Tải bản đầy đủ (.pdf) (141 trang)

luận văn nghệ thuật thể hiện đề tài nông thôn trong sáng tác của nguyễn hữu nhàn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (910.45 KB, 141 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Nông thôn - nông nghiệp - nông dân hiện đang được nhà nước dành
nhiều sự quan tâm đặc biệt. Nhiều chính sách của Đảng và chính phủ nhằm
thúc đẩy sự phát triển nông thôn đã ra đời. Đời sống vật chất cũng như tinh
thần của người nông dân đang từng bước được nâng lên. Nhiều lễ hội văn hóa
truyền thống ở nông thôn đang được khôi phục và bảo tồn. Bản thân Chủ tịch
nước Trương Tấn Sang trong lễ khai xuân dâng hương đầu năm mới 2012
cũng đã xắn quần, xuống đồng cày ruộng trên cánh đồng Đọi Sơn (Hà Nam).
Văn học là sự phản ánh, văn học quan tâm đến hiện thực xã hội, tất yếu đề
cập đến nông thôn và nông dân. Bởi thế, từ xưa đến nay, nông nghiệp - nông
thôn - nông dân luôn là đề tài lớn của văn học. Nó còn là cái nôi văn hoá dân
tộc, nơi nuôi dưỡng, giữ gìn tất cả những cái đẹp nhất, hồn cốt nhất của dân
tộc Việt Nam. Trân trọng văn hóa nông thôn chính là tiêu chí đã được các nhà
văn coi trọng khi viết về mảng đề tài này. Vì lẽ đó nhiều năm qua, hai mảng
đề tài làm nên thành tựu lớn nhất của văn học Việt Nam là mảng đề tài viết về
chiến tranh và về nông thôn - nông nghiệp - nông dân. Mới đây, Bộ Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn phối hợp với Hội Nhà văn Việt Nam đã tổ
chức trao thưởng cho các tác phẩm văn học nghệ thuật sáng tác về đề tài nông
thôn. Về mục đích của việc trao thưởng và phát động sáng tác về đề tài xây
dựng nông thôn mới, ông Cao Đức Phát – Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn cho biết: “Xây dựng nông thôn mới là chủ trương lớn của
Chính phủ. Mục tiêu chính là nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người
dân. Vì thế, bên cạnh việc xây dựng những dòng sông, cánh đồng, chuồng trại
thì còn cần phải xây dựng đời sống văn hóa cho bà con nông dân. Chúng tôi
muốn thông qua việc trao thưởng này để phát động một chặng đường sáng
2

tác mới. Những sáng tác văn học nghệ thuật là món quà vô giá để động viên


bà con nông dân, toàn xã hội tham gia vào xây dựng đời sống nông thôn mới
” [25].
1.2. Trong số những nhà văn được trao thưởng trong cuộc phát động
sáng tác về đề tài xây dựng nông thôn mới lần này, bên cạnh các nhà văn như
Ngô Ngọc Bội, Ma Văn Kháng, Lê Lựu, Nguyễn Ngọc Tư, còn có một nhà
văn quen thuộc của vùng quê trung du miền núi Bắc bộ đó là nhà văn Nguyễn
Hữu Nhàn. Ông được trao giải cho tập truyện ngắn chọn lọc viết về nông thôn
trong thời kỳ đô thị hóa. Cùng với sự hiểu biết, tình yêu với vùng đất và con
người, cộng với tài năng sáng tạo, nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn trong suốt quá
trình sáng tác của mình chỉ chung thủy với một đề tài duy nhất : Đề tài nông
thôn. Bạn đọc cả nước biết đến nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn với một lối viết
không thể lẫn với bất cứ ai về làng quê, người quê. Nguyễn Hữu Nhàn không
đi vào những mặt trái của làng quê trong quá trình phát triển, hoặc phê phán
chống tiêu cực,… mà bằng một cách thật tự nhiên, nhất quán, ông chuyên chú
đi vào các tầng văn hoá của làng quê thời hiện đại. Qua những sáng tác của
ông, ta thấy Nguyễn Hữu Nhàn tập trung khai triển mấy chủ đề chính sau:
“Thứ nhất, ông phô diễn một cách thích thú các phong tục của các tộc người,
hoặc của không gian địa - văn hóa bằng vốn liếng kiến thức dân tộc học, văn
hóa học khá phong phú. Thứ hai, tôn vinh những giá trị tâm hồn và văn hóa
đích thực của làng quê và người quê. Thứ ba, thể hiện sự tha hóa của văn hóa
làng quê trước sự xâm lăng của đô thị, kinh tế thị trường” [4, tr.9].
Nông thôn Việt Nam đang có những chuyển biến rõ rệt, đời sống văn
chương mặc dù bộn bề với những mảng đề tài phong phú khác nhau của đời
sống hiện thực song cũng đang từng ngày từng giờ bám sát vào những thay
đổi của bộ mặt nông thôn thời đại mới. Trong không nhiều nhà văn mặn mà
với mảng đề tài này ta phải kể đến đóng góp có ý nghĩa lớn lao của nhà văn
3

tài năng và tâm huyết Nguyễn Hữu Nhàn. Vì lẽ đó, việc tìm hiểu đề tài nông
thôn của cây bút này là một công việc có ý nghĩa thực tiễn cao, vừa phù hợp

với chủ trương chung của Đảng của Chính phủ, vừa góp phần cổ vũ nhà văn
tiếp tục cống hiến nhiều hơn nữa cho việc sáng tác về đề tài nông thôn và
cũng là để bổ sung kịp thời cho công tác nghiên cứu, phê bình văn học hiện
nay một phong cách sáng tác truyện mang đậm dấu ấn nông thôn trung du
miền núi Bắc bộ.
1.3. Tuy nhiên, việc nghiên cứu, đánh giá một cách thấu đáo về những
đóng góp cũng như sáng tạo độc đáo của nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn về đề tài
nông thôn cho tới nay chưa có nhiều. Theo khảo sát bước đầu của chúng tôi,
chưa có luận văn thạc sĩ nào nghiên cứu về sự nghiệp sáng tác cũng như
những tác phẩm của Nguyễn Hữu Nhàn. Hiện nay chỉ có một số bài báo, bài
nghiên cứu, phê bình về tác giả, tác phẩm của Nguyễn Hữu Nhàn của các nhà
nghiên cứu có uy tín như PGS.TS Phan Trọng Thưởng, nhà lí luận phê bình
Văn Giá, nhà báo Vũ Hà …Từ những lí do cụ thể ở trên đã thôi thúc chúng tôi
lựa chọn đề tài: “Đề tài nông thôn trong sáng tác của nhà văn Nguyễn Hữu
Nhàn”, nhằm tập trung vào làm sáng tỏ sự cảm nhận , phản ánh của nhà văn
về cuộc sống của người nông dân, vấn đề sản xuất nông nghiệp và văn hóa
nông thôn trong thời đại mới. Đây là những vấn đề đang được cả xã hội quan
tâm và qua những sáng tác của Nguyễn Hữu Nhàn đều được thể hiện một
cách rõ nét.
2. Lịch sử vấn đề
Nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn được nhiều nhà nghiên cứu phê bình đánh
giá là “nhà văn của làng quê”, bởi ngay từ khi mới cầm bút, chập chững bước
vào nghề viết văn và cho đến tận bây giờ (có lẽ sau này vẫn thế), khi đã trở
thành lão làng trong Hội nhà văn Việt Nam, có trong tay hơn chục đầu sách
có giá trị, ông luôn chỉ chú trọng đặc biệt vào một đề tài với một niềm đam
4

mê không thể khác là chỉ viết về đề tài nông thôn, về cuộc sống hàng ngày
của người nông dân ngay trên chính mảnh đất của họ. Tác giả Lê Phan Nghị
trong bài báo “Nhà văn của đồng quê” đăng trên tuần báo Văn nghệ đã khẳng

