Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Tiểu luận mỹ thuật docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (375.03 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
Tr

Phần mở đầu …………………………………… 3
1. Lý do chọn đề tài………………………………………3
2. Mục đích nghiên cứu………………………………… 3
3. Đối tượng nghiên cứu………………………………….3
4. Phạm vi nghiên cứu……………………………………3
5. Nhiệm vụ nghiên cứu………………………………….4
6. Phương pháp nghiên cứu………………………………4
7. Đóng góp của đề tài……………………………………4
8. Bố cục của đề tài………………………………………4

Phần nội dung 5
Chương 1: Các trường phái hội họa phương Tây…… 5
1.1 Tìm hiểu về trường phái hội họa………………… 5
1.1.1 Trường phái hội họa là gì? 5
1.1.2 Có tất cả bao nhiêu trường phái hội họa? 5
1.1.3 Các trường phái hội họa phương Tây………… 5
1.1.4
1.2 Các trường phái hội họa phương Tây tiêu biểu………6
1.2.1 Trường phái hội họa Ấn tượng………………….6
1.2.2 Trường phái hội họa Dã thú……………………7
1.2.3 Trường phái hội họa Lập thể……………………7
1.2.4 Trường phái hội họa Trừu tượng……………… 8
1.2.5 Trường phái hội họa Siêu thực……………… …9

Chương 2:Những nét nổi trội trong việc sử dụng màu
sắc và quan niệm sáng tác của một số trường phái hội họa
phương Tây. …………………………………………………10
2.1 Màu sắc trong hội họa phương Tây…………………10


2.1.1 Màu sắc trong tranh Phục Hưng – hội họa truyền
thống tả thực………………………………………………… 10
2.1.2 Màu sắc trong hôi họa Ấn tượng………………12
2.1.3 Màu sắc trong hội họa Dã thú…………………14
2.1.4 Màu sắc trong hội họa Siêu thực 15
2.1.5 Màu sắc trong hội họa Trừu tượng…………….16
2.2 Quan niệm sáng tác……………………………… 16
2.2.1 Quan niệm của các họa sĩ Ấn Tượng…………17
2.2.2 Quan niệm sáng tác của các họa sĩ Dã thú……18
2.2.3 Quan niệm sáng tác của các họa sĩ Siêu thực 19
2.2.4 Quan niệm sáng tác của các họa sĩ Trừu tượng19

Phần kết luận………………………………….20
Tài liệu tham khảo…………………………….21






























PHẦN MỞ ĐẦU

1.Lý do chọn đề tài
Bản chất của nghệ thuật luôn phát triển và không ngừng
được tìm tòi khám phá. Mỗi tác giả đều chú trọng tới yếu tố của
ngôn ngữ tạo hình như đường, nét, hình mảng để làm phương
tiện biểu hiện tạo ra sự đa dạng cho tác phẩm nghệ thuật, có lúc
thiên về diễn tả sáng tối, có lúc chú trọng về hình thể, không có
tác giả nào xem nhẹ màu sắc, bởi khả năng biểu hiện của ánh
sáng bóng tối, không gian, thời gian, vật chất tất cả đều liên
quan đến sức biểu hiện của màu sắc.
Đó cũng được coi là quan niệm sáng tác của các Họa sĩ,
trong mỗi hoàn cảnh và môi trường khác nhau mà những quan
niệm sáng tác có thể thay đổi. Chính những tư tưởng đổi mới
trong sáng tác nghệ thuật mà các trường phái hội họa đc ra đời.
Mỗi trường phái đại diện cho quan niệm sáng tác và cách sử
dụng màu riêng. Tất cả đã góp phần tạo nên một thế giới hội

họa đa màu sắc, muôn màu muôn vẻ.
Xuất phát từ nhận thức trên cùng với những đóng góp vô
cùng lớn lao mà hội họa đã mang đến cuộc sống con người đã
thôi thúc em lựa chọn đề tài : “ Màu sắc và quan niệm sáng tác
của một số trường phái hội họa phương Tây” để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu chính của đề tài là tìm ra những đặc
điểm tiêu biểu trong việc sử dụng màu sắc cũng như quan niệm
sáng tác của các họa sĩ ở một số trường phái hội họa phương
Tây tiêu biểu.
Nhận thức rõ hơn tầm quan trọng của màu sắc và quan niệm
sáng tác trong hội họa.
3. Đối tượng nghiên cứu
Màu sắc và quan niệm sáng tác của một số trường phái hội
họa phương Tây.
4. Phạm vi nghiên cứu
Việc sử dụng màu sắc và quan niệm sáng tác tranh của các
họa sĩ thuộc 1 số trường phái hội họa phương Tây tiêu biểu.
Một số tranh thuộc các trường phái khác nhau.
5. Nhiệm vụ của nghiên cứu
Làm rõ mối quan hệ của việc sử dụng màu sắc và quan niệm
sáng tác của các họa sĩ trong hội họa.
Sự độc đáo của màu sắc và lối tư duy trong quan niệm sáng
tác của các họa sĩ trong hội họa.
6. Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài này em dùng phương pháp nghiên cứu lý
thuyết nhìn từ góc độ mỹ thuật học và phương pháp tiếp cận lịch
sử để nghiên cứu tài liệu.
Ngoài ra em còn sử sụng các tài liệu trong các công trình
khoa học nghiên cứu về màu sắc, về các trường phái hội họa

