Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Đề tài: Phát triển khu bảo tồn biển pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (429.08 KB, 13 trang )

Phát triển khu bảo tồn biển GVHD: Th.S Bùi Đức Kính
B GIO DC V ĐO TO
ĐI HC SƯ PHM K THUT THNH PH H CH MINH
KHOA CÔNG NGHỆ HO HC V THỰC PHẨM
NGNH CÔNG NGHỆ MÔI TRƯỜNG
  
BI TIỂU LUN
ĐỀ TÀI: PHT TRIỂN KHU BẢO TN
BIỂN
GVHD: Th.S Bùi Đức Kính
Nhóm thực hiện: Nhóm 5
Nguyễn Văn Nghiểm 08115020
Trần Đại Nghĩa 08115068
Nguyễn Trần Mai Ngọc 08115069
Đặng Đình Nô 08115074
Hoàng Thị Oanh 08115075
Thành Phố Hồ Chí Minh, Tháng 4 năm 2011
Nhóm 5 Trang 1
Phát triển khu bảo tồn biển GVHD: Th.S Bùi Đức Kính
I. TỔNG QUAN VỀ KHU BẢO TN THIÊN NHIÊN
Tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học đóng vai trò quan trọng trong sự tiến hóa, duy
trì hệ thống tự nhiên và phát triển kinh tế xã hội. Đa dạng sinh học ở nhiều quốc gia trên thế giới
đang bị suy giảm nghiêm trọng bởi các hoạt động của con người. Các khu BTTN đóng vai trò
chủ chốt trong bảo tồn đa dạng sinh học và đáp ứng các mục tiêu đa dạng của cộng đồng.
Định nghĩa của IUCN khẳng định:
“Khu bảo tồn thiên nhiên là một khu vực trên đất liền hoặc trên biển được khoanh vùng để bảo
vệ đa dạng sinh học, các tài nguyên thiên nhiên và văn hoá đi kèm, được quản lý bằng các công
cụ pháp luật hoặc các hình thức quản lý có hiệu quả khác” (IUCN 1994)
(Nguồn: />ve-cac-khu-bao-ton-thien-nhien.492228.html)
Hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên Việt
Nam - một trong những nước có đa dạng sinh


học cao nhất trên thế giới được mở rộng rất
nhanh trong 30 năm qua với khoảng 70 vườn
quốc gia, khu dự trữ thiên nhiên và khu bảo vệ
cảnh quan mới được thành lập trong thập kỷ 80.
Các khu bảo tồn thiên nhiên phân bố tương đối
đều trên cả nước. Số lượng các khu bảo tồn đã
thành lập ban quản lý tăng lên đáng kể.
Căn cứ vào hệ sinh thái, ở Việt Nam có ba
loại hình khu bảo tồn thiên nhiên chủ yếu: khu
Rừng Đặc dụng (khu bảo tồn rừng), khu Bảo Tồn
biển (KBTB) và khu Bảo Tồn Đất ngập nước.
Giữa ba loại hình khu bảo tồn này có sự trùng
lặp và tồn tại nhiều bất cập (Bản đồ 1). Hơn 300
loài sinh vật của Việt Nam đang bị đe dọa toàn
cầu. Trong số đó 49 loài được đánh giá là rất
nguy cấp – những loài đang phải đối mặt với
nguy cơ tuyệt chủng cực kỳ cao trong tự nhiên.
(Nguồn: />nload/baocao/5913_PolicyBrief_v_.pdf)
II. KHU BẢO TN BIỂN
1. Khái quát chung
Khu bảo tồn đầu tiên được thiết lập ở Việt
Nam vào năm 1962 là Vườn quốc gia Cúc Phương với mục tiêu bảo tồn rừng. Sau đó, nhiều khu
Nhóm 5 Trang 2
Phát triển khu bảo tồn biển GVHD: Th.S Bùi Đức Kính
bảo tồn tiếp tục ra đời bao gồm cả trên đất liền, ven biển và các đảo trên thềm lục địa nhưng
chưa đề cập đến mục tiêu bảo vệ tài nguyên và môi trường biển. Đến năm 1986, Vườn quốc gia
Cát Bà được thành lập với 5.400 ha vùng nước. Có thể coi đây là khu bảo tồn có biển đầu tiên
của Việt Nam.Tuy vậy, việc quản lý vùng biển hiện nay vẫn là thứ yếu so với quản lý rừng trên
đảo.
(Nguồn: />Theo một thống kê gần đây, Việt Nam hiện có 120 khu bảo tồn biển, chiếm gần 6% diện