định: “ Trong suốt cả chặng đường văn chương của mình – Nguyễn Hữu
Nhàn đã lặn lội, ki cóp để phần lớn các tác phẩm của ông đều sống động
những hình ảnh về người nông dân, hình ảnh về hoạt động nông nghiệp, nông
thôn ” [19, tr.7].
Là nhà văn luôn chỉ chú trọng đặc biệt vào đề tài nông thôn, về cuộc
sống hàng ngày của người nông dân, tiểu thuyết tiêu biểu đầu tay “Dốc nắng”
ra đời đã minh chứng cho những ấp ủ ấy của Nguyễn Hữu Nhàn. Tác giả Lê
Quang Trang đã nhận định: “ Trong Dốc nắng, người đọc có thể nhận ra sự
hiểu biết về nông thôn của tác giả khá giàu có và tỉ mỉ. Quan niệm về một
nông thôn mới trong hướng đi sắp tới cũng như các chuyện hằng ngày giữa
những người nông dân đã hiện lên qua nhiều trang viết khá lý thú của Nguyễn
Hữu Nhàn ” [27, tr.5].
Theo tác giả Trần Thế Tuấn “ Sau tiểu thuyết Dốc nắng , Làng Cói Hạ -
cuốn tiểu thuyết vừa ra đời đánh dấu bước phát triển mới của một nhà văn
vốn sở trường về đề tài nông thôn” [23, tr.7]. Bám sát những đổi thay của xã
hội, cuộc sống nông thôn Việt Nam sau đổi mới có nhiều chuyển biến, tích
cực có, tiêu cực có. Nguyễn Hữu Nhàn đã nhìn thấy được tất cả những mặt đó
và ông đã thể hiện một cách khá rõ nét trong tiểu thuyết Làng Cói Hạ. Chuyện
xảy ra ở một làng quê vùng trung du Bắc bộ. Đó là hậu quả của sự nôn nóng
ngộ nhận về sở hữu tập thể hình thức, dẫn đến tình trạng người lao động vất
vả một nắng hai sương, nhưng có làm mà không có ăn. Tác phẩm ra đời cho
thấy sự trưởng thành của nhà văn khi viết về đề tài nông thôn sau đổi mới
“chúng ta có quyền hy vọng đón đợi những tác phẩm khác tương xứng ở độ
chín của tác giả” [23, tr.7].
5

Sinh ra và được sống giữa một vùng trầm tích văn hóa cổ xưa và đậm
đặc vào loại bậc nhất trong cả nước, điều đó đã giúp cho nhà văn Nguyễn
Hữu Nhàn có điều kiện khảo cứu những nét văn hóa của làng quê mình và
khéo léo đưa những đặc trưng văn hóa truyền thống ấy vào trong những tác

phẩm văn học. Trong bài “Chuyện nhà văn làm khảo cứu và nhà khảo cứu
làm văn học”, PGS – TS Phan Trọng Thưởng đã chỉ ra được sự kết hợp hài
hòa hai yếu tố giữa nhà khảo cứu văn hóa và nhà sáng tác văn học trong một
nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn “ Với những thành tựu đã có, Nguyễn Hữu Nhàn
đang nỗ lực để đạt được hai trong một ( nhà khảo cứu trong nhà văn hay nhà
văn hóa trong nhà văn )” [26, tr.9].
Ra đời ngay sau tiểu thuyết “Làng Cói Hạ”, tiểu thuyết “Chớm nắng”
đúng thật như nhận định trên đây về Nguyễn Hữu Nhàn “nhà văn làm khảo
cứu và nhà khảo cứu làm văn học”. Đánh giá về tiểu thuyết này tác giả Đặng
Văn trong bài viết “Vài nét về văn hóa làng qua tiểu thuyết Chớm nắng” viết
“ Vấn đề trọng tâm của cuốn tiểu thuyết “Chớm nắng” đặt ra là VĂN HÓA
LÀNG”, “Cái được của tác phẩm là tác giả thông qua việc tập dượt chuẩn bị
cho lễ hội “trò Táu” một thứ lễ hội cổ truyền đã gần như bị mai một – và chỉ
khuôn lại trong phạm vi một làng đã làm cho người đọc hiểu thế nào là văn
hóa đích thực, cái gì là tinh hoa cần phát huy, cái gì là nhảm nhí, lỗi thời nên
bài trừ, củng cố niềm tin cho nhân dân, khơi dậy từ tâm hồn họ những giá trị
tinh thần, làm giàu lòng nhân ái, xóa bỏ hận thù, sống với nhau có tình, có
nghĩa và có trách nhiệm” [29, tr.6]. Thông qua bức tranh khái quát về chính
nơi tác giả đã sinh sống – Làng Đinh Xá, người đọc nhận ra được “làng Đinh
Xá là bức tranh khái quát của làng quê Việt Nam với đầy đủ những biểu hiện
sinh động của nền văn hóa bản địa”. Với phương pháp điển hình hóa thông
qua hàng loạt số phận các nhân vật, tiểu thuyết “Chớm nắng” cho thấy sự
hiểu biết của tác giả về “những tầng văn hóa, những dấu ấn lịch sử và cả
6

nhân tình thế thái trong mối quan hệ đa chiều mang tính đặc thù của làng quê
Việt Nam xưa và nay ” [29, tr.6].
Đúng như PGS – TS Phan Trọng Thưởng đã viết “ Nhà văn không chọn
được nơi sinh nhưng lại có thể chọn cho mình nơi sống và gắn bó. Mỗi nhà
văn thường có một vùng đất, một miền quê, một địa bàn của mình” [26, tr.9].

Tại “miền quê” của mình mỗi nhà văn tìm ra được rất nhiều điều để viết.
Nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn cũng vậy. Trong một bài viết trên báo Văn Nghệ,
nhà lí luận phê bình Văn Giá đã chỉ ra đặc điểm nổi bật qua những sáng tác
của Nguyễn Hữu Nhàn “ Nguyễn Hữu Nhàn không đi vào những vấn đề tố
khổ, hoặc phê phán chống tiêu cực, hoặc làm ăn chuyển đổi kinh tế…mà bằng
một cách thật tự nhiên, nhất quán, ông chuyên chú đi vào các vỉa tầng văn
hóa của làng quê thời hiện đại ” [4, tr.9]. Sinh ra, trưởng thành và phần lớn
những năm tháng cuộc đời sống gắn bó với làng quê nên Nguyễn Hữu Nhàn
hiểu về người nông dân, về cuộc sống nông thôn đến “chân tơ kẽ tóc”: “ Nhà
văn của đồng ruộng này rất giỏi khi chỉ ra tâm tính, thói tật của người nhà
quê. Đó là tính gia trưởng hách dịch, thói lắm mồm hay chửi, thói quen sống
tùy tiện, bệ rạc, tính hiếu thắng, căn bệnh sĩ diện rởm, tính keo bẩn hà
tiện…Thôi thì bao nhiêu tật xấu của con người, ở nhà quê đều có cả. Nhà văn
cũng trình bày những âu lo về tình trạng suy thoái nghiêm trọng của tâm tính
con người, rộng ra là của văn hóa làng quê.” [4, tr.9].
Cái gốc cuộc sống con người Việt Nam ta chính là nông thôn, là những
người nông dân. Bao nhiêu nét đẹp văn hóa truyền thống cũng bắt đầu từ cái
gốc rễ này. Ăn đời ở kiếp nơi vùng nông thôn trung du miền núi Bắc Bộ,
Nguyễn Hữu Nhàn qua những trang viết của mình đã viết rất thật về con
người nông thôn. Qua việc đọc hai truyện ngắn : “Làng quê yên ả và Người
quê” của Nguyễn Hữu Nhàn”, tác giả Nguyễn Văn Chỉ đã nhận định: “ Tác
giả đã ca ngợi những người nông dân ở một vùng quê thuần hậu có nhiều đức
7