phương Tây đã được công bố.
7. Đóng góp của đề tài
Đây là đề tài mang tính chất tổng quát và hệ thống hóa
những thủ pháp sử dụng màu sắc và quan niệm sáng tác của các
họa sĩ thuộc 1 số trường phái hội họa.
Từ cách phân tích, khái quát rồi đánh giá em hi vọng đưa ra
một số nhận xét có cơ sở về những nét nổi trội trong việc sử
dụng màu sắc và quan niệm sáng tác của một số trường phái hội
họa phương Tây.
Từ cách tiếp cận này, đề tài hi vọng có một đóng góp nhỏ
trong cách phân tích các tác phẩm hội họa. Đó là cách nhìn bao
quát , toàn diện trong mối liên hệ giữa lịch sử, quan điểm sáng
tác , quan điểm thẩm mỹ để hiểu và phân tích tác phẩm sâu hơn.
8. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục
thì đề tài có nội dung chính gồm:
Chương 1: Các trường phái hội họa phương Tây.
1.1 Tìm hiểu về trường phái hội họa.
1.2 Các trường phái hội họa phương Tây tiêu biểu.
Chương 2: Những nét nổi trội trong việc sử dụng màu sắc
và quan niệm sáng tác của một số trường phái hội họa phương
Tây.
2.1 Màu sắc trong hội họa phương Tây
2.2 Quan điểm sáng tác.


PHẦN NỘI DUNG


CHƯƠNG 1 : CÁC TRƯỜNG PHÁI HỘI HỌA PHƯƠNG

TÂY
1.1 Tìm hiểu về trường phái hội họa
1.1.1 Trường phái hội họa là gì?
Hội họa đã xuất hiện từ rất lâu, từ khi chữ viết của con
người còn chưa xuất hiện, từ lịch sử mỹ thuật ta có thể đưa ra
kết luận: hội họa là một ngôn ngữ để truyền đạt ý tưởng bằng
các tác phẩm sử dụng kỹ thuật (nghệ) và phương pháp (thuật)
của họa sỹ. Trong hội họa, thuật ngữ “trường phái” dùng để chỉ
một phong cách, trong đó phân loại một nhóm các họa sỹ có
chung những kỹ thuật và phương pháp thể hiện.
1.1.2 Cótất cả bao nhiêu trường phái hội họa?
Các trường phái hội họa ở trên thế giới là vô cùng nhiều,
các trường phái xuất hiện ở bất cứ quốc gia nào, và ở bất cứ
khoảng thời gian nào. Vẫn đề chỉ là tính đại chúng – được nhiều
người biết đến hay không mà thôi.
1.1.3 Các trường phái hội họa phương Tây
Nhắc đến các trường phái hội họa, chúng ta hay nghĩ ngay đến
những thuật ngữ : “Trừu tượng” “Lập thể” “Ấn tượng” … Đó là
các trường phái lớn (bắt nguồn từ Châu Âu) có tầm ảnh hưởng
quốc tế, và dần trở thành quy chuẩn cho mỹ thuật thế giới.
* Ấn tượng
* Baroc
* Cấu trúc
* Chấm họa
* Dã thú
* Graffiti
* Hard-edge
* Hậu ấn tượng
* Hậu hiện đại
* Hiện đại

* Hiện thực
* Hiện thực lãng mạn
* Hiện thực xã hội
* Lãng mạn
* Lập thể
* Mannerism
* Ngây thơ
* Pop-Art
* Siêu thực
* Tân cổ điển
* Thị giác (Op-Art)
* Trừu tượng

Như đã nêu, các trường phái trên là những trường phái nổi bật
nhất, có sức ảnh hưởng mạnh mẽ nhất. Chứ không phải là toàn
bộ các trường phái mỹ thuật trên thế giới. Các trường phái hội
họa phương Tây đều có tính lịch sử, một trường phái ra đời do
phản ứng lại những hạn chế của trường phái trước đó và đến
lượt nó lại tạo cơ hội cho một trường phái mới phát triển.
1.2 Các trường phái hội họa phương Tây tiêu biểu.
1.2.1 Trường phái Ấn tượng
Ấn tượng (tiếng Pháp: Impressionnisme; tiếng Anh:
Impressionism) là một trào lưu nghệ thuật bắt đầu tại Paris
(Pháp) vào cuối thế kỷ 19. Trường phái ấn tượng đánh dấu một
bước tiến quan trọng của hội họa. Cái tên “ấn tượng” do các nhà
phê bình gọi theo một bức tranh nổi tiếng của Claude Monet:
Impression, soleil levant (Ấn tượng mặt trời mọc).
Trường phái ấn tượng hình thành từ Paris hiện đại. Đó là
chất xúc tác, là nơi xuất phát và là chủ đề của trường phái ấn
tượng. Trong thập niên 1850, Paris vẫn còn là một thành phố