tích lãnh thổ tự nhiên, và ở khắp 3 miền Bắc Trung Nam. Tuy nhiên, việc quản lý và duy trì hoạt
động một cách có hiểu quả các khu bảo tồn này lại cho thấy nhiều vấn đề. Việt Nam có hơn
3.000 km bờ biển, với diện tích vùng biển rộng đến 1.200.000 km
2
.
Biển nước ta cung cấp nguồn lợi hải sản rất quan trọng. Nguồn ngoại tệ thu được cho nền
kinh tế quốc gia từ xuất khẩu hải sản là to lớn, đứng thứ 2 sau ngành dầu khí. Biển và vùng bờ
biển Việt Nam còn cho một tiềm năng to lớn về du lịch. Vịnh Hạ Long - Cát Bà, thành phố Nha
Trang, Vũng Tàu đang thu hút khách du lịch từ bốn phương. Gần đây, nguồn lợi biển đã và
đang được khai thác sử dụng với cường độ ngày càng cao góp phần làm tăng trưởng nền kinh tế
đất nước ở mức 8-9% (GDP). (Nguồn: />2. Sự cần thiết phải thiết lập khu bảo tồn biển
Bên cạnh những lợi ích thu được từ việc khai thác, sử dụng nguồn lợi biển, các hoạt động
của con người đã gây ra rất nhiều tác động đối với tài nguyên và môi trường biển, đặc biệt đới bờ
biển. Tại đây, chúng ta đang phải đương đầu với những vấn đề về sự suy thoái của nguồn lợi tự
nhiên và môi trường. Sau đây có thể nêu một số tác động chính:
- Khai thác quá mức và không hợp lý: Theo thống kê của Bộ Thuỷ sản, nhiều năm gần đây sản
lượng khai thác cá biển hàng năm ở nước ta có tăng nhưng điều đáng chú ý là năng suất đánh bắt
một số nghề bị giảm sút, nhất là các loại nghề hoạt động ven bờ độ sâu dưới 30 m nước trở vào.
Sản lượng khai thác các loại hải sản chưa đến tuổi trưởng thành chiếm khá cao, đặc biệt đối với
một số loài tôm cá, nhuyễn thể có giá trị xuất khẩu. Một số loài sinh vật quý hiếm như dugong,
rùa biển cũng bị khai thác làm thực phẩm. Việc buôn bán các hàng mỹ nghệ từ hải sản phát triển
ở các trung tâm du lịch (Hạ Long, Nha Trang, Cà Ná ) là nguyên nhân dẫn đến làm cạn kiệt một
số loài san hô cảnh, trai ốc, tôm hùm và đồi mồi. Việc buôn bán cá cảnh biển phát triển mạnh ở
Nha Trang, Vũng Tàu, thành phố Hồ Chí Minh kéo theo việc đánh bắt quá mức cá trên các rạn
san hô miền trung Nhìn trung sự khai thác quá mức và không hợp lý ở vùng biển ven bờ đang
là mối đe dọa lớn cho nhiều loài sinh vật biển, đó cũng là nguyên nhân làm mất cân bằng tự
nhiên của các quần xã sinh vật biển ven bờ.
Nhóm 5 Trang 3
Phát triển khu bảo tồn biển GVHD: Th.S Bùi Đức Kính
- Đánh cá hủy diệt: Việc sử dụng các loại nghề, công cụ đánh bắt cá tôm có tính hủy diệt hoặc

ảnh hưởng rất lớn đến khả năng phục hồi quần đàn còn đang phổ biến ở nhiều nơi như dùng chất
nổ, xung điện, chất độc, các nghề te, xiệp, đăng đáy phát triển quá mức ở vùg ven bờ cửa sông.
- Phá hủy nơi cư trú: Phá rừng ngập mặn bừa bãi để nuôi tôm với tốc độ 2,3% năm, phá hủy các
rạn san hô, các thảm cỏ biển, các vùng triều lầy
- Ô nhiễm môi trường nước do chất thải của tàu thuyền, chất thải công nghiệp, dầu khí, thuốc trừ
sâu, diệt cỏ trong nông nghiệp, cũng là nguyên nhân làm suy giảm nguồn lợi hải sản ven bờ.
Để bảo vệ tính đa dạng sinh học và môi trường biển, cho tới nay Nhà nước đã ban hành
nhiều văn bản pháp quy để thực hiện việc quản lý vĩ mô nghề cá biển Việt Nam. Tuy vậy, cho tới
nay chúng ta cũng chưa xây dựng được một khu bảo tồn thiên nhiên biển theo đúng nghĩa cuả
nó. Vườn Quốc gia Cát Bà và Côn Đảo được thành lập trước hết để bảo vệ các đối tương trên
rừng, các đối tượng biển còn ít được quan tâm. Trong điều kiện hiện nay khi nhu cầu thiết yếu
của cuộc sống còn thiếu thốn., trình độ dân trí còn thấp, kỹ thuật khai thác còn lạc hậu thì nguồn
lợi hải sản và các hệ sinh thái biển tiêu biểu còn bị suy thoái là điều không thể tránh khỏi. Chúng
ta chỉ khai thác các nguồn lợi kinh tế từ biển mà quên đi bảo vệ môi trường - cơ sở để bảo vệ và
khai thác nguồn tài nguyên biển bền vững. Chính vì vậy, việc nhanh chóng xây dựng khu bảo tồn
thiên nhiên biển là một yêu cầu bức thiết.
(Nguồn: />