tính tốt: mộc mạc, chất phác mà đậm đà tình nghĩa thủy chung.” [1, tr.9]. Tuy
nhiên, mối quan hệ trong cuộc sống của con người không chỉ tồn tại đơn lẻ,
mà cuộc sống bộn bề hàng ngày lại luôn luôn cuộn chảy. Ý thức sâu sắc được
điều đó, nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn qua hai truyện ngắn này đã cho thấy
được cái nhìn nhiều chiều trong khi thể hiện bản tính của người nông dân.
Trong truyện ngắn “Người quê”, dưới con mắt bà Tú thì ông Vũ là một nông

dân cục mịch, quê kệch, bẩn thỉu và không lịch sự chút nào. Ngược lại, ông
Thanh (chồng bà Tú) rất quý ông Vũ: “Vũ tuy ít học, nhưng ngay thật, thẳng
thắn, trọng tình hơn trọng của”. Mối quan hệ nhiều chiều cũng như những
tình cảm tốt đẹp đã trở thành truyền thống ngàn đời của dân tộc Việt qua
truyện ngắn “Làng quê yên ả”: “Cốt lõi là tình đoàn kết: tình làng nghĩa xóm,
tình cảm họ hàng, tình cảm gia đình yêu thương đầm ấm, hòa thuận. Mỗi khi
có công to việc lớn, lúc vui lúc buồn họ đều quây quần giúp đỡ, chia sẻ lẫn
nhau như lá lành đùm lá rách. Đoàn kết là sức mạnh đã trở thành truyền
thống cực kì quý báu của nhân dân ta, nên đã giúp họ vượt qua mọi khó khăn,
thử thách để xây dựng gia đình hạnh phúc, làng quê đẹp giàu” [1, tr.9].
Cũng như nhiều tác giả khác, tác giả Vũ Hà trong bài viết “Nguyễn Hữu
Nhàn – Nhà văn của nhà quê ” cũng đã có những nhận định rất xác đáng về
Nguyễn Hữu Nhàn cũng như các tác phẩm của ông “ một cây bút chuyên viết
chuyện nông thôn và người nông dân ”, khi đọc những tác phẩm của Nguyễn
Hữu Nhàn, người đọc nhận ra “ trước hết là không khí “rất quê” đang diễn
ra hiện nay ở nông thôn vùng Trung du, xứ Bắc. Cái không khí ấy được tạo
dựng bởi những con người chân quê, thô tháp, tủn mủn đang phải đương đầu
với cái đói cái nghèo cùng những thói quen, tập tục lạc hậu từ xưa để lại,
những cá tính “truyền thống” còn “di căn” đến tận hôm nay ” [5, tr.19].
Là nhà văn chuyên chú trọng vào đề tài nông thôn vùng trung du miền
núi Bắc Bộ, nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn đã thành công trong chính đề tài yêu
8

thích đó của mình. Có được những thành công đó bản thân nhà văn đã khẳng
định “Tôi cố thủ trong pháo đài làng xã!” . Trong bài phỏng vấn của hai nhà
báo Đinh Hằng – Nam Hải, nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn đã cho thấy quan
niệm hết sức nhất quán của bản thân về văn hóa làng xã, về cuộc sống nông
thôn giống như những gì mà ông đã thể hiện trong các sáng tác của mình.
Ông quan niệm cần giữ gìn truyền thống văn hóa làng như giữ gìn sự sống
còn vận mạng của dân tộc “Văn hóa làng xã là một pháo đài suốt nhiều nghìn

năm của đất Việt. Sở dĩ quá trình đồng hóa của phương Bắc thất bại vì vướng
phải pháo đài này, cha ông ta giữ được độc lập hay không cũng bởi sự bền
vững hay suy vong của nền văn hóa ” [7, tr.8-9]. Nhà văn khẳng định những
phong tục, lễ nghi, tín ngưỡng chính là cơ sở quan trọng để duy trì truyền
thống văn hóa làng xã, văn hóa dân tộc “Ở những làng cổ giàu truyền thống
văn hiến, văn hóa, ta thấy rất rõ nhiều giá trị truyền thống được trưng cất lên
bởi các phong tục lễ nghi, thuần phong mỹ tục…Nếu không có tín ngưỡng
cộng đồng, tín ngưỡng gia tiên, không thờ người có công với làng xã…và
nhiều tục lệ khác thì ta đâu có được truyền thống “uống ước nhớ nguồn, ăn
quả nhớ kẻ trồng cây”” [7, tr.8-9]. Mặc dù đất nước ta đang trên con đường
công nghiệp hóa – hiện đại hóa , gia nhập WTO nhưng không phải thứ gì
cũng có thể tùy tiện “ áp vào nền văn minh lúa nước ”, “ văn hóa làng chỉ có
một, nếu bị phá hỏng thì mất vĩnh viễn”. Vì vậy, theo nhà văn “ phải lấy văn
hóa làng làm thế mạnh, làm bệ phóng cho Việt Nam trước thời cuộc mới!
Đừng đi giày Tây mà lội ruộng!”. Những quan niệm trên đây của Nguyễn
Hữu Nhàn phải chăng cũng là lời khẳng định sẽ không thay đổi vùng đề tài
sáng tác cho những chặng đường làm nghệ thuật sau này của nhà văn.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu của luận văn là: “ Đề tài nông thôn trong sáng tác của
Nguyễn Hữu Nhàn ” và như trên đã trình bày, toàn bộ sự nghiệp sáng tác của
9

nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn chỉ chung thủy với một đề tài duy nhất là đề tài
nông thôn, do đó, đối tượng nghiên cứu của chúng tôi nằm trong phạm vi tất
cả các sáng tác của nhà văn có liên quan đến đề tài này gồm các tác phẩm ở
các thể loại dưới đây:
* Tiểu thuyết:
- Dốc nắng (1984)
- Làng Cói Hạ (1989)
- Không cô đơn (1993)

- Chớm nắng (2000)
- Rừng cười (2008)
* Các tập truyện ngắn:
- Chuyện làng Gành (1975)
- Truyện kể trong làng (1994)
- Phố làng (1999)
- Người quê (2005)
- Tết ở Bản Dèo (2006)
- Gió thổi qua rừng (2007)
- Vui như hội (2009)
- Nguyễn Hữu Nhàn - Tác phẩm chọn lọc - Tuyển (2009)
* Công trình nghiên cứu về văn hóa:
- Nghiên cứu văn hóa làng Vĩnh Phúc.
- Nghiên cứu văn hóa làng Phú Thọ - Giải B Hội Văn nghệ Dân gian Việt
Nam (phối hợp cùng Nguyễn Khắc Xương).
- Nghiên cứu mối liên hệ văn hóa Việt Mường - Giải C Hội Văn nghệ
Dân gian Việt Nam (phối hợp với Nguyễn Khắc Xương).
- Nghiên cứu văn hóa người Dao ở Phú Thọ (phối hợp với Phạm Thị
Nga).
10