thời Trung cổ với những con đường quanh co, nhỏ hẹp, thiếu vệ
sinh và thiếu cả ánh sáng. Vào khoảng thập niên 1870, thời
hoàng kim của trường phái ấn tượng, thành phố cũ già nua này
đã bị phá bỏ thành bình địa để từ đó xây dựng lại một thủ đô với
những đại lộ dài, với hàng dãy tiệm cà phê, nhà hàng, và nhà
hát.
Các họa sĩ tiêu biểu của trường phái này: Mary Cassatt, Paul
Cezanne (sau này đã rời bỏ phong trào), Edgar Degas, Max
Liebermann, Édouard Manet (tuy nhiên Manet không xem mình
thuộc phong trào), Claude Monet, Berthe Morisot, Camille
Pissarro, Pierre-Auguste Renoir, Zinaida Yevgenyevna
Serebryakova, Alfred Sisley
1.2.2 Trường phái dã thú
Trường phái Dã thú có sự phản ứng mạnh mẽ chống lại
trường phái Ấn tượng, chống lại sự mất mát không gian do dùng
quá nhiều ánh sáng, do sự phân tích tỉ mỉ, không theo quy luật
nào, vì thế chỉ là sự ngẫu nhiên và không có suy tính trước. Sự
cần thiết cho họa sĩ trường phái Dã thú là màu sắc, chứ không
phải vẽ như thấy thực tế, mà là phải sáng tạo sắc độ. Bức tranh
là một bố cục nhiều màu, không phải là sự sao chép thiên nhiên;
là sự liên tục tạo hình sống động, không là cảnh sắc vặt vụn, là
một sự bố cục màu sắc mạnh bạo, không phải là sự tình cờ đẹp
mắt.
Năm 1905, triễn lãm mùa thu ở Paris có một phòng tranh
giới thiệu những tác phẩm mới, đặc biệt dữ dội về màu sắc.
Công chúng xem tranh phản ứng khác nhau, vì có một sự thật là
một loạt tiêu chí hội họa cổ điển nữa đang bị phá vỡ. Phòng
tranh được nhà phê bình LuisVauxcelles gọi là ” Chuồng dã thú
“, và cái tên Dã thú đã bước vào lịch sử hội hoạ Thế giới. Tên
goi đó rất phù hợp với các họa sĩ này bởi vì những màu sắc mà

họ sử dụng là dữ dội một cách cố tình.
Khuynh hướng Dã thú ra đời đầu thế kỷ XX, phát triển cực
thịnh năm 1905 – 1906, có dấu hiệu suy tàn năm 1907 và chấm
dứt hoạt động trước chiến tranh Thế Giới thứ nhất để chuyển
sang những phong cách rất khác nhau. Những thành viên tiêu
biểu là: Henri Matisse, Vlaminck, Derain, Van Doghen,
Marquet, Dufy….
1.2.3 Trường phái lập thể
Chủ nghĩa lập thể, còn gọi là trường phái lập thể, (Cubism)
là một trường phái hội họa tạo ra cuộc cách mạng về hội họa và
điêu khắc châu Âu vào đầu thế kỷ 20.
Trong tác phẩm của họa sỹ lập thể, đối tượng được mổ xẻ,
phân tích và được kết hợp lại trong một hình thức trừu tượng.
Người họa sỹ không quan sát đối tượng ở một góc nhìn cố định
mà lại đồng thời phân chia thành nhiều mặt khác nhau, nhiều
khía cạnh khác nhau. Thông thường các bề mặt, các mặt phẳng
giao với nhau không theo các quy tắc phối cảnh làm cho người
xem khó nhận ra chiều sâu của bức tranh.
Chủ nghĩa lập thể do Georges Braque và Pablo Picasso khởi
xướng năm 1906 tại khu Montmartrecủa kinh đô ánh sáng Paris,
Pháp. Họ gặp nhau năm 1907 và làm việc cùng nhau cho đến
năm 1914 khi Đệ nhất thế chiến bắt đầu.
Lập thể ảnh hưởng tới các nghệ sỹ vào thập niên 1910 và
khơi dậy một vào trường phái nghệ thuật mới như chủ nghĩa vị
lai, chủ nghĩa cấu trúc và chủ nghĩa biểu hiện.
Các họa sỹ lập thể nổi tiếng của trường phái này: Georges
Braque, Marcel Duchamp, Juan Gris, Fernand Leger, Jacques
Lipchitz, Louis Marcoussis, Marie Marevna, Jean Metzinger,
Francis Picabia, Pablo Picasso, Liubov Popova, Marie
Vassilieff, Fritz Wotruba…

1.2.4 Trường phái trừu tượng
Nghệ thuật Trừu tượng là trào lưu hội họa đầu thế kỷ 20,
vào những năm 1910 đến 1914. Nghệ thuật trừu tượng không
thể hiện đối tượng một cách hiện thực như mắt nhìn thấy mà
biểu thị những ý nghĩ, cảm xúc của nghệ sĩ về một vài nét nào
đó của đối tượng. Trong nghệ thuật tạo hình, trừu tượng là sự
phát huy yếu tố biểu đạt của đường nét, hình khối, màu sắc để
thể hiện ý tưởng hay cảm xúc. Trừu tượng cũng tồn lại nhiều
dạng: trừu tượng hình học, trừu tượng sáng tạo, trừu tượng biểu
hiện
Hội họa trừu tượng giống như sự kết hợp của Lập thể và Dã
thú, lập thể về hình khối và dã thú về màu sắc. Trừu tượng có
thể xem như hệ quả tất yếu của Lập thể. Khi trường phái Lập thể
đi đến thoái trào, nhiều họa sĩ Lập thể chuyển sang vẽ trừu
tượng. Trong đó hai họa sĩ chuyển hướng đầu tiên là Robert
Delaunay và Frank Kupka.
Nghệ thuật Trừu tượng xuất hiện ban đầu ở nhiều quốc gia
châu Âu như Pháp, Đức, Hà Lan, Nga. Về sai nó trở thành một
trào lưu quốc tế và đạt đỉnh cao vào giữa thế kỷ 20.
1.2.5 Trường phái siêu thực
Dựa trên những học thuyết: Phân tâm, Trực giác và Nhận
thức, chủ nghĩa siêu thực đã ra đời với một quan niệm có một
thế giới ở trên ta, một thế giới cần phải khám phá. Họ cho rằng
thế giới mà ta đang sống nằm trong tầng bao quát của lý tính,
còn thế giới siêu thực vượt ra ngoài tầm bao quát đó. Những
nghệ sỹ tiêu biểu của trường phái này gồm: Sanvado Dali, Max
Ernst, Magritte, Chagall với những tác phẩm : “Sự bền lâu của
ký ức” (1931), “Thế giới vô hình” (1954), “Nỗi sầu và vẻ bí mật
của đường phố” (1914)
Mỗi trường phái hội họa đều có quan điểm riêng về cái đẹp,