3. Vai trò của khu bảo tồn biển
Nhóm 5 Trang 4
Hòn Mun - Vịnh Nha Trang có đa dạng sinh
học cao với 350 loài rặng san hô chiếm 40%
san hô trên thế giới. (Nguồn: Khu bảo tồn
biển Vịnh Nha Trang)
Bảo tồn và phát triển sinh vật sống trong
vùng rạn tại Côn Đảo
Phát triển khu bảo tồn biển GVHD: Th.S Bùi Đức Kính
Việc thiết lập KBTB sẽ làm mật độ sinh vật biển tăng gấp đôi, sinh khối tăng ba lần, kích
thước của sinh vật và đa dạng sinh học tăng lên 20-30% so với vùng không nằm trong KBTB.
Trong các KBTB, trữ lượng hải sản tăng lên sau một thời gian thiết lập (thường sau năm năm) sẽ

cung cấp các ấu trùng hải sản cho các bãi cá bên ngoài nhờ các dòng chảy biển và đại dương.
Vì vậy việc thành lập các KBTB không chỉ góp phần đảm bảo cần bằng sinh thái vùng
biển, đa dạng sinh học, điều hoà môi trường và nguồn giống hải sản mà còn có ý nghĩa to lớn đối
với phát triển kinh tế lâu dài, với nghiên cứu khoa học, giải trí và du lịch sinh thái. Đồng thời nó
còn là cơ sở, là công cụ hành chính và pháp luật trong việc đấu tranh và bảo vệ an ninh, chủ
quyền quốc gia trong phạm vi đặc quyền kinh tế của nước ra.
Việc thiết lập các khu bảo tồn nhằm "duy trì các quá trình sinh thái quan trọng và các hệ
thống nuôi dưỡng sự sống, đảm bảo việc sử dụng lâu bền các loài sinh vật và các hệ sinh thái, và
bảo tồn đa dạng sinh học". Sự lựa chọn đối với các khu bảo tồn biển cần phải coi tiêu chuẩn sinh
thái là quan trọng và quyết định nhất do những đặc thù của môi trường biển (Kelleher
&Kenchington, 1991). Quan điểm trên đây cho thấy, mục tiêu của các khu bảo tồn biển không
chỉ tính đến nguồn lợi trực tiếp mà quan tâm nhiều hơn đến tính bền vững của môi trường biển.
Vì vậy việc xem xét vai trò của chúng cần được thảo luận trên quan điểm kinh tế - sinh thái.
Bảo tồn đa dạng sinh học đang là vấn đề mang tính toàn cầu và chính là tiêu chuẩn đầu tiên
trong lựa chọn các khu bảo tồn biển. Ở vùng biển nhiệt đới khái niệm các khu bảo tồn biển
thường gắn với các hệ sinh thái như rạn san hô, rừng ngập mặn, thảm cỏ biển. Đây là những
quần cư có tính đa dạng rất cao và đồng thời đóng vai trò quan trọng cho việc bảo vệ nguồn lợi
thủy sản và duy trì môi trường vùng biển. Kế hoạch hành động đa dạng sinh học của Việt Nam
cũng chỉ ra tính cần thiết phải thiết lập các khu bảo tồn biển ở những vùng có tính đa dạng cao vì
đây cũng chính là nơi cung cấp nhiều nguồn lợi (Bộ KHCN và MT, 1995).
Các khu bảo tồn biển có vai trò quan trọng đối với nguồn lợi thủy sản, nơi đây phải là nơi
sinh sản và ương giống của các loài có giá trị cao. Những loài này có thể thường xuyên sống
hoặc chỉ trải qua thời kì sinh sản trong phạm vi khu bảo tồn. Nhiều sinh vật biển có vòng đời khá
phức tạp và mỗi giai đoạn có thể cần một quần cư khác nhau. Vì vậy, tính liên kết giữa các hệ
sinh thái có vai trò quan trọng cho việc duy trì nguồn giống cho thủy vực. Nguồn giống này sẽ
được phát tán đến những vùng biển xung quanh theo hướng và cự li khác nhau tuỳ thuộc vào chế
độ động lực trong thời kì sinh sản của loài và thời gian tồn tại của giai đoạn ấu trùng. Chính vì
vậy, sự bền vững của một nguồn lợi ở một vùng biển, kể cả biển xa cũng có thể phụ thuộc vào
hiệu quả của những khu bảo tồn ở vùng gần bờ.
(Nguồn: />Nhóm 5 Trang 5