4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình khảo sát, triển khai thực hiện luận văn chúng tôi sử dụng
phối hợp đồng bộ những phương pháp sau:
4.1. Phương pháp thống kê - phân loại: Bằng phương pháp thống kê,
phân loại, chúng tôi đã tiến hành thống kê, phân loại về một số phương diện
như hình tượng nhân vật, hình ảnh, chi tiết, ngôn ngữ, giọng điệu… Tất cả
các yếu tố đó biểu hiện cụ thể trong từng tác phẩm ở mỗi giai đoạn, thời kì
sáng tác. Từ đó tìm ra được những đặc sắc riêng của Nguyễn Hữu Nhàn khi
viết về đề tài nông thôn. Việc thống kê, phân loại còn cung cấp những số liệu

quan trọng, hỗ trợ cho việc rút ra những kết luận, đồng thời là cơ sở để so
sánh, đối chiếu.
4.2. Phương pháp so sánh - đối chiếu: Trong quá trình tiến hành nghiên
cứu những tác phẩm viết về đề tài nông thôn của Nguyễn Hữu Nhàn chúng tôi
có đối sánh với các tác phẩm viết về đề tài nông thôn của các nhà văn khác
cùng thời. Từ đó giúp chúng tôi có được cái nhìn tổng thể, rõ nét nhất và đi
tới những nhận định chung nhất về thành công và hạn chế của Nguyễn Hữu
Nhàn khi viết về đề tài này.
4.3. Phương pháp phân tích: Chúng tôi tiến hành phân tích lần lượt từ
bức tranh hiện thực đến thế giới nhân vật ở cả bình diện nội dung và hình thức
nghệ thuật từ đó tạo ra cái nhìn toàn diện về các phương diện nội dung và
nghệ thuật về đề tài nông thôn trong những sáng tác của Nguyễn Hữu Nhàn.
4.4. Phương pháp hệ thống: Với phương pháp này, chúng tôi coi toàn
bộ tác phẩm là một chỉnh thể, có nhiều phương diện, yếu tố và cấp độ yếu tố,
như quan niệm nghệ thuật, hình tượng nghệ thuật, kết cấu, trần thuật… Mỗi
một yếu tố lại bao gồm các cấp độ nhỏ hơn. Chẳng hạn, trần thuật trong văn
bản bao gồm giọng điệu, ngôn từ… Đồng thời, nhìn thấy mối liên hệ giữa các
yếu tố, đặc điểm trong chỉnh thể nghệ thuật.
11

Các phương pháp trên được vận dụng phối hợp, linh hoạt để có được
một cái nhìn tương đối bao quát về cách thể hiện đề tài nông thôn với những
biểu hiện rất riêng của Nguyễn Hữu Nhàn, cũng như khả năng đáp ứng nhu
cầu phản ánh những vấn đề hiện thực mang tính thời sự trong dòng chảy của
hệ thống đề tài đương đại.
5. Đóng góp của luận văn
Từ thực tế nghiên cứu, luận văn bước đầu chỉ ra được đặc điểm cơ bản
về đề tài nông thôn thông qua những sáng tác của Nguyễn Hữu Nhàn, bên
cạnh đó tìm ra được những độc đáo, đặc sắc trong nghệ thuật thể hiện đề tài
nông thôn của nhà văn.

Việc khảo sát và nghiên cứu đề tài nông thôn trong truyện Nguyễn Hữu
Nhàn chưa nhiều, chưa có hệ thống cũng như chưa có một công trình nghiên
cứu hoàn chỉnh nào ra đời. Do đó, chúng tôi cố gắng bổ sung thêm một số
nhận định có ý nghĩa khoa học bên cạnh những ý kiến đã có về vấn đề này.
Thực hiện luận văn, chúng tôi không mong muốn gì hơn là đóng góp một chút
công sức của mình vào công tác nghiên cứu, phê bình Văn học Việt Nam hiện
đại và về sự nghiệp sáng tác của nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần Nội dung chính
của luận văn được triển khai thành ba chương:
Chương I: Đề tài và đề tài nông thôn trong văn học.
Chương II: Hiện thực nông thôn trong sáng tác của Nguyễn Hữu Nhàn.
Chương III: Nghệ thuật thể hiện đề tài nông thôn trong sáng tác của
Nguyễn Hữu Nhàn .



12

NỘI DUNG
CHƯƠNG I - ĐỀ TÀI VÀ ĐỀ TÀI NÔNG THÔN TRONG VĂN HỌC
1.1. Khái niệm đề tài
Đề tài là vấn đề lí luận có quan hệ mật thiết tới việc nghiên cứu và sáng
tác văn học, phản ánh tài năng, sở trường, phong cách và thế giới quan của
nhà văn trong việc phản ánh hiện thực. Ðề tài là phạm vi hiện thực mà nhà
văn chọn lựa, miêu tả và thể hiện, tạo thành chất liệu của thế giới hình tượng
trong tác phẩm đồng thời là cơ sở để từ đó nhà văn đặt ra những vấn đề mà
mình quan tâm. Đề tài là thuật ngữ gắn liền với nội dung tác phẩm, là vấn đề
có ý nghĩa nền móng làm nên tác phẩm văn học. Có thể nói, đề tài là khái
niệm trung gian giữa thế giới hiện thực được thẩm mĩ hóa trong tác phẩm và

bản thân đời sống.
Một đề tài thích hợp là khâu yếu thứ nhất của toàn bộ công việc xây
dựng tác phẩm thành một chỉnh thể thẩm mỹ. M.Gorki đã có định nghĩa rất
xác đáng về đề tài: Đề tài là tư tưởng nảy sinh trong kinh nghiệm của tác giả,
do cuộc sống gợi ra.
Khái niệm đề tài cũng đã được đề cập đến trong nhiều sách lí luận văn
học.
Theo cuốn “Từ điển thuật ngữ văn học” đề tài là khái niệm “chỉ loại
các hiện tượng đời sống được miêu tả, phản ánh trực tiếp trong sáng tác văn
học. Đề tài là phương diện khách quan của nội dung tác phẩm” [6, tr.110].
Cũng theo cuốn từ điển này thì “cần phân biệt đề tài với tư cách là phương
diện khách quan của nội dung tác phẩm với đối tượng nhận thức, chất liệu
đời sống hay nguyên mẫu thực tế của sáng tác văn học. Lẫn lộn hai mặt này
sẽ dẫn tới tình trạng biến việc phân tích tác phẩm thành phân tích đối tượng
được miêu tả. Đối tượng nhận thức, miêu tả của sáng tác văn học là cái còn
13

nằm ngoài tác phẩm, đối diện với tác phẩm. Đề tài của tác phẩm là một
phương diện trong nội dung của nó, là đối tượng đã được nhận thức, lựa
chọn gắn liền với dụng ý, thế giới quan, lập trường tư tưởng, quan điểm thẩm
mỹ của nhà văn” [6, tr.111-112].
Trong cuốn “Lí luận văn học” do tác giả Phương Lựu chủ biên đưa ra
khái niệm đề tài: “thể hiện phương diện khách quan của nội dung tác phẩm
văn học (…) tác phẩm văn học bao giờ cũng xuyên qua một phạm vi miêu tả
trực tiếp trong tác phẩm để khái quát lên một phạm vi hiện thực đời sống nhất
định có ý nghĩa sâu rộng hơn” [9, tr.259].
Cùng quan niệm như trên, sách “Lí luận văn học” do tác giả Trần Đình
Sử chủ biên cho rằng “Thực chất đề tài là một khái niệm về loại của hiện
tượng đời sống được miêu tả. Có bao nhiêu loại hiện tượng đời sống, có bấy
nhiêu đề tài” [21, tr.194].