quyết định riêng việc lựa chọn đề tài, phương cách vận dụng
ngôn ngữ tạo hình và xử lý kỹ thuật chất liệu riêng để đạt hiệu
quả mong muốn. Xã hội càng phát triển, nhận thức của con
người càng cao thì các trường phái hội họa càng lớn mạnh, càng
xuất hiện nhiều trường phái mới.























CHƯƠNG 2: NHỮNG NÉT NỔI TRỘI TRONG VIỆC SỬ
DỤNG MÀU SẮC VÀ QUAN NIỆM SÁNG TÁC CỦA MỘT

SỐ TRƯỜNG PHÁI HỘI HỌA PHƯƠNG TÂY.

2.1 Màu sắc trong hội họa phương Tây
2.1.1 Màu sắc trong tranh Phục Hưng – hội họa truyền
thống tả thực.
Trong suốt hơn một nghìn năm chìm trong đêm trường
Trung cổ (khoảng năm 350 cho tới năm 1453), toàn bộ châu Âu
như bị bao trùm bởi một bóng đen kìm hãm sự phát triển về
nhiều mặt, trong đó có nghệ thuật. Nghệ thuật chỉ hoàn toàn
phục vụ Nhà thờ. Với văn học, hết thảy những trường ca kể lại
cuộc chiến đấu chống lại quỷ cám dỗ hoặc chiến đấu vì nhà vua.
Kiến trúc tôn giáo phát triển mang phong cách Roman nặng nề
biểu hiện uy quyền to lớn của Chúa, sau đó là phong cách
Gothique nhẹ nhàng hơn với xu thế vươn lên cao hướng tới
Thiên đường. Hội hoạ không có giá trị riêng, nó phụ thuộc hoàn
toàn vào kiến trúc vì chỉ được sử dụng với mục đích trang trí
nhà thờ và minh hoạ các tích trong Thánh Kinh Chỉ tới khi
người Thổ Nhĩ Kỳ thực hiện cuộc tấn công (1453),
Constantinople thất thủ, các học giả Hy Lạp từ Byzantine chạy
nạn sang Tây Âu đã mang theo các tác phẩm nghệ thuật và triết
học Hy Lạp cổ đại khiến Châu Âu hết sức kinh ngạc. Từ đó dấy
trong tầng lớp trí thức và nghệ sĩ Châu Âu khát khao tìm kiếm
các giá trị cũ rực rỡ, sáng tạo những giá trị mới. Một thời kỳ mới
của nghệ thuật được mở ra. Người ta gọi đó là thời kỳ văn nghệ
Phục hưng châu Âu.
Thời kỳ này, hội họa thu nhận bộ khung khoa học thấu thị
và giải phẫu làm cho trình độ tả thực tái hiện khách quan chưa
từng có. Từ thế kỷ XV người ta đã phát hiện ra sơn dầu. Để vẽ
những vật có sự chuyển biến về khối các tác giả thường lấy màu
pha với màu đen để tạo ra bóng tối. Sự chuyển biến đậm nhạt

bằng cách pha các màu với màu đen làm cho các hoạ sỹ diễn tả
rất tinh tế trong phong cảnh cũng như khi vẽ người. Bản chất
của sơn dầu là đục nên khi pha với màu đen nó thường tạo nên
hòa sắc trầm ấm. Vì vậy trong các tác phẩm hội hoạ cổ điển ánh
sáng rất sâu, hình ảnh của mọi vật có khối tích được nghiên cứu
rất kỹ. Tác phẩm 'Nàng Danei' của hoạ sĩ Hà Lan Rembrandt
(1606 – 1669) vẽ nàng Danei nằm trên giường có trải ga trắng,
xung quanh căn phòng và giường được chạm nổi rất tinh tế và
sâu sắc. Họa sỹ đã diễn đạt rất thành công và sống động cái ánh
sắc của vàng tràn ngập trong căn phòng. Cách thức pha trộn màu
với màu đen đã tạo ra hoà sắc ở trong tranh tuy tinh tế nhưng
làm cho người xem vẫn có cảm giác khô, chặt. Họa sĩ Paul
Rubens ngày đó được coi là người thiên về lối vẽ mạnh, dùng
màu tương phản rực rỡ. Trong tranh “Những đứa trẻ với vòng
hoa quả xanh”, ông đã dùng màu rất tươi để tả vẻ đẹp con
người, nhất là phụ nữ và trẻ em. Dưới ngọn bút của họa sĩ, ta
cảm tưởng như không phải là mầu mà là sắc của da, của máu
thật sự sinh động; hay trong tranh “Angélique và Ermite” là sự
tương phản giữa hai thái cực gần xa, sáng tối giữa sức sống căng
tràn của tuổi trẻ với tuổi già xế chiều yếu ớt. Không gian trong
tranh thanh bình, yên ả. Người phụ nữ đẹp say sưa trong giấc
ngủ của tuổi thanh xuân, phô bày sự khoẻ mạnh, cơ thể nõn nà,
toàn thân thể toát nên một vẻ đẹp nữ tính, một tác phẩm hoàn
thiện của tạo hoá. Những sắc màu được chuyển tinh tế để diễn tả
cái óng ả và mịn màng của làn da phụ nữ đối lập với màu đỏ tím
của nhân vật ông già như nhòa vào sắc lục trầm làm tôn thêm
màu sắc của tuổi thanh xuân thật cuốn hút, sinh động. Delacroix
(1798-1863) một danh hoạ kiệt xuất người Pháp có nhiều đóng
góp cho di sản hội hoạ thế giới bằng các tác phẩm như “Thần tự
do trên chiến luỹ”(1830) thể hiện cuộc cách mạng dân chủ