Phát triển khu bảo tồn biển GVHD: Th.S Bùi Đức Kính
4. Thực trạng các khu bảo tồn biển Việt Nam
Cùng góp sức vào sự đổi mới, trong những năm qua kinh tế biển luôn đóng vai trò quan
trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội của đất nước, trong đó đặc biệt phải kể đến sự đóng góp
của nguồn lợi thuỷ sản. Tuy nhiên, đến nay việc bảo tồn các khu vực biển vẫn chưa được quan
tâm đúng mức, hệ thống các khu bảo tồn biển nước ta vẫn chưa được coi là tồn tại chính thức.
Vì vậy nhiều vùng biển đã và đang bị xâm hại đến mức báo động. Nguyên nhân của tình
trạng trên là do trong nhiều năm liền chúng ta chỉ quan tâm đến khai thác lợi ích kinh tế-xã hội
mà các vùng biển này đem lại mà quên đi mất mặt trái của nền kinh tế thị trường tác động đến
khu bảo tồn này.
Từ năm 1993, phân vùng bảo tồn đa dạng sinh học biển cũng được đưa vào qui hoạch quản
lý của Vườn quốc gia Côn Đảo. Đến nay, sau nhiều năm được quan tâm, hoạt động bảo tồn biển
đang thực sự được chú trọng ở vùng đảo xa này. Các khu dự trữ đang tồn tại trên các đảo khác
như Phú Quốc, Cù Lao Chàm, Ba Mùn, hầu như chưa quan tâm đến biển và nguồn lợi sinh vật
biển.
Nhưng một thực tế đặt ra hiện nay là sự phát triển của nguồn lợi thuỷ sản và những tác
động của con người trong quá trình khai thác thuỷ sản đã làm ảnh hưởng xấu trực tiếp đến các
KBTB này. Trong khi các khu bảo tồn này hoạt động với mục tiêu chính là bảo vệ nguồn lợi
thuỷ sản, môi trường biển nhưng lại ít được quan tâm đầu tư đúng mức.
Ngoài ra, một số khu bảo tồn ven biển như bắc và nam Hải Vân, Hòn Nưa, v.v…, với mục
tiêu bảo vệ là rừng ven biển nhưng vẫn chưa đề cao được vai trò biển trong quy hoạch phát triển.
Tại cuộc hội thảo “Quy hoạch hệ thống khu bảo tồn biển Việt Nam đến năm 2010” mới đây,
các nhà khoa học cho biết hiện tổng thể diện tích của hệ thống KBTB Việt Nam có khoảng hơn 2
triệu (khoảng 120 KBTB) chiếm gần 6% diện tích lãnh thổ tự nhiên, trong đó có khoảng 7% diện
tích này đã được xác lập từ những năm đầu của quá trình đổi mới đất nước và chủ yếu tập trung
trên đất liền.
Trong những năm gần đây việc nghiên cứu đề xuất thiết lập các khu bảo tồn biển đã được
nhiều cơ quan quan tâm và đạt được những kết quả ban đầu. Trong đó, 9 khu vực mới đề xuất đã
được xếp hạng ưu tiên trong kế hoạch phát triển hệ thống bảo tồn biển và ven bờ thuộc khuôn
khổ dự án ADB: 5712-REG. Một số dự án hoặc hoạt động theo mục tiêu bảo tồn thiên nhiên biển

đã triển khai như ở Hòn Mun, Cù Lao Cau. Tuy nhiên, nhiều đề xuất còn chưa thuyết phục do
thiếu tư liệu khoa học và định hướng. Đặc biệt, những vấn đề liên quan đến các quá trình sinh
thái, hệ thống nuôi dưỡng sinh vật và tính khả thi trong giải pháp bảo vệ và phát triển nguồn lợi
chưa được quan tâm nhiều. Mặt khác, một số đề xuất thiếu tính đồng bộ do thiếu sự kết hợp giữa
Nhóm 5 Trang 6
Phát triển khu bảo tồn biển GVHD: Th.S Bùi Đức Kính
các cơ quan liên quan trong quá trình triển khai. Tính kế thừa không được quan tâm dẫn đến việc
có những khu mới đề xuất chồng lấn lên khu bảo tồn đang tồn tại.
Trong hệ thống bảo vệ nguồn lợi thủy sản, một số khu vực biển đã được hoạch định thành
các vùng bảo vệ nguồn lợi như vùng biển Mỹ Miều (Quảng Ninh), Nha Phu (Khánh Hoà), Mũi
Né (Bình Thuận), bãi bồi Ngọc Hiển (Cà Mau) Các vùng này chủ yếu được quản lí bởi các Chi
cục Bảo vệ nguồn lợi thủy sản các tỉnh đã góp phần nhất định trong việc chống khai thác quá
mức, bảo vệ các hệ sinh thái nhờ ngăn chặn các kiểu khai thác hủy diệt. Tuy nhiên, kiểu hoạt
động này chỉ bao gồm các quy định và quản lý hoạt động riêng rẽ mà cụ thể là quản lý khai thác
thủy sản, trong khi đó có rất ít hoặc không có sự phối hợp với việc quản lý các hoạt động khác
trong cùng vùng biển và lân cận.
Như vậy, hệ thống các khu bảo tồn biển và ven bờ Việt Nam chưa thể được coi là tồn tại
một cách chính thức. Các khu bảo tồn đang tồn tại chưa quan tâm nhiều về biển nói chung và
nguồn lợi thủy sản nói riêng.
Nhận thức được vai trò quan trọng của các KBTB đối với phát triển kinh tế xã hội đất
nước, trong những năm gần đây nhiều KBTB đã được quan tâm nghiên cứu và thiết lập, đồng
thời kêu gọi được sự hợp tác, trợ giúp của các tổ chức quốc tế
(Nguồn: />Phát triển kinh tế - mặt trái của vấn đề
Hiện nay, trên thế giới, các khu bảo tồn biển chỉ chiếm 0,8% diện tích đại dương và phần
lớn là những khu vực nhỏ riêng lẻ gần bờ, còn môi trường sống và các chu trình sống xa bờ và
ngoài quyền hạn quản lý của các quốc gia lại không được bảo vệ. Trong khi đó, có hơn 11% diện
tích đất trên trái đất được bảo vệ nhờ các vườn quốc gia và các hệ thống bảo tồn khác.
Sự phát triển của kinh tế biển đã góp phần to lớn vào sự tăng trưởng kinh tế đất nước, giải
quyết công ăn việc làm cho hàng triệu người lao động và góp phần xoá đói giảm nghèo là điều
kiện không thể phủ nhận. Song sự tăng trưởng kinh tế biển lại không đi đôi với việc xây dựng và