Có thể nói, phạm vi hiện thực mà nhà văn tâm huyết nhất trong tác phẩm
của mình, đó là những yếu tố mở đường cho thành công sáng tạo, không lựa
chọn được phạm vi hiện thực, nhà văn không thể thực hiện thành công quá
trình sáng tạo. Do đó, đề tài là phạm vi hiện thực được nhà văn phản ánh
trong tác phẩm là phương diện khách quan của nội dung tác phẩm thể hiện thế
giới quan của nhà văn, là đối tượng đã được nhận thức, kết quả lựa chọn và tư
duy của nhà văn. Đó là sự khái quát phạm vi xã hội, lịch sử của đời sống được
phản ánh trong tác phẩm, phản ánh tài năng, vốn sống, tâm huyết của người
cầm bút trong cuộc đời làm nghệ thuật.
1.2. Đặc điểm chung của đề tài
Trong tác phẩm văn học, thường không phải chỉ có một đề tài mà có rất
nhiều đề tài liên quan đến nhau, bổ sung cho nhau để tạo thành một hệ thống
đề tài. Chẳng hạn, Truyện Kiều của Nguyễn Du vừa có đề tài về tình yêu, về
hạnh phúc lứa đôi, về quan lại “mặt sắt đen sì”, về nông dân khởi nghĩa, về
14

cuộc đời của các cô gái lầu xanh , các đề tài đó gắn bó chặt chẽ với số phận
bi thảm của nàng Kiều. Trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố, bên cạnh đề tài về
cuộc sống bi thảm của người nông dân còn có các đề tài về cuộc sống của bọn
quan lại tham lam, ích kỉ, về cuộc đời của các em bé nghèo khổ Như vậy, đề
tài có thể tồn tại ở nhiều cấp độ, thực chất đề tài là một khái niệm về loại của
hiện tượng đời sống được miêu tả. Có bao nhiêu loại hiện tượng đời sống, có
bấy nhiêu đề tài . Cho nên, có đề tài về người nông dân bị lưu manh hóa (Chí
Phèo – Nam Cao), có đề tài về người công nhân bị bần cùng hóa (Lầm than –
Lan Khai), có đề tài về cuộc sống bế tắc của người trí thức nghèo trước cách
mạng (Sống mòn – Nam Cao)… phản ánh các bình diện khác nhau trong cuộc
sống. Khi nói đến đề tài của một tác phẩm hoặc của văn học nói chung, thực
chất không phải chỉ nói một đề tài mà là cả một hệ thống đề tài liên quan
nhau, bổ sung cho nhau tạo thành đề tài của tác phẩm.
Phạm vi phản ánh của đề tài có thể được xác định rộng hẹp khác nhau ở

biên độ của nó. Đó có thể là một “giới hạn bề ngoài” hoặc “phương diện bên
trong của đề tài”. Các hiện tượng đời sống có thể liên kết với nhau thành loại
theo mối liên hệ bề ngoài hoặc theo mối liên hệ bên trong giữa chúng.
Theo giới hạn bề ngoài của phạm vi hiện thực được phản ánh trong tác
phẩm có thể xác định các đề tài văn học như: đề tài thiên nhiên (Tràng giang
– Huy Cận), đề tài loài vật (Dế mèn phiêu lưu ký – Tô Hoài), đề tài sản xuất
(Cái sân gạch – Đào Vũ), đề tài chiến đấu (Xung kích – Nguyễn Đình
Thi)…Ở đây, các phạm trù xã hội, lịch sử giữ vai trò quan trọng, vì thế người
ta có thể xác định các đề tài như: đề tài nông thôn, thành thị, công nhân, nông
dân, bộ đội, trí thức…
Cũng có thể xác định đề tài văn học theo giới hạn bên trong của phạm vi
hiện thực được phản ánh trong tác phẩm. Đó là cuộc sống nào, con người nào
được miêu tả trong tác phẩm. Nhiều khi đề tài gắn liền với một hiện tượng xã
15

hội – lịch sử xuất hiện và trở thành phổ biến trong đời sống tinh thần của một
thời hay của một giới nào đó. Ví như : đề tài số phận của người chinh phụ
(Chinh phụ ngâm – Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm), người cung nữ (Cung
oán ngâm – Nguyễn Gia Thiều), đề tài con người hào hoa (Chữ người tử tù –
Nguyễn Tuân)… Ở giới hạn bên trong của đề tài, bản chất xã hội của cuộc
sống, của tính cách và số phận con người giữ vai trò quan trọng. Không có
các phạm vi hiện thực dài rộng khác nhau đó, không thể có những kết quả
sáng tác phong phú và đa dạng trong các tác phẩm của nhà văn. Song phạm vi
hiện thực còn quan hệ mật thiết với thời gian và không gian trong tác phẩm.
Đi sâu vào phạm vi hiện thực trong tác phẩm của Nguyễn Hữu Nhàn, ta thấy
nhà văn thường có sự phối hợp linh hoạt cả giới hạn bên trong và bên ngoài
của đề tài để sáng tạo nên thế giới nghệ thuật.
Ðề tài của tác phẩm thường gắn chặt với hiện thực cuộc sống của thời
đại mà nhà văn đang sống, vì vậy nó mang tính lịch sử xã hội sâu sắc. Tìm
hiểu quá trình phát triển của lịch sử văn học, có thể nhận thấy trong mỗi thời

kì lịch sử khác nhau, thường nổi lên những loại đề tài trung tâm khác nhau.
Trong giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII nửa đầu thế kỉ XIX, đề tài về số phận
của người phụ nữ chiếm một vị trí đáng kể trong trào lưu văn học nhân đạo
chủ nghĩa Việt Nam. Trong giai đoạn từ 1945-1975, đề tài về người chiến sĩ
cách mạng, về những người công nhân tiên tiến lại nổi lên hàng đầu.
Có những đề tài dường như thường được lặp đi lặp lại trong văn học ở
mọi nơi và mọi thời đại. Chẳng hạn đề tài về tình yêu và hạnh phúc, chiến
tranh và hòa bình, sự sống và cái chết Có người cho rằng đấy là những đề tài
vĩnh cửu của văn học. Thật ra, đó chỉ là một cách nói. Bởi vì, ngay chính một
nhà văn khi viết về một phạm vi cuộc sống thì đề tài của tác phẩm cũng đã là
một cái gì mới mẻ, không lặp lại.
16

Giáo sư Nguyễn Ðăng Mạnh có nhận xét về cách tiếp cận đề tài của nhà
văn trong cuốn “Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn” như sau:
“ Trong thực tế của đời sống văn học, thường thấy hiện tượng này: các nhà
văn dù lớn đến đâu cũng chỉ có một vùng đề tài ưa thích nhất và ông ta chỉ có
thể viết hay về những đề tài ấy mà thôi. Khi vì một lí do nào đó, ông ta hướng
ngòi bút ra ngoài khu vực đề tài ấy, thì ông ta không còn sắc sảo nữa, tác
phẩm trở nên nhạt nhẽo, hình tượng thiếu sức sống, thiếu linh hồn, tài năng
dường như rời bỏ ông ta…” [10, tr.12-13].
1.3. Đề tài nông nghiệp và nông thôn trong văn học và trong sáng
tác của Nguyễn Hữu Nhàn
1.3.1. Khái niệm nông nghiệp và nông thôn
Trong cuốn “Từ điển tường giải và liên tưởng tiếng Việt”, tác giả
Nguyễn Văn Đạm đưa ra khái niệm về nông nghiệp như sau: “ Ngành kinh tế
chuyên khai thác môi trường tự nhiên để sinh sản những thực vật và động vật
có ích cho con người” [3, tr.614]. Theo “Từ điển tiếng Việt 2010”, nông
nghiệp là “ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội cung cấp sản phẩm
trồng trọt và sản phẩm chăn nuôi” [18, tr.952]. Như vậy, nông nghiệp là