chống lại sự thống trị của triều đình. Bức tranh có bố cục chặt
chẽ, màu sắc hài hòa, đặc biệt màu đen được dùng dàn trải đôi
chỗ mạnh mẽ, thế dáng các nhân vật sống động và có kịch tính.
Song cái thành công nhất đem lại dụng ý của tác giả lại là vấn đề
sử dụng màu sắc. Độ tương phản mạnh của các màu nóng, lạnh
đã mang yếu tố quyết liệt, biểu hiện sự vùng lên thay đổi tình
trạng bế tắc. Đó là hình tượng thần tự do dẫn dắt nhân dân
nhưng cũng còn hiểu theo nghĩa tự do của nghệ thuật lãng mạn
chống lại chính quyền chuyên chế, bảo thủ của nguyên tắc cổ
điển.


Nàng Danei – Sơn dầu Rembrandt


Thần tự do trên chiến luỹ- Sơn dầu Delacroix

Phải công bằng mà thấy toàn bộ hệ thống tranh cổ điển và
thời kỳ Phục hưng tuy được diễn tả hết sức tinh tế nhưng vẫn
gây cho người xem những cảm giác nặng nề do cách vẽ nhằm
chủ yếu diễn đạt khối, bóng tối - ánh sáng.
2.1.2 Màu sắc trong hôi họa Ấn tượng
Bản chất của nghệ thuật luôn phát triển và không ngừng
được tìm tòi khám phá. Mỗi tác giả đều chú trọng tới yếu tố của
ngôn ngữ tạo hình như đường, nét, hình mảng để làm phương
tiện biểu hiện tạo ra sự đa dạng cho tác phẩm nghệ thuật, có lúc
thiên về diễn tả sáng tối, có lúc chú trọng về hình thể, không có
tác giả nào xem nhẹ màu sắc, bởi khả năng biểu hiện của ánh
sáng bóng tối, không gian, thời gian, vật chất tất cả đều liên
quan đến sức biểu hiện của màu sắc. Nhưng sức mạnh to lớn của

màu sắc chính là biểu hiện thế giới nội tâm của con người.
Chuyện xảy ra thật tình cờ khi một nhóm các hoạ sĩ đi vẽ
ngoài trời. Trong hành trang của họ mang theo để vẽ có đầy đủ
các màu. Trớ trêu thay các hoạ sĩ lại quên mang theo mầu đen.
Cảnh vật trước mắt dưới ánh nắng chan hoà là nguồn cảm hứng
khiến các hoạ sĩ bắt tay ngay vào vẽ. Với sự cuốn hút của sắc
màu cây cối, hoa lá và ánh nắng vàng rực buổi bình minh họ đã
diễn tả ánh sáng vô cùng ấn tượng. Chỉ khi hoàn thành những
tác phẩm trực họa mọi người mới nhận ra một điều: Không có
màu đen vẫn vẽ được và thậm chí, nhiều khi còn vẽ đẹp hơn.
Đây là buổi đầu của nhóm hoạ sĩ mà sau này trở thành một trào
lưu, một trường phái. Đó là trường phái Ấn tượng trong hội hoạ.
Không có đen họ tạo ra màu đen bằng cách pha đỏ và xanh. Với
cách thức đó họ thấy màu đen được tạo ra có rất nhiều sắc. Khi
thì là sắc đen nâu, lúc là sắc đen xanh, có lúc sắc đen ẩn chứa rất
nhiều màu của cảnh vật tác động vào.
Hội họa Ấn tượng ra đời từ đó và nó đã đánh dấu một bước
ngoặt mới mở đường cho sự hình thành các khuynh hướng tạo
hình thế kỷ XX. Màu sắc trong tranh là những hệ quả tất yếu của
hiện tượng phản xạ và khúc xạ ánh sáng. Họ đã biết vận dụng
một cách linh hoạt những lý thuyết cơ bản về quang học. Các
họa sĩ giải thích: Mỗi chất liệu cho thấy một màu nhất định
nhưng vật thể vừa bị nhuốm bởi màu của ánh sáng lại vừa chịu
ảnh hưởng các màu của vật thể khác, kể cả màu của nền trời. Họ
còn nắm được quy luật bổ túc của các màu. Để tả phần sáng ít
dùng trắng mà thay vào đấy bằng màu vàng nhạt hoặc da cam,
do vậy các bóng tối thường bị nhuốm lam, nhuốm chàm. Vì màu
trắng được dùng hạn chế nên màu tương phản là đen cũng ít
được dùng, thậm chí không có trong bảng màu. Chính Édouard
Monet còn coi “Màu đen là kẻ thù của Ấn tượng” vì ông lập