bảo tồn đã kéo theo sự suy thoái môi trường biển, làm cạn kiệt nguồn lợi thuỷ sản.
Theo ước tính mỗi năm, nước thải từ các con sông ra biển mang theo hàng trăm triệu tấn
phù sa cũng nhiều tạp chất khác đã góp phần gây ô nhiễm môi trường biển. Mặt khác tại các
vùng đất ven biển thường diễn ra các hoạt động khai hoang, lấn biển để làm nông nghiệp và xây
dựng các khu kinh tế mới gây tác động không nhỏ đến môi trường, cảnh quan sinh thái tự nhiên
của biển. Quá trình canh tác phát triển nông nghiệp và xây dựng các khu kinh tế mới đã gây tác
động không nhỏ đến môi trường, cảnh quan sinh thái tự nhiên, tài nguyên của biển.
Nhóm 5 Trang 7
Phát triển khu bảo tồn biển GVHD: Th.S Bùi Đức Kính
Ngoài ra, trong quá trình canh tác phát triển kinh tế nông nghiệp, mỗi năm con người gián
tiếp thải ra khoảng 20.000 tấn thuốc phòng trừ sâu bệnh còn tồn dư ra biển.
Việc phát triển các vùng nuôi trồng thuỷ sản với tốc độ nhanh như hiện nay tại các đầm
phá, eo vịnh, các vùng trồng lúa kém hiệu quả và các hình thức nuôi cá lồng bè quây lưới ở mật
độ dày, thải ra một lượng không nhỏ thức ăn dư thừa cũng là tác nhân không nhỏ gây ô nhiễm
nguồn nước, phát sinh dịch bệnh tràn lan.
Không những thế tình trạng khai thác nguồn lợi thuỷ sản bằng đánh mìn, sử dụng hoá chất
độc hại đã làm cạn kiệt nhanh chóng nguồn lợi thuỷ sản và gây hậu quả xấu nặng nề đến các
vùng sinh thái biển, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng trầm tích đáy biển, môi trường cư trú
của nhiều loài thuỷ hải sản.
Theo các nhà nghiên cứu, hiện tại ở các vùng xác định là có ảnh hưởng từ những tác động
của con người trong các vùng phát triển kinh tế, hàm lượng hoá chất bảo vệ thực vật trong các
mẫu sinh vật đáy ở các vùng cửa sông ven biển phía bắc đều cao hơn giới hạn cho phép.
Do tác động của biến đổi khí hậu hệ sinh thái biển sẽ bị tổn thương. Các rạn san hô là nơi
sinh sống của nhiều loài hải sản quan trọng và nhiều loài sinh vật biển khác, là lá chắn chống xói
mòn bờ biển và bảo vệ rừng ngập mặn, sẽ bị suy thoái do nhiệt độ nước biển tăng, đồng thời mưa
nhiều làm cho nước bị ô nhiễm phù sa và có thể cả các hoá chất nông nghiệp nữa từ cửa sông đổ
ra.
Điều này có tác động không nhỏ đến tiến trình phát triển tự nhiên của sinh vật biển cũng
như ảnh hưởng đến nguồn lợi thuỷ sản mà biển ban tặng cho con người.
Diện tích rừng ngập mặn (RNM) ngày càng bị thu hẹp, môi trường suy thoái và nguồn lợi