ngành kinh tế cơ bản của xã hội, sử dụng đất đai để trồng trọt và chăn nuôi,
khai thác cây trồng và vật nuôi làm tư liệu và nguyên liệu lao động chủ yếu để
tạo ra lương thực, thực phẩm. Nông nghiệp chính là nền móng đầu tiên cho
cuộc sống trên trái đất này, khi công nghiệp chưa phát triển, nông nghiệp là
một ngành kinh tế quan trọng trong nền kinh tế của nhiều nước. Nhà văn hóa
Trần Quốc Vượng đã nói: “Nông nghiệp, là khởi đầu của văn minh nhân
loại”. Ở Việt Nam, mẫu số chung lớn nhất của văn minh – văn hóa truyền
thống là nền tảng nông nghiệp đa canh xoay quanh trục trung tâm nghề nông
trồng lúa. Cho đến nay, nước ta vẫn là một nước nông nghiệp và nông
nghiệp vẫn là ngành kinh tế quan trọng. Theo báo cáo của Tổng cục Thống
17

kê, năm 2009, giá trị sản lượng của nông nghiệp đạt 71,473 nghìn tỷ đồng
(giá so sánh với năm 1994), tăng 1,32% so với năm 2008 và chiếm
13,85% tổng sản phẩm trong nước. Đóng góp của nông nghiệp vào tạo việc
làm là rất lớn. Trong năm 2005, có khoảng 60% lao động làm việc trong lĩnh
vực nông, lâm nghiệp, và thuỷ sản.

Sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất
lúa gạo, đã giúp Việt Nam là nước đứng thứ ba trên thế giới về xuất khẩu gạo.
Sản xuất nông nghiệp được tập trung ở những vùng nông thôn, nơi sinh sống
lâu đời của những người nông dân.
Nông thôn, theo “Từ điển tường giải và liên tưởng tiếng Việt”, được
hiểu là “Vùng đất rộng không ngăn rào, ở ngoài những thành phố, dành cho
việc trồng trọt, có dân ở tập trung trong các thôn xóm” [3, tr.614]. Theo “Từ
điển tiếng Việt 2010” là “khu vực dân cư tập trung chủ yếu làm nghề nông”.
Nông thôn đang là nơi cư trú chiếm số đông dân nhất trên khắp nước ta, tính
đến năm 2009, có đến 70,4% dân số nước ta đang sinh sống ở vùng nông
thôn. So với thành thị, nông thôn nằm trên địa bàn rộng lớn về các mặt tự
nhiên – xã hội – kinh tế. Vì trải dài trên địa bàn rộng lớn nên sản xuất nông

nghiệp ở nông thôn chịu nhiều ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên. Cơ sở hình
thành và trình độ tiếp cận thị trường, trình độ sản xuất hàng hóa còn thấp so
với thành thị (Do diện tích rộng, mức đầu tư cho nông thôn không lớn), trong
một chừng mực nào đó thì tính dân chủ, tự do và công bằng xã hội thấp hơn
thành thị, thu nhập và đời sống của người dân còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo đói thì
cao.
Nông thôn – nông nghiệp là hai khái niệm luôn song hành cùng nhau.
Nói đến nông thôn là nghĩ đến “rơm rạ, lúa ngô khoai sắn”- những sản phẩm
của nông nghiệp. Nông thôn là cái nôi chứa đựng và nuôi dưỡng những
truyền thống văn hóa ngàn đời của dân tộc ta. Nhưng thực tế lao động sản
xuất nông nghiệp trồng lúa nước lại là cơ sở để hình thành, sản sinh những
18

truyền thống văn hóa lâu đời ấy. Sự gắn bó hữu cơ, chặt chẽ có tính chất đồng
sinh đồng dưỡng ấy làm nên đặc trưng văn hóa nông thôn, nuôi dưỡng tâm
hồn người Việt từ đời này sang đời khác. Kho tàng văn học dân gian đã chứng
minh điều đó. Ví như, khi nói tới nông thôn là ta thường nhớ đến những nét
đẹp trong văn hóa sống, văn hóa ứng xử. Người nông dân Việt sống ở nông
thôn cố định một chỗ, ở dưới một mái nhà với mảnh vườn của mình được bao
bọc bởi luỹ tre làng bảo vệ, trong quan hệ ứng xử giữa con người với nhau từ
gia đình đến làng xóm đều theo nguyên tắc trọng tình (duy tình). Hàng xóm
sống cố định lâu dài với nhau là một môi trường thuận lợi để người nông dân
tạo ra một cuộc sống hoà thuận trên cơ sở lấy tình nghĩa làm đầu: “Hàng xóm
tối lửa tắt đèn có nhau”; “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”; “Một bồ cái lý
không bằng một tí cái tình”; “Bán anh em xa mua láng giềng gần”; “Một
giọt máu đào hơn ao nước lã”; “Ta về ta tắm ao ta-Dù trong dù đục ao nhà
vẫn hơn”; …Khi nhắc tới tình trạng sản xuất nông nghiệp người ta thường
nghĩ đến những kinh nghiệm được tích lũy trong lao động sản xuất. Người
nông dân làm nghề nông. Bởi trình độ và công cụ sản xuất còn thấp và lạc hậu
nên trong sản xuất, người nông dân phụ thuộc nhiều vào hiện tượng của tự

nhiên như trời, đất, nắng, mưa… Do đó, họ rất tôn trọng, hòa thuận với tự
nhiên và phụ thuộc vào nó. Chính hoàn cảnh sống như thế giúp người Việt đã
tích luỹ được những kinh nghiệm hết sức phong phú trong sản xuất. Đó là hệ
thống tri thức thu được bằng con đường kinh nghiệm chủ quan, cảm tính. Để
gieo cấy thành công, đúng thời vụ và bội thu người nông dân phải quan sát tỉ
mỉ các hiện tượng tự nhiên trong một quá trình nhất định, ghi nhớ các kỹ
thuật canh tác để rút thành cẩm nang kinh nghiệm sản xuất cho bao thế hệ.
Muốn gieo trồng, cày bừa không phải cứ tùy tiện thích trồng lúc nào là trồng.
Mà phải dựa vào các điều kiện thuân lợi của tự nhiên: “Lúa chiêm lấp ló đầu
bờ, Hễ nghe tiếng sấm, phất cờ mà lên”; “Phân tro không bằng no nước”;
19