luận và cho rằng trong ánh sáng không hề có màu đen. Có thể
nói Monet đã tạo ra Ấn tượng và tranh của ông là những gì
thuộc về sự điển hình của Ấn tượng. Hoà sắc biến hoá khôn
lường tuỳ theo sự biến đổi của thiên nhiên.Màu sắc của tranh
Van Gogh trong trẻo đến lạ lẫm, ông nhìn sự vật, miêu tả sự vật
bằng các màu táo bạo và độc đáo, đặc biệt là màu xanh cobal.
Nó xuất hiện khắp mọi nơi như trong tác phẩm “Các Quý bà ở
Arles” (1880) hay “Nhà ở nông thôn”(1890). Hậu thế luôn coi
Van Gogh là “Ông Hoàng” của màu sắc.


Hoa Diên vĩ –Sơn dầu Vincent Van Gogh

Có thể khẳng định rằng chủ nghĩa Ấn tượng ra đời đã làm
cho bảng mầu của nghệ thuật hội hoạ được bổ sung và thay đổi.
Phần lớn các hoạ sĩ Ấn tượng dùng màu nguyên chất, xóa bỏ các
màu trung gian như trắng, đen. Thậm chí trong bóng tối cũng
không dùng màu đen. Màu sắc trong tranh Ấn tượng được vẽ
trực hoạ của ánh sáng ngoài trời nên rất tươi tắn, lung linh,
huyền ảo mang đậm hơi thở cuộc sống. Thật tình cờ, vì quên
màu đen mà họ đã thay đổi quan niệm và cách vẽ màu. Nhưng
điều quan trọng hơn cả là họ đã khai mở một hướng đi mới, một
quan niệm mới, châm ngòi dẫn dắt cho sự phát triển các xu
hướng hội hoạ modec và hậu modec sau này.
2.1.3 Màu sắc trong hội họa Dã thú.
Vào năm 1905, Những bức họa của Henri Matisse , Camoin,
Marquet, đã gây sốc lớn đối với những con mắt đang no nê chủ
nghĩa Ấn tượng. Không biết một trường phái của hội họa đã ra
đời, nhà báo L.Vauxcelles đã thốt lên “Ôi! cái ông Marquet
khốn khổ này, quả là Donatello trong chuồng nhốt đầy thú”. Từ

đó lịch sử mỹ thuật thế giới ghi tên trường phái Dã thú để mở
đầu chương thế kỷ XX. Những con thú mê đắm và đẹp ghê gớm
của cánh rừng hoang dại đầy bí ẩn đánh thức bản năng săn mồi,
phấn khích bởi những cơn cuồng nộ và chiếm đoạt.

Âm nhạc – Sơn dầu Henri Matisse

Thế giới trong tranh Dã thú được tạo lập như trong cơn kịch
phát dữ dội của núi lửa phun trào nham thạch phát sáng và tỏa
nhiệt. Màu sắc được hoán vị thể hiện sinh động. Không giống
với Ấn tượng các họa sĩ Dã thú thật công bằng với màu sắc kể
cả màu trắng hay màu đen miễn là nói được chính khát khao ước
muốn sáng tạo.
2.1.4 Màu sắc trong hội họa Siêu thực
Mỗi một khuynh hướng đều có những đóng góp những tiếng
nói riêng, cách thức thể hiện và xu thế dùng màu riêng. Ví như
chủ nghĩa Siêu thực xuất hiện đầu thế kỷ XX kéo dài sau chiến
tranh thế giới lần thứ I (phát triển mạnh khoảng 1920-1930). Nó
nổi lên nhằm chống lại tất cả những luật lệ về hình thể, những
quy ước lô-gíc và đạo đức xã hội. Mục đích chính của phong
trào Siêu thực là “giải quyết tình trạng mâu thuẫn tồn tại giữa
mộng và thực” đưa nó tới một thực tế tuyệt đối: “Trạng thái siêu
thực”. Tiêu biểu cho thời kỳ này là các họa sĩ: Salvador Dali,
Paul Klee. Vì đi sâu miêu tả trạng tái cảm xúc không thực tại
nên cách dùng màu của Siêu thực là sự thừa hưởng của hội họa
trước đó. Không tuyệt đối hóa ánh sáng như ở Ấn tượng, không
“lười nhác” bóp mầu từ ngay trong tuýp vẽ như Dã thú, cũng
không chuẩn mực hóa ánh sáng và thâm diễn như Cổ điển. Có
thể nói với Siêu thực thì màu sắc, ánh sáng chỉ là phương tiện để
chuyển tải cái mơ, cái siêu hình trong tâm tưởng vốn đầy hoài

bão của các họa sĩ mà thôi.
2.1.5 Màu sắc trong hội họa Trừu tượng.
Khoảng những năm 1910-1914, một số họa sĩ không chấp
nhận việc thờ ơ với vật chất thực tại để tiến hành thực hiện hóa
tư duy lý tưởng đã vẽ tranh bằng các đường hình học cơ bản.
Phát huy khả năng tối ưu của đường nét, màu sắc, hình khối để
tạo nên cái chung có trật tự và chuyển đến các giác quan sự nhạy
cảm hoặc sự suy nghĩ về những ý tưởng. Hội họa Trừu tượng ra
đời như vậy. Nghệ thuật Trừu tượng có đặc tính tách biệt đến
mức lạc lõng các yếu tố hoặc các ý tưởng riêng biệt của nghệ sĩ.
Chính vì vậy người ta thấy nghệ thuật Trừu tượng thật khó hiểu,
không nhằm thể hiện những gì mọi người dễ nhận thấy. Màu sắc
trong tranh cũng thật đa dạng bởi khi không còn phụ thuộc vào
hình thể thì tính biểu đạt của màu mới thực sự được phát huy và
đem lại giá trị đích thực.