thuỷ sản ven biển bị cạn kiệt. Do mất RNM, số lượng sinh vật phù du và sinh vật đáy làm thức
ăn cho các loài thuỷ sản giảm đi đáng kể, dẫn đến tình trạng giảm sút năng suất tôm nuôi quảng
canh. Theo ước tính, trước đây cứ 1 ha RNM có thể khai thác được 700-1000 kg thuỷ sản thì nay
chỉ thu được khoảng 1/2 số đó.
Mặc dù rừng sinh thái đóng vai trò đặc biệt kỳ quan trọng đối với môi trường biển và được
con người ví như “rừng mưa nhiệt đới dưới đáy biển” ở nhiều vùng biển nước ta hệ sinh thái này
đang bị khai thác quá mức bằng các phương tiện mang tính huỷ diệt như đánh mìn, sử dụng hoá
chất độc để đánh bắt hải sản.
Khai thác san hô làm vôi và đồ lưu niệm khiến cho môi trường sinh thái dưới đáy biển bị
suy thoái nghiêm trọng.
Theo đánh giá của Viện Tài nguyên Thế giới, có đến 80% rừng sinh thái biển Việt Nam
nằm trong tình trạng rủi ro cao do tác động của con người. Và tình trạng này cũng đang diễn ra
Nhóm 5 Trang 8
Phát triển khu bảo tồn biển GVHD: Th.S Bùi Đức Kính
tương tự với hệ sinh thái thảm cỏ biển, các thảm cỏ biển ở vùng cửa sông, đầm phá, vùng triều
và ven một số đảo bị khai thác bừa bãi làm phân bón hoặc thức ăn cho gia súc.
Trước tình trạng khai thác quá mức như hiện nay, các khu bảo tồn biển được thiết lập và
quản lí tốt giúp cho nhiều loài sinh vật biển trốn tránh sự huỷ diệt sinh thái. Khái niệm này liên
quan đến tập tính của nhiều loài sinh vật biển biết tìm quần cư trú ẩn trong những giai đoạn nhạy
cảm của vòng đời và nhờ vậy tránh được thảm hoạ bị tiêu diệt. Mặt khác, thủy vực của các khu
bảo tồn biển là nơi cuối cùng để các loài quý hiếm hoặc bị đe doạ tìm nơi trú ẩn trước hoạt động
khai thác ngày càng gia tăng của con người. Các loài có giá trị cao này sẽ tìm được cơ hội phục
hồi khi có những nghiên cứu nhằm phát triển giống loài trong tương lai thông qua các hoạt động
như nhân giống, nuôi trồng đại trà. Bảo tồn tính đa dạng cũng giúp duy trì các nguồn gen để sử
dụng trong công nghệ sinh học nhằm tạo ra những giống loài sinh vật biển có năng suất và chất
lượng cao khi điều kiện cho phép.
(Nguồn: />option=com_content&view=article&id=271:ng moi-trng-cac-khu-bo-tn-bin-b-tn-
dit&catid=90:kinh-t-moi-trng&Itemid=351)
1. Vấn đề và giải pháp giúp cải thiện và phát triển các KBTB Việt Nam
Theo T.S Nguyễn Chu Hồi, Phó Tổng cục Biển & Hải đảo Việt Nam, khi quy hoạch hệ