“Tỏ trăng mười bốn được tằm, Tỏ trăng hôm rằm thì được lúa chiêm”;
“Mồng chín tháng chín có mưa, Thì con sắm sửa cày bừa làm ăn. Mồng chín
tháng chín không mưa, Thì con bán cả cày bừa đi buôn”. Dựa vào tự nhiên,
tuân thủ theo nguyên tắc “mùa nào thức nấy” đã ăn sâu trong suy nghĩ, kinh
nghiệm lao động “Tháng giêng là tháng ăn chơi. Tháng hai trồng đậu, trồng
khoai, trồng cà. Tháng ba thì đậu đã già, Ta đi ta hái về nhà phơi khô. Tháng
tư đi tậu trâu bò, Để ta sắm sửa làm mùa tháng năm ”; “Nhờ trời mưa gió
thuận hoà. Nào cầy nào cấy, trẻ già đua nhau. Chim, gà, cá, lợn, cành cau.
Mùa nào thức nấy giữ màu nhà quê”. Các giống vật nuôi gắn liền với đời
sống nông nghiệp cũng được người nông dân Việt lựa chọn, chăm sóc kĩ càng
để chúng đem lại lợi ích cao nhất, thiết thực nhất, đặc biệt là hình ảnh con
trâu, biểu tượng gắn liền với nhà nông được nhắc đến một cách rất quí trọng
“Trâu ơi ta bảo trâu này, Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta. Cấy cày giữ
nghiệp nông gia. Ta đây trâu đấy, ai mà quản công! Bao giờ cây lúa còn
bông, Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn”; “Con trâu là đầu cơ nghiệp”;
“Trâu gầy cũng tày bò giống”; “Trâu năm sáu tuổi còn nhanh, Bò năm sáu
tuổi đã tranh về già, Đồng chiêm xin chớ nuôi bò, Mùa đông tháng giá, bò dò
làm sao!”. Với những câu ca dao, tục ngữ có vần có điệu, duyên dáng, sinh

động, dễ nhớ cha ông ta đã gửi gắm tình cảm gắn bó, hòa mình với thiên
nhiên, đồng thời ấp ủ khát vọng chinh phục, cải tạo thiên nhiên, đó là những
cách nghĩ, nếp sinh hoạt, lao động sản xuất của người dân nông nghiệp.
Người nông dân ở nông thôn luôn có ý thức về việc đúc rút, gìn giữ, lưu
truyền những kinh nghiệm quí báu cho các thế hệ nối tiếp.
Sau này khi văn học viết ra đời, vùng quê nông thôn và đời sống nông
nghiệp tiểu nông manh mún đã là nguồn đề tài vô tận cho văn học. Đề tài
nông thôn - nông nghiệp - nông dân đã trở đi trở lại trong nhiều tác phẩm và
có mặt ở tất cả các thể loại văn học .
20

1.3.2. Đề tài nông nghiệp và nông thôn trong văn học
Đất nước và con người Việt Nam ngàn đời nay luôn tự hào có nền văn
minh sông Hồng, văn minh lúa nước. Mọi thế hệ người Việt Nam lớn lên và
trưởng thành từ cái nôi văn minh nông nghiệp ấy. Trải qua các thời kì lịch sử,
nông thôn luôn là môi trường sống bền bỉ của người nông dân. Con người
Việt Nam đã tạo nên một nền sản xuất nông nghiệp và một truyền thống lịch
sử văn hóa riêng. Bởi thế, từ văn học dân gian đến hiện đại, nông dân - nông
nghiệp - nông thôn luôn là một đề tài truyền thống trong văn học Việt. Đây là
điểm nổi bật có tính tất yếu đối với một nước nông nghiệp như nước ta. Phần
lớn dân số Việt Nam đều có nguồn gốc xuất thân từ nông thôn. Do đó, văn học
dù viết về chốn đồng quê hay thành thị đều ít nhiều mang dấu ấn cảm thức về
nông thôn.
Văn học dân gian ngay từ đầu đã phản ánh được tiếng nói ngợi ca cuộc
sống nông nghiệp của nhân dân ta, đề tài nông thôn biểu hiện qua cuộc sống
lao động của người nông dân đã trở thành đề tài chủ đạo trong các bài ca dao,
dân ca:
- “ Trên đồng cạn dưới đồng sâu
Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa”.
- “Hỡi cô tát nước bên đàng

Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi”.
- “ Ai ơi chớ bỏ ruộng hoang
Bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu ”.
Đến văn học trung đại đề tài nông thôn tập trung thể hiện cuộc sống
thanh nhàn, thú điền viên, ẩn dật nơi thôn quê qua những tác phẩm của một số
tác giả như Nguyễn Bỉnh Khiêm :
“ Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
21

Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”.
[26, tr.296-297]
Nguyễn Trãi:
“ Một cày một cuốc thú nhà quê
Áng cúc lan xen vãi đậu kê
Khách đến chim mừng hoa xẩy rụng
Chè tiên, nước ghín, nguyệt đeo về ”
[26, tr.242]
Đến thơ của Nguyễn Khuyến diện mạo nông thôn qua cảnh sống lam lũ
của người nông dân cũng như cảnh sắc thiên nhiên làng quê được miêu tả có
phần khác trước đó, nó cụ thể và hiện thực hơn. Trong thơ Nguyễn Khuyến
chúng ta thấy làng cảnh, cuộc sống con người gắn bó với mảnh đất quê hương
ông. Nhận xét về bức tranh làng quê trong thơ Nguyễn Khuyến, giáo sư
Nguyễn Đình Chú viết “Bức tranh làng quê này đại thể có hai mảng: cảnh
vật của đất trời và cuộc sống con người. Cảnh đất trời thì thanh sơ xinh đẹp
đáng yêu biết bao, nhưng phơn phớt một sắc buồn tỏa ra từ nỗi buồn thời thế
của Nguyễn Khuyến ở buổi ấy. Còn cuộc sống con người thì tiêu điều, xơ xác
quá đỗi” [2, tr.14]. Nguyễn Khuyến được gọi là nhà thơ của nông thôn. Gọi
như vậy là vì ông đã viết về nông thôn với tình cảm, với sự trăn trở lo âu của

con người ở nông thôn thực sự. Trang trải lòng mình với những vui buồn của
quê hương lam lũ, đây là cảnh mất mùa trong thơ ông :
“ Năm nay cày cấy vẫn chân thua,
Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa ”
[26, tr.360]
Hay cảnh sống thanh bần nơi làng quê :
“ Sớm trưa dưa muối cho qua bữa
22

Chợ búa trầu cau chẳng dám mua”
[26, tr.360]

Văn học hiện đại mang một diện mạo khác hẳn - chịu ảnh hưởng mạnh
mẽ của lịch sử. Ở giai đoạn nửa đầu thế kỉ XX, văn học phản ánh sự xâm
nhập sâu sắc của chế độ thực dân tới đời sống nông thôn Việt Nam. Những
cây bút xuất sắc của trào lưu hiện thực như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan,
Nam Cao, Kim Lân đã hướng ngòi bút của mình vào những vấn đề nhức nhối
của nông thôn, đến đời sống tăm tối nghèo khổ của người nông dân. Một
nông thôn đói nghèo xơ xác, người nông dân bị tha hóa… Từ CMT8 năm
1945 đến 1975, văn học ngoài việc phản ánh sự phong phú, đa dạng của đời
sống hiện thực vẫn tiếp tục phản ánh đề tài nông thôn thời kỳ xây dựng xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc, kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam. Sau Đại hội VI
của Đảng (1986), hàng loạt tác phẩm viết về đề tài nông thôn ra đời với cái
nhìn mới mẻ, dân chủ, khách quan, toàn diện hơn. Đặc biệt, trong khoảng
mười năm trở lại đây, mảng đề tài nông thôn rất được các nhà văn quan tâm
với nhiều vấn đề mang tính thời sự đặt ra trước tình hình phát triển chung của
xã hội trong bối cảnh thời đại mới.
1.3.3. Đề tài nông nghiệp, nông thôn trong sáng tác của Nguyễn Hữu
Nhàn
Nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn sinh ngày 11 tháng 12 năm 1938. Ông quê ở