Trong màu lam – Sơn dầu Wassily Kandinsky
2.2 Quan niệm sáng tác
Trải qua hàng trăm năm đến đêm trước thế kỷ XVIII, hội hoạ
tả thực mới bắt đầu hoài nghi, trăn trở, thăm dò. Bên cạnh đó,
hội hoạ phương Đông với truyền thống tả thực và tả ý cùng với
nghệ thuật nguyên thuỷ từ lâu đã truyền vào sự phát triển hội
họa phương Tây sức sống mới, để cuối cùng thay dây đổi
hướng, xuất hiện hội họa hoàn toàn không mô phỏng theo sự vật
khách quan. Cứ thế trên con đường nghệ thuật, nó cùng với hội
hoạ truyền thống tả thực sánh vai cùng tiến một cách hoà bình.
Mỗi tác giả đều chú trọng tới yếu tố của ngôn ngữ tạo hình
như đường, nét, hình mảng để làm phương tiện biểu hiện tạo ra
sự đa dạng cho tác phẩm nghệ thuật
2.2.1 Quan niệm của các họa sĩ Ấn Tượng

Có thể coi Ấn tượng là giao thoa của nền mỹ thuật kinh viện
và mỹ thuật hiện đại. Ngay từ đề tài các hoạ sĩ phản ánh cũng là
những cuộc sống đời thường thay vì trước đó người ta chỉ ca
ngợi diễn tả về tôn giáo, lịch sử và huyền thoại. Luận điểm của
các họa sĩ Ấn tượng rất đơn giản: Vẽ thế nào và vẽ bất cứ cái gì
cũng được miễn là có sự hiện diện của ánh sáng. Hoạ sĩ người
Pháp Édouard Monet (1832-1883) còn nói: “Nhân vật chính
trong bất cứ bức tranh Ấn tượng nào cũng là ánh sáng”. Tuyên
ngôn chính của Ấn tượng là lột tả vẻ đẹp của ánh sáng, đặc biệt
là ánh sáng thiên nhiên
Hoạ sĩ Pháp Paul Cézanne (1839 - 1906) lại tìm cách đi
riêng, với tuyên ngôn gạt bỏ đường nét ra khỏi tranh bởi ông quả
quyết: “Sự vật không có đường nét, muốn tách các vật thể ra
khỏi nhau chỉ cần màu sắc là đủ”. Ông chú trọng tới màu lục,
màu cây cỏ và nghiên cứu sự biến hoá của nó. Trong thể loại
phong cảnh ông thường chọn khung cảnh đơn giản tập chung
khai thác các sắc thái của màu lục được chuyển biến sang xanh
rêu và lam, đôi chút ngả sang vàng đất. Cách nghiên cứu màu
này còn ảnh hưởng tới thể loại tranh chân dung của ông như “Tự
họa với mũ lưỡi trai” (1873), “Người hút thuốc”(1895), “Chơi
bài”(1897)
Nếu như Paul Cézanne nghiên cứu và làm việc một cách cẩn
trọng với màu lục thì họa sĩ Hà Lan Vincent Van Gogh (1853-
1890) lại dùng màu sắc theo cảm xúc kết hợp với các vệt bút
mạnh, xoắn điển hình. Tranh ông luôn là bảng màu rực rỡ bởi
ông có cách nhìn rất khoáng đạt, không bị tuân thủ theo nguyên
tắc nào.
2.2.2 Quan niệm sáng tác của các họa sĩ Dã thú
Cánh rừng hoang dại mà các họa sĩ Dã thú mong muốn vượt
qua là rào cản chuồng cũi, là nơi màu sắc và hình thể không bị