thống KBTB điều trước tiên phải hướng tới tính khả thi. Hiện tại, việc thiết lập hệ thống bảo tồn
biển và cùng ven bờ vẫn còn nhiều trở ngại từ những vấn đề liên quan đến tính quản lý, chưa có
văn bản pháp lý phân công trách nhiệm một cách rõ ràng.
Tính khả thi trước tiên, nên đề cao vai trò các địa phương tại các KBTB, cộng đồng địa
phương. Có thể giao quyền và trách nhiệm cụ thể cho chính quyền địa phương thuộc địa bàn đó.
Như vậy mới phát huy được tính hiệu quả trong bảo vệ môi trường và tài nguyên.
Nhận thức về bảo tồn biển đang là vấn đề lớn không chỉ đối với cộng đồng mà cả với các
nhà quản lý. Thực tế cho thấy, không ít cán bộ môi trường ở các tỉnh ven biển vẫn còn mơ hồ với
khái niệm về KBTB. Bên cạnh đó ở cấp quốc gia, việc quan tâm đầu tư cho các KBTB cũng
chưa tương xứng với tiềm năng đem lại.
- Ngành thủy sản cần phối hợp đồng bộ với các cơ quan nhà nước, các tổ chức quốc tế, các
cộng đồng ven biển thiết lập hệ thống bảo tồn biển và ven bờ sẽ được triển khai có hiệu quả, góp
phần vào việc bảo vệ và duy trì bền vững nguồn lợi thủy sản của nước ta. Bên cạnh đó nên phát
triển các KBTB và đưa tên các KBTB đó vào mạng lưới KBT quốc gia để tranh thủ sự giúp đỡ
của các tổ chức như : IUCN, WWF, …
Nhóm 5 Trang 9
Phát triển khu bảo tồn biển GVHD: Th.S Bùi Đức Kính
- Mặc dù nhận được nhiều mối quan tâm và những đầu tư nhất định trong nhiều năm qua,
việc thiết lập hệ thống bảo tồn biển và ven bờ vẫn còn đối diện với nhiều trở ngại. Điều quan
trọng nhất có lẽ là những vấn đề liên quan đến tính định hướng và quản lí ở cấp vĩ mô. Hiện nay,
nhiều cơ quan được coi là có liên quan trong việc thiết lập và quản lí các khu bảo tốn biển nhưng
chưa có sự phân công trách nhiệm một cách rõ ràng bằng văn bản pháp lí. Vậy, một cơ quan
mang tính quốc gia nhằm quản lí, cần phải điều phối phân công trách nhiệm rõ ràng tránh tình
trạng “Cha chung không ai khóc” về các hoạt động bảo tồn thiên nhiên biển .
+ Dựa vào tính khả thi, sự kế thừa và đặc trưng nguồn lợi của vùng biển và những hoạt
động lân cận để quản lí và sử dụng từng khu bảo tồn biển. Trong đó, vai trò của các địa
phương cần được đề cao. Bộ máy quản lí được thiết lập một cách linh hoạt theo tính chất của
vùng và tiềm năng hiện có tại chỗ sao cho phát huy được tính hiệu lực trong bảo vệ môi
trường và tài nguyên.
+ Thường xuyên rà soát lại tình hình hoạt động của các vùng hiện đang được bảo vệ

dưới mọi hình thức. Để chúng trở thành các khu bảo tồn biển và ven bờ thực sự, việc phân
vùng chức năng cần phải thực hiện sau những khảo sát bổ sung và đánh giá hiện trạng. Vùng
bảo tồn phải có ranh giới và được quản lí theo các mức độ khác nhau ở các phân vùng chức
năng. Đối với các khu bảo tồn biển, vùng đệm là một phân vùng không thể thiếu và được
thiết lập dựa trên các quá trình sinh thái của thuỷ vực.
- Năng lực quản lí vùng biển cũng là vấn đề cần thảo luận. Các khu bảo tồn hiện tồn tại
không chỉ thiếu cán bộ quản lí về số lượng và chất lượng mà còn thiếu tính đa ngành. Vì vậy,
việc quản lí không thể đồng bộ và hiệu quả. Giải pháp tốt nhất là phối hợp giữa các lực lượng
hiện có với một sự chỉ đạo chung ở từng địa phương. Việc phân chia quản lí riêng rẽ theo bộ máy
hành chính ngành sẽ hạn chế hiệu quả. Rõ ràng là môi trường biển không tách biệt thành rừng
ngập mặn, thủy vực ven bờ, vùng nuôi tôm mà chúng là một thể thống nhất theo các qui luật
sinh thái và liên hệ chặt chẽ với nhau. Vì vậy, sự hợp tác giữa các cơ quan ở từng địa phương là
không thể thiếu được. Trang thiết bị quản lí cũng cần được tập hợp lại, tránh tình trạng phân tán
như hiện nay.
+ Nghiên cứu và đưa ra các chính sách “giao Biển cho dân quản lí” ( một hình thức đã
được áp dụng đối với đất rừng) nhưng đảm bảo không gây hại cho mục tiêu chính là bảo tồn
thiên nhiên. Vì việc quản lí các khu bảo tồn biển không thể tách khỏi sự tham gia của cộng đồng.
Cư dân tại chỗ chính là đối tượng gây tác động có hại nhiều nhất cho tài nguyên môi trường biển.
Mặt khác, hoạt động bảo tồn biển cũng mang lại cho họ nhiều lợi ích nhất. Ví dụ điển hình cho
mô hình trên là KBTB Rạn Trào_ Khánh Hòa là khu BTB đầu tiên do người dân lập ra và sử
dụng hình thức nuôi trồng thủy sản thay cho đánh bắt vùng lõi. Còn ở khu bảo tồn biển vịnh Nha
Trang, việc tạo sinh kế cũng đang được triển khai trong cư dân với các hoạt động nuôi trồng thuỷ
sản, làm dịch vụ du lịch, nuôi trồng các loài có giá trị cao…
Nhóm 5 Trang 10
Phát triển khu bảo tồn biển GVHD: Th.S Bùi Đức Kính
+ Giáo sư Anne Walton, Cơ quan quản lý đại dương và khí quyển Hoa Kỳ cho biết:
“Người dân sống ven khu bảo tồn có vai trò rất quan trọng và chúng ta nên huy động người dân
tham gia bảo tồn vì họ hiểu rõ về vùng biển, về địa hình. Nhiều khu bảo tồn biển thành công là
nhờ tạo mối liên hệ mật thiết giữa người dân và nhà quản lý. Từ đó, người dân tham gia bảo tồn
biển” đã thêm phần cũng cố tầm quan trọng của dân cư trong KBTB. Nhưng, để được cộng đồng

