còn khá mới mẻ
trong chương trình Ngữ văn vừa đổi mới. Đấy lại là một đối tượng có những
đặc trưng riêng không dễ tiếp cận (nói chính xác hơn là không quen thuộc với
cách tiếp cận thơ truyền thống của Việt Nam). Chính vì thế, với đề tài này,
bằng việc tổng hợp từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau, người viết đã cố gắng
khái quát những đặc trưng cơ bản của Hai-cư (cụ thể, chi tiết và đầy đủ hơn
những gì SGK và SGV viết về phần này giới thiệu) nhằm giúp các đồng
nghiệp có thêm một tài liệu hữu ích cho việc soạn giảng phần nội dung này.
Cũng trên cơ sở tìm hiểu, nắm bắt thật kĩ về những đặc trưng của thơ
Hai-cư kết hợp với thực tế giảng dạy, người viết cũng đã đúc kết được một số
kinh nghiệm trong việc tiếp cận, giảng dạy thơ Hai-cư. Đồng thời cũng đã rút
ra được một số vấn đề cần lưu ý khi giảng dạy phần nội dung này.
Một lần nữa có thể khẳng định thơ Hai-cư với những đặc điểm hết sức
đặc biệt của nó, là một đối tượng không dễ tiếp cận, nhất là đối với HS lớp
10. Do đó, việc nghiên cứu, tìm tòi những cách tiếp cận sao cho phù hợp,
hiệu quả nhất đối với đối tượng này vẫn còn là vấn đề rất cần sự quan tâm,
đầu tư của mỗi giáo viên. Những gì được trình bày trong chuyên đề này thật
ra chỉ là những kết quả, kinh nghiệm bước đầu trong quá trình tìm hiểu, giảng
dạy thơ Hai-cư. Hi vọng, bằng sự nổ lực tìm tòi kết hợp với thực tế giảng dạy
cũng như sự trao đổi kinh nghiệm giữa các đồng nghiệp, mỗi giáo viên sẽ tìm
được cho mình một cách tiếp cận, giảng dạy hiệu quả nhất phần nội dung
này.
23