giam hãm bởi những định kiến cố hữu, nơi cảm quan đầy tính
năng sáng tạo chiến thắng thị giác dễ chiều theo thói quen và áp
lực số đông. Maurice de Vlaminck đã tự bạch về bản chất
trường phái Dã thú mà ông theo đuổi: “Nếu không có năng
khiếu hội họa sáng tạo, cống hiến hẳn tôi đã trở nên thảm hại,
cái mà tôi chỉ có thể nói lên trong một bối cảnh xã hội bằng việc
tung ra một trái bom thì việc đó sẽ đưa tôi lên đoạn đầu đài, tôi
thử nói lên trong nghệ thuật của mình bằng việc dùng những
màu nguyên chất lấy ngay từ ống tuýp ra. Như vậy tôi đã có thể
sử dụng những bản năng dữ dội của mình để tái tạo ra một thế
giới cảm quan sống động và tự do”.
Tuyên ngôn của các họa sĩ Dã thú được phát biểu sinh động
qua tác phẩm tiêu biểu nhất của trường phái này là “Niềm vui
cuộc sống” của Danh họa Henri Matisse. Những màu sắc xuất
phát từ bản nguyên không bị pha trộn bởi tự nhiên hay thị kiến
chiếm lĩnh vị trí tồn tại duy nhất trên bức tranh. Bởi thế mà
trường phái Dã thú còn được coi là bữa tiệc một món duy nhất
mang tên “Mầu sắc”. Tuy chỉ tồn tại một thời gian ngắn ngủi
(1911-1933) nhưng các họa sĩ Dã thú đã khai mở, tạo tiền đề
cho các cuộc cách tân hình thành những trường phái hội họa
mới như Đa đa, Siêu thực
2.2.3 Quan niệm sáng tác của các họa sĩ Siêu thực.
Các họa sĩ Chủ nghĩa Siêu thực say mê cái kỳ quặc, phi lý,
muốn nổi loạn trong cách diễn đạt màu sắc và tiến hành thực
hiện hóa tư duy và ý tưởng. Không coi trọng vật chất thực tại,
trong sáng tác chỉ biết cái thuộc về tâm tưởng. Có lẽ sự tàn khốc
của chiến tranh đã làm cho các nghệ sĩ mất lòng tin nên họ có xu
hướng lẩn trốn thực tại.
Đi sâu miêu tả trạng tái cảm xúc không thực tại ,chuyển tải
cái mơ, cái siêu hình trong tâm tưởng vốn đầy hoài bão của các

họa sĩ qua các bức tranh.
2.2.4 Quan niệm sáng tác của các họa sĩ Trừu tượng.
Xu hướng Trừu tượng lúc sơ khai nhận không ít những lời chỉ
chích, thậm chí còn bị vùi dập. Họa sĩ, nhà nghiên cứu nghệ
thuật Nga Wassily Kandinsky (1866-1944) đặt câu hỏi: “Cái gì
tạo nên hội họa? Tất nhiên là hình tượng nghệ thuật. Nhưng bản
thân hình tượng chưa phải là nghệ thuật. Nên lấy đi hình tượng
đi, chỉ cần để lại màu sắc và hình khối”. Từ những quan niệm
trên, nghệ thuật Trừu tượng hiện đại đã làm nảy nở rất nhiều
phong trào và chủ nghĩa Trừu tượng như “Trừu tượng hình
học”, “Trừu tượng Biểu hiện”, “Trừu tượng sáng tạo”, “Trừu
tượng phi hình” Tuy các khuynh hướng nghệ thuật trừu tượng
mang những tên gọi khác nhau, ở những nơi khác nhau nhưng
chúng vẫn có những hình thức thể hiện gần giống nhau và luôn
mang tới cho người xem một điều gì bí hiểm, khó hiểu hay một
triết lý nào đó.
Mỗi họa sỹ trừu tượng vẽ theo ý riêng còn cảm nhận là tuỳ
vào người xem. Họ vừa giải phóng tạo hình, vừa trả lại cho công
chúng quyền đánh giá tác phẩm hội họa theo trình độ kiến thức
và năng lực cảm thụ cá nhân.






















PHẦN KẾT LUẬN

Sự ra đời và phát triển của các trường phái hội họa là một
quy luật tất yếu của cuộc sống, trải qua nhiều thế kỉ đã ra đời và
tồn tại nhiều quan niệm sáng tác và quan điểm thẩm mĩ trái
ngược nhau. Để thể hiện những quan niệm đó chắc chắn sẽ dẫn
đến những thay đổi trong ngôn ngữ hội họa.
Mỗi trường phái hội họa đều có quan điểm riêng về cái đẹp,
quyết định riêng việc lựa chọn đề tài, phương cách vận dụng
ngôn ngữ tạo hình và xử lý kỹ thuật chất liệu riêng để đạt hiệu
quả mong muốn.
Hội họa là một bộ môn nghệ thuật phục vụ cuộc sống, phản
ánh cuộc sống có trách nhiệm làm thỏa mãn những nhu cầu về
vật chất, tinh thần của con người vì vậy việc các họa sĩ dày công
tìm tòi, khám phá thêm những chất liệu, màu sắc mới, sáng tác
nên những tác phẩm đẹp cũng chỉ một mục đích duy nhất là làm
đẹp cho cuộc đời, làm thăng hoa cho cuộc sống. Màu sắc còn là
tâm hồn của mỗi dân tộc thuộc về mặt tâm lý và phong tục, là
tiếng nói quan trọng của bức tranh, tiếng nói tình cảm của người

họa sĩ. Màu sắc không thể tách rời khỏi môi trường nuôi sống
con người, nó tạo nên nét đặc sắc cho từng dân tộc. Bản thân
của màu sắc không có cá tính nhưng việc sử dụng, kết hợp màu
sắc lại phần nào nói lên được suy nghĩ, cá tính, sức khỏe, tâm
trạng… của người thể hiện. Nó phụ thuộc vào thị hiếu của từng
người sử dụng cũng như sự biểu cảm của người nghệ sĩ.












TÀI LIỆU THAM KHẢO


1- Lê Năng An - Những trào lưu của nghệ thuật tạo hình
hiện đại –– NXB Văn hoá thông tin 1998
2- Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
3- Vương Hoằng Lực - Nguyên lý hội hoạ đen trắng –– NXB
Mỹ thuật 2002
4- Taromer Uzdll – Một trăm năm màu sắc – Tài liệu dịch
5- Từ điển thuật ngữ Mỹ thuật phổ thông – NXB Giáo dục -
2002


×