dân cư hưởng ứng thì ban quản lí phải thiết lập, xây dựng nhiều “ chương trình môi trường về
BTB” có chất lượng để tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức cho cộng đồng dân cư về KBT
nói chung và KBTB nói riêng… bằng cách thông qua các tổ chức như : Hội Nông dân, Hội phụ
nữ, Đoàn Thanh niên và Mặt trận Tổ quốc là những tổ chức có hiểu biết nhiều nhất về kinh tế xã
hội và sinh kế của cộng đồng. Những hiệp hội này đã được thành lập cách đây rất lâu nhằm hỗ
trợ chính quyền trong việc thực hiện phát triển cộng đồng và có mạng lưới thành viên đến tận hộ
dân. Họ có kinh nghiệm và khả năng trong việc huy động cộng đồng.
Với nỗ lực của ngành thủy sản và phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan nhà nước, các tổ chức
quốc tế, các cộng đồng ven biển, hy vọng rằng việc thiết lập hệ thống bảo tồn biển và ven bờ sẽ
được triển khai có hiệu quả, góp phần vào việc bảo vệ và duy trì bền vững nguồn lợi thủy sản
của nước ta.
Nguồn:
+ />option=com_content&view=article&id=271:ng moi-trng-cac-khu-bo-tn-bin-b-tn-
dit&catid=90:kinh-t-moi-trng&Itemid=351
+ />ww+ Sinh kế bền vững cho các khu bảo tồn Biển Việt Nam_ Angus McEwin; Nguyễn Tố
Uyên; Thẩm Ngọc Diệp, Hà Minh Trí, Keith Symington.thangs7 năm 20070)
5. Kết luận và kiến nghị
5.1. Kết luận
Xây dựng hệ thống khu bảo tồn biển nhằm bảo vệ các hệ sinh thái, các loài thuỷ sinh vật
biển có giá trị kinh tế, khoa học; góp phần phát triển kinh tế biển, cải thiện sinh kế của cộng
đồng ngư dân các địa phương ven biển. Ngoài ra, KBTB còn có sức hấp dẫn đối với du khách,
tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch sinh thái, nghiên cứu khoa học và giáo dục cộng
đồng. Tuy nhiên nhận thức về bảo tồn biển trong dân và lãnh đạo các cấp còn chưa rõ ràng. Năng
lực quản lý KBTB còn yếu, cơ sở vật chất nghèo nàn, thiếu thiết chế tổ chức đủ mạnh, chưa phối
hợp quản lý liên ngành, tính đa dạng sinh học và môi trường biển bị xâm hại
5.2. Kiến nghị
Nhóm 5 Trang 11
Phát triển khu bảo tồn biển GVHD: Th.S Bùi Đức Kính
Đầu tư hợp lý cho các chương trình phát triển kinh tế; các chương trình giáo dục nâng cao
nhận thức cho người dân địa phương; cơ chế cho cộng đồng dân cư và các tổ chức tham gia bảo

vệ, quản lý tài nguyên biển và ven biển.
Cần có những giải pháp đồng bộ để giảm thiểu những tác động tiêu cực từ mặt trái của phát
triển kinh tế biển đối với môi trường. Và có như vậy mới bảo vệ, duy trì và phát triển nguồn tài
nguyên biển của đất nước.
Nghiên cứu chính sách cho cộng đồng cư dân quản lý các khu bảo tồn biển được hưởng lợi
từ dịch vụ bảo vệ nguồn lợi thủy sản, bảo đảm sự phát triển bền vững và hiệu quả.
Cần đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác bảo tồn biển có năng lực quản lý, chuyên môn từ
Trung ương đến các địa phương và trong cộng đồng dân cư ven biển; Tổ chức xây dựng và nhân
rộng các mô hình quản lý có sự tham gia của cộng đồng để bảo vệ nguồn lợi hải sản trong và
xung quanh khu bảo tồn biển.
Cần đầu tư để tiến hành nghiên cứu xây dựng cơ chế chính sách quản lý hiệu quả hệ thống
khu bảo tồn biển Việt Nam.
Nhóm 5 Trang 12
Phát triển khu bảo tồn biển GVHD: Th.S Bùi Đức Kính

TI LIỆU THAM KHẢO
1. />2. />3.
4.
5.
6. />option=com_content&view=article&id=271:ng moi-trng-cac-khu-bo-tn-bin-b-tn-
dit&catid=90:kinh-t-moi-trng&Itemid=351
7.
8. />Danh mục các từ viết tắt
IUCN Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế
WWF Quỹ Quốc tế về Bảo vệ Thiên nhiên
Nhóm 5 Trang 13

×