xã Tứ Xã, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Cuộc đời ông trải qua nhiều biến
cố đổi thay. Nguyễn Hữu Nhàn học hết cấp hai năm 1958. Ông nói ngày ấy có
bằng cấp hai (học hết lớp 7 hệ 10 năm) đã là hiếm và tấm bằng có giá trị xin
việc đi thoát li rồi. Thành phố Việt Trì hồi cuối thập niên 50 thế kỷ trước là
một trong hai khu công nghiệp lớn của miền Bắc. Thanh niên Hà Nội cùng
trai gái vùng châu thổ sông Hồng nô nức ngược miền sơn cước đến Việt Trì
xây dựng công trường, nhà máy, tạo dựng cuộc đời mới. Nguyễn Hữu Nhàn
23

nhập hội cùng đội ngũ xung kích tuổi thanh xuân đang phơi phới ấy. Ông rời
rừng cọ, đồi chè quê nhà xuống miền đô hội học lớp kế toán tài vụ. Và vì học
giỏi nên được giữ lại Bộ Giao thông xung vào đội quân thi công cơ giới lưu
động. Nhưng Nguyễn Hữu Nhàn nằng nặc đòi về công ty đường sông ngày ấy
đóng ở Việt Trì, Phú Thọ quê hương ông. Từ đó đến nay ông chung thủy với
mảnh đất Việt Trì và giờ ông đang sống tại thôn Quế Trạo, xã Dữu Lâu, thành
phố Việt Trì.
Nguyễn Hữu Nhàn ngay từ thủa nhỏ khi còn ngồi trên ghế nhà trường đã
say mê đọc các tác phẩm như “Thời thơ ấu” của nhà văn Gorki, “Những ngày
thơ ấu” của Nguyên Hồng và nuôi mộng ước trở thành nhà văn. Rồi cái mộng
ước ấy ngày càng thôi thúc, lớn dần trong ông khi ông tiếp xúc với những tác
phẩm của các nhà văn hiện thực viết về nông thôn như Ngô Tất Tố, Nguyễn
Công Hoan, Nam Cao nhưng nó thật sự có điều kiện được phát lộ kể từ
ngày Nguyễn Hữu Nhàn theo học khóa III trường bồi dưỡng những người viết
văn trẻ – Hội Nhà văn Việt Nam, năm 1968. Sau ngày ra trường, Nguyễn Hữu
Nhàn về nhận công tác ở Phòng Xuất bản Sở Văn hóa tỉnh Vĩnh Phú. Tiếp
đến ông chuyển về Hội Văn nghệ dân gian, rồi Ban vận động thành lập Hội
Văn nghệ tỉnh Vĩnh Phú. Cùng với năm tháng công tác, Nguyễn Hữu Nhàn
xuống “ba cùng” với nhân dân, với thực tế cuộc sống ở bản làng xa xôi heo
hút vùng Đất tổ. Những chuyến đi ấy đã giúp cho ông có một vốn sống phong
phú mà không phải ai cũng có được. Trong những ngày Nguyễn Hữu Nhàn đi

điền dã, khảo cứu, sưu tầm văn hóa văn nghệ dân gian, ông luôn có ý thức tự
học bằng cách ghi chép, vun góp những hiểu biết, những phát hiện về cuộc
sống nơi thôn dã mình đi qua, ông say mê sưu tầm những giai thoại, những
mẩu truyện để viết về làng quê mình. Những truyện đầu tay của ông đã được
đăng tải trên các tạp chí văn nghệ ở địa phương và trung ương sau này tập
hợp lại in thành tập truyện ngắn có tên là “Chuyện làng Gành” tiếp đó là tiểu
24

thuyết “Dốc nắng” do nhà xuất bản Thanh Niên in năm 1981. Đầu thập niên
tám mươi của thế kỉ trước, ông được kết nạp vào Hội viên Hội nhà văn Việt
Nam. Nguyễn Hữu Nhàn không những là nhà văn mà còn là nhà nghiên cứu
sưu tầm văn hoá làng xã, đặc biệt là các công trình nghiên cứu văn nghệ dân
gian của các dân tộc Mường, Dao rất có giá trị trong kho tàng văn học dân
gian Việt Nam. Tất cả những yếu tố đó sau này là cơ sở vững chắc giúp cho
Nguyễn Hữu Nhàn trở thành nhà văn xuất sắc của mảng đề tài viết về nông
thôn. Người đọc, người xem những tiểu thuyết, truyện ngắn, bài báo hay
những bộ phim dài tập kịch bản của Nguyễn Hữu Nhàn đều cảm được cái tinh
túy, thâm hậu, sâu sắc, đôi khi dung dị thô mộc như đời sống nhưng nó gây
được hiệu ứng cảm xúc đánh thức những vùng tối, đánh thức lòng trắc ẩn tới
cõi ngóc ngách riêng tư của con người. Chúng ta hãy đọc “Làng nghèo”,
“Làng quê yên ả”, “Người quê”, “Đám cưới ở làng” và rất nhiều những
truyện khác nữa của ông sẽ chia sẻ được điều này Không thể kể ra hết
những gì Nguyễn Hữu Nhàn đã viết, đã gửi gắm tâm trí, tấm lòng mình cho
cuộc đời thông qua các tác phẩm, những câu chuyện về nông thôn, làng quê,
người quê của ông. Nguyễn Hữu Nhàn có lối viết riêng, một phong cách
Nguyễn Hữu Nhàn không lẫn với ai khi viết về làng quê, người quê.










25

CHƯƠNG II - HIỆN THỰC NÔNG THÔN
TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN HỮU NHÀN
Có thể tạm chia sáng tác của Nguyễn Hữu Nhàn làm hai thời kì: Từ năm
1986 trở về trước và sau năm 1986 đến nay, hay nói cách khác, thời kì trước
Nghị quyết X - đó là thời kì cơ chế tập trung quan liêu bao cấp cuộc sống lao
động sản xuất nông nghiệp của người nông dân tập trung theo mô hình những
hợp tác xã và thời kì sau 1986 - đó là thời kì đổi mới với năm thành phần kinh
tế trong đó kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển và cơ chế thị trường
ảnh hưởng sâu rộng, tác động sâu sắc đến đời sống của nông thôn Việt Nam.
Toàn bộ phần nội dung thuộc chương hai, luận văn sẽ đi sâu vào làm sáng tỏ
bức tranh hiện thực về nông thôn vùng trung du miền núi Bắc Bộ qua hai thời
kì nêu ở trên và qua những tác phẩm cụ thể của nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn.
2.1. Nét đặc trưng của nông thôn trung du miền núi Bắc bộ trong
sáng tác của Nguyễn Hữu Nhàn
Không gian đặc trưng của làng quê Việt Nam luôn gắn với những hình
ảnh quen thuộc như dòng sông, cánh đồng, mái đình, cây đa, ao làng… tất cả
đều gợi lên cảm giác thanh bình, yên tĩnh, thậm chí hoang sơ, hiu hắt. Không
gian ấy vừa tĩnh lặng vừa mang vẻ đẹp bình dị, tinh tế của hồn quê. Không
gian làng quê trong tác phẩm của nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn ở thời kỳ trước
và sau đổi mới vừa có những nét chung vốn có của làng quê Việt Nam vừa
mang đậm nét đặc trưng riêng của cảnh sắc làng quê vùng trung du đồi núi
Bắc Bộ. Làng quê của tác giả không đông đúc, nhà cửa san sát, bằng phẳng,
nhiều ao hồ như những làng quê vùng đồng bằng chiêm trũng, mà nó thưa

thớt, hoang sơ, lại là vùng “bán sơn địa” nên cảnh sắc làng quê luôn gắn liền
với hình ảnh đồi núi gập ghềnh “những chòm, những xóm, những căn nhà
ngự trên những quả đồi, dựa trên những sườn đồi, len lách trong kẽ đồi, thấy

×